cuonghanh
15-09-2012, 02:28 PM
(Đọc trên mạng loạt phóng sự của cây bút gạo cội Nguyễn Hồng Lam, tôi thấy chùm bài về Tướng cướp Khoái đù rất thú vị nên chia sẻ cùng anh em diễn đàn. Không chỉ đơn giản là kể lại cuộc đời phiêu bạt của một tướng cướp mà qua ngòi bút Hồng Lam, ta thấy hiện lên chân dung một con người khí phách ngang tàng, trọng nghĩa, khinh tiền tài và đậm chất giang hồ vùng vẫy)
Tên cướp lừng danh, võ sĩ không đối thủ, tay chơi siêu hạng… được nhắc đến với tên Khoái "đù" hoá ra chỉ là một ông không ra già, cũng chẳng còn trẻ, tóc húi cua, cao chừng mét rưỡi! Hỏi, ông ta cười: "Nhà nghèo, những 7 anh em, cơm không đủ no thì lấy chi mà lớn".
Tên thật của gã là Đoàn Đắc Tô, sinh năm 1948, quê ở thôn Ma Nê, xã Phong Chương, Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Gã từng có một khởi đầu khá hào hùng. Tham gia biệt động thành Huế năm 1964, năm 1966, 2 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Mùa hè năm 1967, Mỹ mở một trận càn lớn từ Huế ra Quảng Trị, Khoái chỉ huy tiểu đội của mình phục kích, áp dụng lối đánh đặc công tiêu diệt gọn cả một đoàn xe tăng Mỹ. Sau khi về chiến khu nhận danh hiệu Dũng sĩ diệt xe tăng, Khoái được gửi ra miền Bắc. Đó vừa là phần thưởng, vừa là một sự đền bù. Người yêu và 4 người anh trai của Khoái đã lần lượt hy sinh!
Ngày 25/11 năm Mậu Thân (1968), Đoàn Dũng sĩ miền Nam ra đến Hà Nội. Sau thời gian nghỉ dưỡng, Khoái được đưa đi bồi dưỡng văn hoá tại Trường học sinh miền Nam T64 ở Đông Triều, Quảng Ninh, sau đó được gửi học lớp Trung cấp lắp máy tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Ra trường, gã được điều về công tác tại công trường B5, chợ Mỏ Chè, thị trấn (nay là thị xã) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
Giữa đời sống thắt lưng buộc bụng và kỷ luật của miền Bắc XHCN những ngày chiến tranh, Khoái như một kẻ lạc loài. Ngổ ngáo, tóc dài, đánh nhau như cơm bữa, đã không ít lần Khoái bị triệu về đồn Công an. Hậu phương miền Bắc không nỡ "mạnh tay" đối với một học sinh miền Nam xa quê đã từng nhiều lần là dũng sĩ. Đáng tiếc, nghĩa tình không phải lúc nào cũng là giải pháp hiệu quả trong việc cảm hoá con người. Chửi thề phèn phẹt, gã trở nên nổi tiếng với biệt danh Khoái "đù".
Năm 1974, Khoái là Đội phó Đội Lắp máy tại công trường. Một hôm, khi xe xítđờca của Công an vừa tiến vào khu lán trại tập thể, người bạn cùng phòng tên là Trần Văn Q đã đột nhiên kêu lên "chết tôi rồi" và đấm ngực khóc. Nương theo ánh mắt tuyệt vọng của bạn, Khoái phát hiện ra dưới gầm giường của mình có 2 cuộn thép công trường. Q thanh minh: "Lương chưa có, vợ thì sắp đẻ, tôi trót làm liều". Một thoáng ngần ngừ, Khoái vơ vội tấm áo và đi ra cửa. Đến trước mặt hai anh Công an, Khoái chìa tay ra: "Là tôi lấy. Mấy cuộn thép tôi đang giấu dưới gầm giường".
Lời khai ăn khớp, tang chứng vật chứng rõ ràng, chẳng ai nghi, Khoái bị Toà án tỉnh Thái Nguyên tuyên buộc 12 tháng tù. Nhưng Trung uý Nguyễn Trường Xuân, Đồn phó và Thiếu uý Nguyễn Xuân Thuỷ, cán bộ chấp pháp của Đồn Công an số 4 thì vẫn hoài nghi. Khi Khoái đã lĩnh án, họ vẫn tìm vào tận trại giam tra gặng. Khoái đành thú thật: gã tưởng rằng với lý lịch của mình, luật pháp sẽ dung thứ nên nhận bừa cứu bạn. Ông Xuân mắng xối xả: "Mày ngu lắm!". Ông dặn Khoái: "Đã trót rồi thì bình tĩnh mà cải tạo, chúng tôi sẽ xem xét lại".
