PDA

View Full Version : Bồ Đề Đạt Ma (st )



Fansifan
14-10-2010, 02:51 AM
Sưu tập





Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.

Võ học Thiếu Lâm vừa gắn liền với ngôi cổ tự lịch sử, vừa là kho võ học vô cùng đồ sộ. Thật vậy, ngoài những đường quyền, ngọn cước và sử dụng đủ loại binh khí (thập bát ban võ nghệ), Thiếu Lâm còn có những phương pháp rèn luyện công phu đặc dị như: luyện nội công, luyện ngoại công, khinh công, ngạch công, nhuyễn công, điểm huyệt và giải huyệt, y dược trị thương và các phương pháp thu nhận, huấn luyện môn đồ cũng như phương pháp xây dựng Thiền Viện, Võ Đường...

Đồng thời đó cũng là nơi sản sinh ra nhiều đoá hóa kỳ tài “danh trấn giang hồ”, xứng đáng bước vào ngôi vị Minh Chủ Võ Lâm, để giữ gìn hòa bình, không để võ lâm nổi sóng gió. Và nhất là, hình ảnh các vị Đại sư, võ công thâm hậu, đạo đức cao siêu, luôn ra tay bảo vệ kẻ cô thế, xua đuổi kẻ hung tàn bạo ác, đem lại yên bình cho quốc gia, cho dân tộc.

Vậy Võ học Thiếu Lâm phát xuất từ đâu ? Khi nào ?

Chùa Thiếu Lâm nằm ở hướng Tây bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Chùa tọa lạc ở sườn Tây núi Tung Sơn, mặt đối với núi Thiếu Thất, lưng dựa Ngũ Nhũ Phong. Vì chùa được xây dựng trong rừng rậm ở sườn âm núi Thiếu Thất nên lấy tên là Thiếu Lâm Tự.

Năm Thái Hòa thứ 19, Bắc Ngụy (năm 495), vua Hiếu Văn Đế xây dựng chùa Thiếu Lâm, ban tặng cho vị cao tăng Ấn Độ tên là Bạt Đà, dùng để cư trú mà hành đạo. Võ học Thiếu Lâm có mặt từ đây.
http://www.suutamphatphap.com/images/250px-BodhidharmaYoshitoshi1887.jpg

Ngài Bồ Đề Đạt Ma, tên thật là Bồ Đề Đa La, con trai thứ ba của vua Nam Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Đế Lợi. Về sau Ngài đi tu và gặp Tổ Bát Nhã Đa La, đời thứ 27 của Phật giáo Thiên Trúc. Ngài được truyền Y Bát làm Tổ đời 28. Sau đó vào ngày 21 tháng 7 năm Mậu Tuất (năm 518 sau tây Lịch) Ngài lên thuyền vượt biển sang trung Hoa. Ngài tới Quảng Châu vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Mùi. Vua Lương Võ Đế hay tin liền mời Ngài về Kim Lăng để hội kiến, nhưng vì ý không hợp nhau nên chia tay.. Đạt ma Tổ Sư bứt một cọng lau ném xuống sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường Giang (cước đạp lô điệp quá giang). Năm 1307, ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự có lập một tượng đá, tạc cảnh Ngài đạp cọng lau qua sông. Năm Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy (527), Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Tung Sơn Tự. Tại đây, Ngài thấy nhiều nhà sư có thể trạng yếu đuối, thường hay ngủ gật trong lúc Ngài thuyết giảng và không chịu nổi với khí lạnh bên ngoài của núi rừng xâm nhập. Vì thế, Ngài quyết định tham thiền để tìm cách giúp đỡ những nhà sư này. Kết quả sau 9 năm diện bích trong động thiếu Thất, Ngài đã đúc kết hết thảy tinh yếu vào trong hai cuốn Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm võ công và cũng là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa.
http://www.yeuxetayga.com/uploaded_file/profile_image/BoDeDatMa1254916134.jpg

Theo “Tổ Tổ tương truyền di ngôn khẩu quyết văn” và “Bồ đề hành kinh” thì Bồ Đề Đạt ma nhập diệt vào ngày 9 tháng 10 năm Bính Thìn (năm 536 sau TL), nhằm năm Thiên Giám thứ 2, đời Lương Võ Đế. Sau khi Ngài viên tịch, các Đại sư Thiếu Lâm tiếp tục tập luyện những phương thức do Ngài truyền lại. Với Dịch Cân Kinh thì rèn luyện nội công, còn Tẩy Thủy Kinh thì rèn luyện khí công. Chẳng bao lâu, các Đại sư nhận ra rằng việc luyện tập Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, không những làm sức khỏe tăng tiến, cơ thể mạnh mẽ mà tinh thần càng phấn chấn, trầm tĩnh, có thể chống lại khí hậu lạnh của núi rừng, bịnh tật, mệt mỏi sau khi ngồi thiền và có thể dũng cảm vượt qua những khó khăn nguy hiểm trong lúc đi hành đạo.