Khổ, bình tĩnh lại là thứ Khoái không hề có. Một hôm, đang xẻ gỗ thì Tiến "bún", một bạn tù người Hải Phòng bị Toàn "lùn" và nhóm tù dân Hà Bắc cậy đông bắt nạt. Thấy Tiến bị Toàn nện guốc gỗ vào đầu, Khoái lại nổi điên, lao tới đá cho Toàn lộn nhào. Sợ bị kỷ luật, gã đã bẻ rào trốn trại, không hề biết chuyện chỉ cần nhẫn nại thêm chừng một tuần là có thể được minh oan và phóng thích. Chẳng ai dám chứa chấp, gã cứ quanh quẩn quanh khu vực Sông Công, Đồng Hỷ, Thái Nguyên... "nhặt" của người này sợi dây chuyền, "mượn" của người kia mớ tem phiếu. Án cũ chưa kịp được giải, gã đã tự gây án mới, toàn những tội danh lặt vặt, cuối cùng lại bị bắt đưa về Trại giam tỉnh Thái Nguyên ở Km 7. Giữa năm 1976, gã được tha, nhưng lý lịch có thêm hàng chữ đen đúa "2 lần trốn tù".
Trở lại Công ty Lắp máy ở Hà Nội, Khoái không bị đuổi nhưng cũng chẳng được ai bố trí công việc. Ở nhà ăn tập thể, mọi người trong bàn đều bỏ sang bàn khác khi Khoái bưng bát đến ngồi. Về quê, cha ruột cũng đuổi: "Nhà này không chứa chấp loại ăn cắp vặt!". Bí đường, Khoái lại lộn về Thái Nguyên vạ vật.
Ăn cắp vặt thì nhục, Khoái quyết định… ăn cắp lớn. Thỉnh thoảng Khoái lại rủ thêm vài gã chiến hữu nhắm vào những nhà buôn bán giàu có hoặc kho hàng của nhà nước khoắng một mẻ đậm, sau đó trốn về Hà Nội ăn chơi. Có lần Khoái ngỏ ý mượn "mấy nghìn" của Toàn Côi, một tay buôn lớn. Tay này biết Khoái, nể thì có nể nhưng dứt khoát không cho mượn vì "Khoái "đù" trên răng dưới… cát tút, mượn cũng như cướp lấy gì mà trả?". Giận quá, chỉ ít ngày sau, Khoái tổ chức 4 thằng đàn em đột nhập nhà Toàn vơ sạch. Biết rõ thủ phạm, nhưng Toàn đành ngậm bồ hòn làm ngọt vì không có bằng chứng, sợ Khoái nổi máu "chơi" thêm cho phát nữa. Thuỷ, chủ một hiệu buôn xe đạp nhưng cũng thừa máu giang hồ nghe tiếng cười khẩy: "Khoái "đù" đột vòm giỏi lắm, sao không thử đột nhà này?" Chưa đầy 48 giờ sau, két sắt trong cửa hiệu đột nhiên biến mất.
Chưa bao giờ bị bắt quả tang nhưng Khoái bị liệt vào dạng lưu manh chuyên nghiệp, bị bắt đi tập trung cải tạo nhiều lần. Bắt là trốn, Khoái chẳng mấy khi ngồi trại lâu. Có lần, thấy Khoái bị dẫn vào, ông Nguyễn Bá Tơ, Giám thị Trại Phú Sơn 4 đã hỏi gã: "Anh còn định trốn nữa không?". Khoái trả lời lễ phép nhưng rất… hỗn: "Dạ, còn tuỳ, vui thì ở, buồn thì trốn". Mỗi buổi cơm, gã đều âm thầm nhón một nhúm muối, về trát vào song sắt cửa sổ buồng giam và một đoạn rào dây thép gai ở trại. Gần một năm sau, lợi dụng đêm tối, gã lại bẻ song, vạch rào đào thoát.
Lê Tự Lâm, một người bạn học sinh miền Nam bảo Khoái: "Nhận tội, đi tù còn có án, còn có ngày về làm lại cuộc đời. Trốn tránh mãi cũng có ngày bị bắt tập trung cải tạo, án vô thời hạn. Không lẽ mày muốn cả đời làm một thằng lưu manh?". Khoái nghe có lý. Về lại Thái Nguyên, gã tập hợp đàn em, lừa bạn cũ đang lái xe cho một cơ quan nhà nước, mượn được một chiếc xe tải, định bụng "hốt ổ" kho bách hoá ở thị xã. Nửa đêm, điều hẳn xe vào giữa nhà kho, gã mới nhận ra kho gần như trống hoác, chỉ có mấy cuộn vải nằm chỏng chơ. Một ý nghĩ chợt đến, Khoái bảo đàn em đem xe về trả. Mở toang 2 cánh cửa kho, gã bẻ gạch non viết lên tường mấy chữ: "Của nả không đầy một xe, ít quá không bõ, Khoái "đù" không cướp!".
Đêm hôm sau, đang ngồi uống rượu và ba hoa ở ga Đồng Quan, Khoái bị Công an chộp cổ. Gã khai nhận tuốt tuột tất cả các vụ trước đó và nhận án 5 năm tù, ngoan ngoãn quay lại Trại Phú Sơn 4. Gã thú thật với ông Nguyễn Trường Xuân: "Muốn ra đầu thú nhưng sợ em út nó cười, cháu viết lại mấy chữ để các chú đỡ mất thì giờ(?!)".
Khoái vào tù, mẹ hắn nghe tin đổ bệnh. Biết tin, Khoái lại trốn về thăm mẹ, sau đó tự tìm đường lên trại nộp mình. Sau đó, gã còn trốn thêm vài lần vì những lý do rất vớ vẩn. Đến năm 1981, Khoái được trả tự do.
Ra khỏi cổng trại, Khoái sà vào một hàng phở gọi một tô phở "không người lái" cho đỡ thèm. Ánh mắt ái ngại của cô hàng phở khiến Khoái phải thú thật: "Tôi mới ra tù, phải để dành tiền về quê". Lùa đũa tính vơ nắm bánh, Khoái đã trợn mắt: dưới lớp bánh trắng phớ là cả một tô thịt nhiều gấp 3 lần tô phở bình thường. Miếng đầu tiên chưa trôi qua cổ, gã đã nghe một tiếng bốp của ai đó vừa bị tát. Cô hàng thương người của gã đang ôm mặt, nước mắt giàn giụa vì bị chủ quán đánh, bởi trót cho thịt vào tô phở "không người lái" đã trả tiền trước. Lật tung bàn ăn Khoái giáng cho gã chủ quán một quả đấm vào giữa mặt nằm sòng xoài và bỏ đi. Lao thẳng ra ga, gã xin tờ giấy ghi nguệch ngoạc mấy chữ: "Đô, anh mới ra tù, cần tiền tiêu. Chuẩn bị cho anh mấy nghìn, mai lên lấy!". Giúi tờ giấy vào tay một gã lưu manh hạng bét ở ga, gã bảo: "Mày làm cách nào tao không cần biết, nhưng phải chuyển thư này đến tay thằng Từ Thủ Đô ngay lập tức".
Từ Thủ Đô là một tướng cướp trẻ tuổi nhưng khét tiếng ở Lạng Sơn, cầm đầu một băng cướp có vũ khí (sau này đã phải nhận án tử hình). Y nhắn Khoái: "Có gan thì lên Lạng Sơn mà lấy, tiền không thiếu".
Điểm hẹn là một hẻm núi vắng vẻ. Chập choạng tối, đón Khoái là hai hàng đàn em của Đô, thằng nào cũng mặt sát khí đằng đằng. Khoái phớt tỉnh. Gặp Đô, gã bảo: "Kiểu đón khách của em màu mè quá!". Thấy Khoái chỉ đi một mình, tay không tấc sắt, Đô có vẻ nể trọng, lưu lại uống rượu một đêm, sáng hôm sau đưa ra một gói giấy báo bọc 3.000 đồng, bảo: "Em cũng đang khó khăn, anh cầm tiêu tạm, hết thì nhắn em". Hai thằng giang hồ với nhau, Khoái không khách khí, chỉ cảm ơn và đút túi cầm về.