Võ thuật được phát triển mạnh mẽ vào đời Đường (618 - 907), sau khi 13 võ Tăng giúp Vua Đường Thái Tông phá trận Vương Thế Sung (630). Lịch sử võ thuật Trung Quốc còn nhắc nhở nhiều đến ba vị có công lớn nhất từ Thiếu Lâm Tự là Chí Tháo, Huệ Dương và Đàm Tông. Võ Thuật Thiếu Lâm nguyên thuỷ có 18 thế chính yếu. Đến đời Tống, Tống Thái Tổ phát triển thành 32 thế Trường quyền. Một thế kỷ sau, Giác Viễn Thượng Nhân mở rộng thành 72 thế (thất thập nhị huyền công). Từ đó, trải qua các thời đại, các Đại sư không ngừng rèn luyện và sáng tác thêm, khiến cho võ thuật Thiếu Lâm ngày càng phong phú và đồ sộ. Đến đời nhà Minh, tùy theo sở thích, căn cơ và phong thổ mà môn phái Thiếu Lâm chia làm hai hệ phái: Bắc phái (bắc cước) và Nam phái (Nam quyền). Đỉnh cao của võ thuật Thiếu Lâm là vào đời nhà Thanh, thời Ngài Chí Thiện Thiền sư, không những võ học phát triển trong Tăng nhân mà còn truyền ra bên ngoài, đi vào đời sống người dân, tạo nguồn sức sống mạnh mẽ, nâng cao tinh thần thượng võ, cứu nguy giúp nước.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/09/Shaolinsi.JPG

Chùa Thiếu Lâm bị hủy hoại một phần vào những năm 556, 962 và 844. Chùa bị cháy ba lần vào những năm 612, 1736 và 1928. Điều may mắn là mỗi lần cháy chùa chỉ bị hủy hoại một phần, ngay cả lần binh lính Mãn Thanh tấn công chùa. Sau thời kỳ cách Mạng Văn Hóa, Trung Quốc coi võ thuật Thiếu Lâm là di sản văn hóa dân tộc cần được bảo tồn. Chùa Thiếu Lâm được trùng tu vào những năm cuối thập kỷ 70.

Như trên đã nói, các vị Đại Sư Thiếu Lâm không những võ công tuyệt thế, nội công thâm hậu mà còn có võ đức sáng ngời. Trong môn đồ Thiếu Lâm Tự, còn lưu truyền lời dạy của Đại sư Hạnh Ẩn, và xem đó là tấm gương soi mình, là mục đích luyện võ của mình: “Nếu có một kẻ nào đó, mà kẻ ấy là một người vô đạo đức xin được truyền thụ võ công, Ta sẽ không dạy cho hắn điều gì cả, dù kẻ ấy muốn dâng cho Ta ngàn vàng. Con có thể biến đá thành vàng, một khi con hấp thụ được võ thuật chân truyền từ Thiếu Lâm”, và khi mà chúng ta được chân truyền từ võ học Thiếu Lâm thì “con có thể xuyên qua kim cang thạch bích. Vận dụng cơ thể phát sinh kình lực cần có và phải chắc chắn rằng con không sợ hãi để con đủ can đảm. Khi xoay mình phải nhanh và uy lực như một cơn lốc di chuyển khỏi thế bất lợi mà thân người vẫn đúng tư thế, chiếm lĩnh vị trí thuận lợi. Cái duỗi tay của con như mây che lấp ánh trăng và đứng vững trên đôi chân của con tựa như thế núi. Hông của con trầm xuống làm vững chắc bộ tấn, nhờ thế mà con không bị đánh ngã. Rèn luyện và rèn luyện mãi, nếu con là người nghiêm túc thì không để thời gian trôi qua vô ích...”[1]
http://ngoisao.net/News/Buon-chuyen/2010/04/3B9CEFD0/shaolin07.jpg
Như vậy, chúng ta thấy võ đức chính là linh hồn của võ thuật, việc tôn cao võ đức là truyền thống từ xưa đến nay của giới võ thuật. Một vị võ sư, nội công thâm hậu, võ công trác tuyệt mà không có võ đức, mang đầy tà tâm thì sẽ gây cho giang hồ nhiều sóng gió, chắc chắn bị võ lâm đồng đạo chê trách và bị tiêu diệt. Còn vị được bầu làm Minh Chủ Võ Lâm thì không những võ công cao siêu mà còn có võ đức sáng ngời.