Trở lại, Khoái giúi vào tay gã chủ quán phở một nắm tiền, bảo "trả tiền tô phở bữa trước", tặng thêm cho gã một đấm lăn quay rồi xềnh xệch nắm tay cô gái lôi đi. Lê Thị Thu, tên cô gái, không thốt một tiếng, cứ thế sấp ngửa chạy theo, bỏ lại gã hàng phở ở phía sau vừa quệt máu mũi vừa há hốc mồm. Vậy là Khoái có vợ, chẳng kịp hẹn hò yêu đương, cũng chẳng cưới xin. Khoái đưa Thu về xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ tìm một vạt đồi hoang vắng vô chủ dựng nhà, bắt đầu cuộc sống mới.
Mang tiếng "vua trốn tù", nên Khoái tìm mãi không ra việc. Đi đâu, làm gì gã cũng bị xa lánh, nghi kỵ. Hết tiền, con thú hoang quyết lại lần về đường cũ. Thỉnh thoảng, gã lại bỏ nhà đi biệt, lâu lâu tạt về giúi cho vợ một nắm tiền rồi lại đi. Gã gây ra hàng loạt vụ cướp trên các chuyến tàu hoả từ Lạng Sơn vào đến Đông Hà. Khoái thường đi nhiều chuyến trên một cung đường nhất định, theo dõi, phát hiện những băng nhóm trộm cướp khác ở trên tàu. Khi đám cướp kia tụt xuống ga xép nào đó chia nhau chiến lợi phẩm thì Khoái bám theo. Một mình Khoái tả xung hữu đột đánh cho cả đám cướp kia bò lăn bò càng và cướp sạch những gì chúng vừa "thu nhập" trên suốt cả chuyến tàu. Sau khi đánh cướp, Khoái đều bắt những "đồng nghiệp" gặp vận rủi kia phải thề giải nghệ, nếu không thì "gặp đâu đập què chân què tay ở đó". Nhiều lần, vì căm tức, bọn cướp tổ chức gài bẫy, đuổi chém Khoái trối chết. Những trận đụng độ xuất hiện ngày càng nhiều khiến kẻ chuyên "cướp của kẻ cướp" bị lộ tung tích và bị bắt. Khi khai nhận tội, gã thành thật: "Cướp của thường dân không đủ tiêu. Cướp của cướp mới được nhiều, đỡ mất thời gian!".
(Nguồn St: CAND.com)
Tên cướp lừng danh, võ sĩ không đối thủ, tay chơi siêu hạng… được nhắc đến với tên Khoái "đù" hoá ra chỉ là một ông không ra già, cũng chẳng còn trẻ, tóc húi cua, cao chừng mét rưỡi! Hỏi, ông ta cười: "Nhà nghèo, những 7 anh em, cơm không đủ no thì lấy chi mà lớn".
Tên thật của gã là Đoàn Đắc Tô, sinh năm 1948, quê ở thôn Ma Nê, xã Phong Chương, Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Gã từng có một khởi đầu khá hào hùng. Tham gia biệt động thành Huế năm 1964, năm 1966, 2 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Mùa hè năm 1967, Mỹ mở một trận càn lớn từ Huế ra Quảng Trị, Khoái chỉ huy tiểu đội của mình phục kích, áp dụng lối đánh đặc công tiêu diệt gọn cả một đoàn xe tăng Mỹ. Sau khi về chiến khu nhận danh hiệu Dũng sĩ diệt xe tăng, Khoái được gửi ra miền Bắc. Đó vừa là phần thưởng, vừa là một sự đền bù. Người yêu và 4 người anh trai của Khoái đã lần lượt hy sinh!
Ngày 25/11 năm Mậu Thân (1968), Đoàn Dũng sĩ miền Nam ra đến Hà Nội. Sau thời gian nghỉ dưỡng, Khoái được đưa đi bồi dưỡng văn hoá tại Trường học sinh miền Nam T64 ở Đông Triều, Quảng Ninh, sau đó được gửi học lớp Trung cấp lắp máy tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Ra trường, gã được điều về công tác tại công trường B5, chợ Mỏ Chè, thị trấn (nay là thị xã) Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
Giữa đời sống thắt lưng buộc bụng và kỷ luật của miền Bắc XHCN những ngày chiến tranh, Khoái như một kẻ lạc loài. Ngổ ngáo, tóc dài, đánh nhau như cơm bữa, đã không ít lần Khoái bị triệu về đồn Công an. Hậu phương miền Bắc không nỡ "mạnh tay" đối với một học sinh miền Nam xa quê đã từng nhiều lần là dũng sĩ. Đáng tiếc, nghĩa tình không phải lúc nào cũng là giải pháp hiệu quả trong việc cảm hoá con người. Chửi thề phèn phẹt, gã trở nên nổi tiếng với biệt danh Khoái "đù".