Tiên sư nói: “Tập võ giả thượng đức bất thượng lực” nghĩa là, tập võ chuộng đức không chuộng sức. Sức tuy đả thương người nhưng chưa chắc tâm phục, còn có đức tuy lực kém mà mọi người tâm phục khẩu phục. Cho nên Đức là phẩm chất của người luyện võ, là tiêu chuẩn để dự đoán một người mới học võ có thể đạt được chân công hay không.Các đại sư tiền bối Thiếu Lâm rất chú trọng đến việc huấn luyện và bồi dưỡng võ đức, đã chế ra một hệ thống các quy định giới cấm, bắt buột người học Thiếu Lâm phải tuân thủ nghiêm ngặt. Thời nhà Minh, trong Thiếu Lâm thập điều giới ước có ghi: “... truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể đem kỹ thuật truyền cho...”; “... người tập luyện ấy khỏe thể xác, tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen luyện tậm sớm tối không được tùy ý ngưng nghỉ...”; “...lấy lòng từ bi của Phật gia làm gốc, tinh thông võ nghệ chỉ để tự vệ, không vì huyết khí cương cường mà ham đấu đá...”; “...bình nhật phải tôn kính Sư trưởng, không được có hành vi chống cự hoặc ngạo mạn...”[2]. Như vậy, chúng ta thấy người học võ phải lấy việc rèn luyện thân tâm làm tôn chỉ, lấy tự vệ làm đức tín, phản đối việc cậy khỏe đấu đá, cậy mạnh hiếp yếu mà phải “lấy đức dày chở vật” cứu khốn phù nguy.
http://ngoisao.net/News/Buon-chuyen/2010/04/3B9CEFD0/Untitled-1.jpg

Võ đức còn thể hiện qua cách ôm quyền bái chào trong lúc luyện tập hay diễn quyền. Khi bước vào buổi tập, hay diễn quyền, chúng ta thường bái để biểu lộ sự tôn kính vị khai sáng võ học, còn chào là biểu lộ sự cung kính người Thầy đang trực tiếp hướng dẫn cho chúng ta. Ôm quyền chào còn gọi là mời quyền, là chiêu thế mang tính lễ nghi trong võ thuật, đồng thời, ôm quyền chào biểu hiện sự khiêm tốn, lễ độ, là bộ phận đạo đức trong quyền, là đầu mối tốt đẹp của bài múa và tiêu chí một môn quyền thuật nào đó, có thể phản ảnh được tôn chỉ và bộ mặt tinh thần của môn phái. Người tập võ không chỉ ôm quyền làm lễ mà ý ở chỗ tránh làm đối phương hoài nghi, cũng đồng thời, tránh đối phương có khả năng che giấu cơ hội sát hại bằng tay. Trong võ thuật có nhiều cách chào khác nhau, tùy theo môn phái, quốc gia; môn phái Phật gia thường chào hợp chưởng[3]. Từ năm 1986, người ta chế định ra quy cách chào ôm quyền thống nhất với hàm nghĩa mới mẻ, tay phải nắm thành quyền với ý “lấy võ kết bạn”; tay trái gập ngón cái không tự cao tự đại, chưởng trái che quyền phải với ý quyền do lý tới; bốn ngón chưởng trái xòe sát nhau, ý nói đồng đạo võ lâm bốn biển đoàn kết, cùng lòng mở mang võ thuật.

Luyện tập Thiếu Lâm đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải lập chí cầu học, phải lập tâm khổ luyện. Tục ngữ có nói : “Ngật đắc khổ trung khổ, phương vi nhân thượng nhân” nghĩa là, nuôi được cái khổ nhất trong cái khổ thì mới có thể làm bậc Thượng Nhân được. Nên người học võ Thiếu Lâm phải bền lòng vững chí “Trời nóng không sợ đổ mồ hôi, trời lạnh không sợ cóng tay chân, bệnh vặt không nghỉ, mang bệnh luyện công, gió mưa không ngại, ngày ngày như một, năm năm như một”.

Võ học Thiếu Lâm, cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội công và ngoại công. Nội công là chỉ sự tu luyện về khí huyết, nội khí, kinh mạch, tinh thần. Ngoại công là sự rèn luyện cơ bắp, gân cốt, kình lực như : Thiết Sa Chưởng, Thiết Tý Chuyên...

Và điểm đặc biệt nữa của võ thuật Thiếu Lâm là “Quyền Thiền Nhất Thể”. Quyền Thiền Nhất Thể tức là phương pháp kết hợp giữa Thiền và Quyền, phương pháp cụ thể là lấy “tọa thiền công” làm pháp luyện nội công chủ yếu (dùng các hình thức tọa thiền để luyện Tinh Khí Thần); thông qua tập trung tư tưởng (ý thủ đan điền), bài trừ tạp niệm, tiến hành điều tâm, điều tức, điều thân; thông qua Phật học, thanh quy Phật môn, để bồi dưỡng tiết tháo và võ đức; thông qua tu tâm dưỡng tánh, bồi bổ nguyên khí, tu luyện võ đức, đạt đến cảnh giới “quyền thiền hợp nhất”. Như thế quyền và thiền có mặt trong nhau, hỗ tương cùng nhau phát triển.
http://ngoisao.net/News/Buon-chuyen/2010/04/3B9CEFD0/shaolin01.jpg

Bây giờ, Võ học phát triển, Thiếu Lâm có mặt khắp nơi, không kể Đông Tây Nam Bắc và tùy theo phong thổ mỗi quốc gia mà có những nét đặc sắc riêng. Theo Lịch sử Võ Học Thế Giới chép rằng, các môn phái Nga My, Không Động, Võ Đang xuất phát từ Thiếu lâm tự; Karatedo, Taekwondo, Judo phát xuất từ cương quyền, nhu quyền, nhu thuật của Thiếu Lâm tự; Kiếm đạo của Nhật Bản, võ đạo trên thế giới đều tôn Ngài Bồ Đề Đạt Ma làm thủy tổ. Như vậy, chúng ta thấy, bao nhiêu hoa trái xum xuê vươn lên từ cây đại thọ thiền học hay võ học ở Trung Hoa và Việt Nam đều vươn lên từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nên chúng ta có thể nói thiền và võ thuật cùng chung gốc và có mối quan hệ rất mật thiết.

Và dĩ nhiên, Võ học Thiếu Lâm truyền vào Việt Nam cũng là do các danh tăng Trung Hoa sang truyền đạo, nên thịnh hành trong chùa trước và từ đó phát triển, cải biến phù hợp với người dân Việt. Đó là Việt Võ Đạo (Vovinam)

Qua đây, chúng ta thấy những luồng sức mạnh tiết ra từ võ học, len lõi trong tâm khảm của mỗi con người, làm cho đời sống con người cao quý. Tinh thần thượng võ được đề cao, nhất là đời sống được hiển bày, khiến con người đi đến với nhau trong niềm tin chân thật, trong sáng, chắc chắn quốc gia hưng thịnh, dân tộc vinh quang. 0

nhachoaloiviet
14-10-2010, 07:51 PM
Hồi trước em mê kiếm hiệp lắm,em chơi game con Thiếu Lâm đánh hay,máu trâu kháng khỏe vởi chiêu dịch cân kinh. Ngoài ra có chiêu sư tử hống hét lên làm điếc tai đối phương rất lợi hại. Thiếu lâm có sức sát thương trung bình nhưng phòng thủ cực cao và có tính đồng đội bậc nhất. Game võ lâm truyền kỳ dựng rất hay, thiếu lâm đúng như đặc tính của họ.
Em còn nghe đồn rằng có những cao thủ Thiếu Lâm luyện loại công phu đặc biệt có thể thu hạ bộ vào trong lồng xương chậu ,để khi đánh nhau khỏi vỡ cà có phải không bác Fan?

Fansifan
14-10-2010, 10:01 PM
Thuờng thì thu ngọc hoàn thôi thu hạ bộ thế nào được ,(hạ bộ thì chỉ có vợ là thu được thôi ) khi mình sợ quá thì theo bản năng sinh tồn ngọc hoàn tự dưng co lên ,ngạn ngữ mình có câu ..Nó sợ teo d .. hay Sợ d chạy lên cổ ..v ..v Còn các nhà sư luyện công thì có thể điều khiển nó theo ý muốn ,thường những người luyện Kim Chung Trảo hay Thiết Bố Sam rất rành món này, dùng để đối phó với Địa Đường Quyền hay Xà Quyền chuyên dùng tấn công hạ bàn

hyh
14-10-2010, 10:54 PM
Hồi xưa có nghe kể một điệp viên nam của Trung Quốc dùng võ công Thiếu Lâm thu toàn bộ hạ bộ vào trong, giả gái để sống chung với một quan chức của Nhật Bản. Hồi đấy chưa có Internet nên bây giờ tìm lại không thấy