Năm 1974, Khoái là Đội phó Đội Lắp máy tại công trường. Một hôm, khi xe xítđờca của Công an vừa tiến vào khu lán trại tập thể, người bạn cùng phòng tên là Trần Văn Q đã đột nhiên kêu lên "chết tôi rồi" và đấm ngực khóc. Nương theo ánh mắt tuyệt vọng của bạn, Khoái phát hiện ra dưới gầm giường của mình có 2 cuộn thép công trường. Q thanh minh: "Lương chưa có, vợ thì sắp đẻ, tôi trót làm liều". Một thoáng ngần ngừ, Khoái vơ vội tấm áo và đi ra cửa. Đến trước mặt hai anh Công an, Khoái chìa tay ra: "Là tôi lấy. Mấy cuộn thép tôi đang giấu dưới gầm giường".
Lời khai ăn khớp, tang chứng vật chứng rõ ràng, chẳng ai nghi, Khoái bị Toà án tỉnh Thái Nguyên tuyên buộc 12 tháng tù. Nhưng Trung uý Nguyễn Trường Xuân, Đồn phó và Thiếu uý Nguyễn Xuân Thuỷ, cán bộ chấp pháp của Đồn Công an số 4 thì vẫn hoài nghi. Khi Khoái đã lĩnh án, họ vẫn tìm vào tận trại giam tra gặng. Khoái đành thú thật: gã tưởng rằng với lý lịch của mình, luật pháp sẽ dung thứ nên nhận bừa cứu bạn. Ông Xuân mắng xối xả: "Mày ngu lắm!". Ông dặn Khoái: "Đã trót rồi thì bình tĩnh mà cải tạo, chúng tôi sẽ xem xét lại".
Khổ, bình tĩnh lại là thứ Khoái không hề có. Một hôm, đang xẻ gỗ thì Tiến "bún", một bạn tù người Hải Phòng bị Toàn "lùn" và nhóm tù dân Hà Bắc cậy đông bắt nạt. Thấy Tiến bị Toàn nện guốc gỗ vào đầu, Khoái lại nổi điên, lao tới đá cho Toàn lộn nhào. Sợ bị kỷ luật, gã đã bẻ rào trốn trại, không hề biết chuyện chỉ cần nhẫn nại thêm chừng một tuần là có thể được minh oan và phóng thích. Chẳng ai dám chứa chấp, gã cứ quanh quẩn quanh khu vực Sông Công, Đồng Hỷ, Thái Nguyên... "nhặt" của người này sợi dây chuyền, "mượn" của người kia mớ tem phiếu. Án cũ chưa kịp được giải, gã đã tự gây án mới, toàn những tội danh lặt vặt, cuối cùng lại bị bắt đưa về Trại giam tỉnh Thái Nguyên ở Km 7. Giữa năm 1976, gã được tha, nhưng lý lịch có thêm hàng chữ đen đúa "2 lần trốn tù".
Trở lại Công ty Lắp máy ở Hà Nội, Khoái không bị đuổi nhưng cũng chẳng được ai bố trí công việc. Ở nhà ăn tập thể, mọi người trong bàn đều bỏ sang bàn khác khi Khoái bưng bát đến ngồi. Về quê, cha ruột cũng đuổi: "Nhà này không chứa chấp loại ăn cắp vặt!". Bí đường, Khoái lại lộn về Thái Nguyên vạ vật.
Ăn cắp vặt thì nhục, Khoái quyết định… ăn cắp lớn. Thỉnh thoảng Khoái lại rủ thêm vài gã chiến hữu nhắm vào những nhà buôn bán giàu có hoặc kho hàng của nhà nước khoắng một mẻ đậm, sau đó trốn về Hà Nội ăn chơi. Có lần Khoái ngỏ ý mượn "mấy nghìn" của Toàn Côi, một tay buôn lớn. Tay này biết Khoái, nể thì có nể nhưng dứt khoát không cho mượn vì "Khoái "đù" trên răng dưới… cát tút, mượn cũng như cướp lấy gì mà trả?". Giận quá, chỉ ít ngày sau, Khoái tổ chức 4 thằng đàn em đột nhập nhà Toàn vơ sạch. Biết rõ thủ phạm, nhưng Toàn đành ngậm bồ hòn làm ngọt vì không có bằng chứng, sợ Khoái nổi máu "chơi" thêm cho phát nữa. Thuỷ, chủ một hiệu buôn xe đạp nhưng cũng thừa máu giang hồ nghe tiếng cười khẩy: "Khoái "đù" đột vòm giỏi lắm, sao không thử đột nhà này?" Chưa đầy 48 giờ sau, két sắt trong cửa hiệu đột nhiên biến mất.
Chưa bao giờ bị bắt quả tang nhưng Khoái bị liệt vào dạng lưu manh chuyên nghiệp, bị bắt đi tập trung cải tạo nhiều lần. Bắt là trốn, Khoái chẳng mấy khi ngồi trại lâu. Có lần, thấy Khoái bị dẫn vào, ông Nguyễn Bá Tơ, Giám thị Trại Phú Sơn 4 đã hỏi gã: "Anh còn định trốn nữa không?". Khoái trả lời lễ phép nhưng rất… hỗn: "Dạ, còn tuỳ, vui thì ở, buồn thì trốn". Mỗi buổi cơm, gã đều âm thầm nhón một nhúm muối, về trát vào song sắt cửa sổ buồng giam và một đoạn rào dây thép gai ở trại. Gần một năm sau, lợi dụng đêm tối, gã lại bẻ song, vạch rào đào thoát.
Lê Tự Lâm, một người bạn học sinh miền Nam bảo Khoái: "Nhận tội, đi tù còn có án, còn có ngày về làm lại cuộc đời. Trốn tránh mãi cũng có ngày bị bắt tập trung cải tạo, án vô thời hạn. Không lẽ mày muốn cả đời làm một thằng lưu manh?". Khoái nghe có lý. Về lại Thái Nguyên, gã tập hợp đàn em, lừa bạn cũ đang lái xe cho một cơ quan nhà nước, mượn được một chiếc xe tải, định bụng "hốt ổ" kho bách hoá ở thị xã. Nửa đêm, điều hẳn xe vào giữa nhà kho, gã mới nhận ra kho gần như trống hoác, chỉ có mấy cuộn vải nằm chỏng chơ. Một ý nghĩ chợt đến, Khoái bảo đàn em đem xe về trả. Mở toang 2 cánh cửa kho, gã bẻ gạch non viết lên tường mấy chữ: "Của nả không đầy một xe, ít quá không bõ, Khoái "đù" không cướp!".
Đêm hôm sau, đang ngồi uống rượu và ba hoa ở ga Đồng Quan, Khoái bị Công an chộp cổ. Gã khai nhận tuốt tuột tất cả các vụ trước đó và nhận án 5 năm tù, ngoan ngoãn quay lại Trại Phú Sơn 4. Gã thú thật với ông Nguyễn Trường Xuân: "Muốn ra đầu thú nhưng sợ em út nó cười, cháu viết lại mấy chữ để các chú đỡ mất thì giờ(?!)".
Khoái vào tù, mẹ hắn nghe tin đổ bệnh. Biết tin, Khoái lại trốn về thăm mẹ, sau đó tự tìm đường lên trại nộp mình. Sau đó, gã còn trốn thêm vài lần vì những lý do rất vớ vẩn. Đến năm 1981, Khoái được trả tự do.
Ra khỏi cổng trại, Khoái sà vào một hàng phở gọi một tô phở "không người lái" cho đỡ thèm. Ánh mắt ái ngại của cô hàng phở khiến Khoái phải thú thật: "Tôi mới ra tù, phải để dành tiền về quê". Lùa đũa tính vơ nắm bánh, Khoái đã trợn mắt: dưới lớp bánh trắng phớ là cả một tô thịt nhiều gấp 3 lần tô phở bình thường. Miếng đầu tiên chưa trôi qua cổ, gã đã nghe một tiếng bốp của ai đó vừa bị tát. Cô hàng thương người của gã đang ôm mặt, nước mắt giàn giụa vì bị chủ quán đánh, bởi trót cho thịt vào tô phở "không người lái" đã trả tiền trước. Lật tung bàn ăn Khoái giáng cho gã chủ quán một quả đấm vào giữa mặt nằm sòng xoài và bỏ đi. Lao thẳng ra ga, gã xin tờ giấy ghi nguệch ngoạc mấy chữ: "Đô, anh mới ra tù, cần tiền tiêu. Chuẩn bị cho anh mấy nghìn, mai lên lấy!". Giúi tờ giấy vào tay một gã lưu manh hạng bét ở ga, gã bảo: "Mày làm cách nào tao không cần biết, nhưng phải chuyển thư này đến tay thằng Từ Thủ Đô ngay lập tức".
Từ Thủ Đô là một tướng cướp trẻ tuổi nhưng khét tiếng ở Lạng Sơn, cầm đầu một băng cướp có vũ khí (sau này đã phải nhận án tử hình). Y nhắn Khoái: "Có gan thì lên Lạng Sơn mà lấy, tiền không thiếu".
Điểm hẹn là một hẻm núi vắng vẻ. Chập choạng tối, đón Khoái là hai hàng đàn em của Đô, thằng nào cũng mặt sát khí đằng đằng. Khoái phớt tỉnh. Gặp Đô, gã bảo: "Kiểu đón khách của em màu mè quá!". Thấy Khoái chỉ đi một mình, tay không tấc sắt, Đô có vẻ nể trọng, lưu lại uống rượu một đêm, sáng hôm sau đưa ra một gói giấy báo bọc 3.000 đồng, bảo: "Em cũng đang khó khăn, anh cầm tiêu tạm, hết thì nhắn em". Hai thằng giang hồ với nhau, Khoái không khách khí, chỉ cảm ơn và đút túi cầm về.
Trở lại, Khoái giúi vào tay gã chủ quán phở một nắm tiền, bảo "trả tiền tô phở bữa trước", tặng thêm cho gã một đấm lăn quay rồi xềnh xệch nắm tay cô gái lôi đi. Lê Thị Thu, tên cô gái, không thốt một tiếng, cứ thế sấp ngửa chạy theo, bỏ lại gã hàng phở ở phía sau vừa quệt máu mũi vừa há hốc mồm. Vậy là Khoái có vợ, chẳng kịp hẹn hò yêu đương, cũng chẳng cưới xin. Khoái đưa Thu về xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ tìm một vạt đồi hoang vắng vô chủ dựng nhà, bắt đầu cuộc sống mới.
Mang tiếng "vua trốn tù", nên Khoái tìm mãi không ra việc. Đi đâu, làm gì gã cũng bị xa lánh, nghi kỵ. Hết tiền, con thú hoang quyết lại lần về đường cũ. Thỉnh thoảng, gã lại bỏ nhà đi biệt, lâu lâu tạt về giúi cho vợ một nắm tiền rồi lại đi. Gã gây ra hàng loạt vụ cướp trên các chuyến tàu hoả từ Lạng Sơn vào đến Đông Hà. Khoái thường đi nhiều chuyến trên một cung đường nhất định, theo dõi, phát hiện những băng nhóm trộm cướp khác ở trên tàu. Khi đám cướp kia tụt xuống ga xép nào đó chia nhau chiến lợi phẩm thì Khoái bám theo. Một mình Khoái tả xung hữu đột đánh cho cả đám cướp kia bò lăn bò càng và cướp sạch những gì chúng vừa "thu nhập" trên suốt cả chuyến tàu. Sau khi đánh cướp, Khoái đều bắt những "đồng nghiệp" gặp vận rủi kia phải thề giải nghệ, nếu không thì "gặp đâu đập què chân què tay ở đó". Nhiều lần, vì căm tức, bọn cướp tổ chức gài bẫy, đuổi chém Khoái trối chết. Những trận đụng độ xuất hiện ngày càng nhiều khiến kẻ chuyên "cướp của kẻ cướp" bị lộ tung tích và bị bắt. Khi khai nhận tội, gã thành thật: "Cướp của thường dân không đủ tiêu. Cướp của cướp mới được nhiều, đỡ mất thời gian!".
(Nguồn St: CAND.com)