nhachoaloiviet
14-10-2010, 11:03 PM
Em cũng nghĩ thu cả bộ ấm chén vào trong thì hơi khó tin, có lẽ như bác nói thu 2 quả trứng chim cút thì chuẩn hơn.
Mà hình như phải nói là Kim Chung Tráo mới đúng bác Fan ơi. Chữ Tráo có nghĩa là lộn ngược,chứ không phải Trảo là móng vuốt. Kim Chung Tráo là chuông vàng úp,bảo vệ toàn thân không ai đánh vào mình được.Hồi xưa em chơi con Thiên Vương rất mạnh,nó co món Kim Chung Tráo đó,kháng tất cả 50%.Tương truyền Thiên Vương Bang là tập đoàn thuyền chài ở Hồ Động Đình,về sau bị Nhạc Phi dẹp tan tác.

Fansifan
14-10-2010, 11:35 PM
@ nhachoa ,Thường thì Kim Dung hay bất cứ một nhà võ học nào của Trung Hoa đa số sáng lập nên môn võ công nào thường lấy động tác chính của môn đó để đặt tên như Quyền ,Chỉ ,Trảo ,Cuớc ,Chuởng ..v v .Có thể Kim Chung Trảo nói lên cái vồ kín mít như bị chuông úp không đường tẩu thoát chăng ,môn võ này tấn công từ trên xuống như chim ưng bắt rắn dùng để đối phó với Xà quyền ,chữ Tráo thì có vẻ lại là tiếng việt rồi
Hai nữa chuông lộn ngược thì sao mà úp hả em hihih

Fansifan
14-10-2010, 11:44 PM
Hồi xưa có nghe kể một điệp viên nam của Trung Quốc dùng võ công Thiếu Lâm thu toàn bộ hạ bộ vào trong, giả gái để sống chung với một quan chức của Nhật Bản.y

Thu vào thì ok rồi bác , nhưng mà lấy cái gì thay thế cho ... cái kia... để giả gái sống chung với quan chức ,tụi Nhật ăn cá sống susi tối ngày nên sắc dục lắm bác ạ

nhachoaloiviet
15-10-2010, 08:11 PM
@ nhachoa ,Thường thì Kim Dung hay bất cứ một nhà võ học nào của Trung Hoa đa số sáng lập nên môn võ công nào thường lấy động tác chính của môn đó để đặt tên như Quyền ,Chỉ ,Trảo ,Cuớc ,Chuởng ..v v .Có thể Kim Chung Trảo nói lên cái vồ kín mít như bị chuông úp không đường tẩu thoát chăng ,môn võ này tấn công từ trên xuống như chim ưng bắt rắn dùng để đối phó với Xà quyền ,chữ Tráo thì có vẻ lại là tiếng việt rồi
Hai nữa chuông lộn ngược thì sao mà úp hả em hihih

Chữ Tráo là Hán Việt bác Fan ơi, người ta hay bị nhầm sang Trảo vì Trảo quen thuộc. Tráo tức là úp thì phải. Chiêu này là chiêu hộ thân chứ không phải chiêu tấn công. Để em tra từ điển võ thuật lại cho chắc hihi

Fansifan
15-10-2010, 08:15 PM
Ừ ,có thể nhachoa đúng đấy ,mình cũng chưa tra chỉ nói theo cảm quan e rằng sai

Minh Ngọc
15-10-2010, 09:34 PM
Vài nét về Đức Bồ Đề Đạt Ma:


http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/1287147134252595982_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603187)

Bồ Ðề Lạt Ma tên thật là Bồ Ðề Ða La (Bodhi Tara), con thứ ba của vua Chí Vương, thuộc giòng Sát Ðế Ly, nước Quốc Hương, Nam Thiên Trúc (vùng cao nguyên Dekkan), thuộc phía nam Ấn Ðộ.


http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/12871471381218392990_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603219)

Khi vị Tổ Bát Nhã Đa La (Tổ thứ 27) đến Nam ấn thuyết pháp trong hoàng cung, đã gặp gỡ hoàng tử Bồ Tát Đa La, nhận thấy đệ tam hoàng tử có căn khí, liền truyền pháp và đặt pháp hiệu là Bồ Đề Đạt Ma. Khi Quốc vương Hương Chí băng hà, Đạt Ma xin tạm biệt hai anh, từ giã hoàng cung ngọc ngà nhung lụa để theo Tổ Bát Nhã Đa La xuất gia tu học Phật pháp. Tổ Bát Nhã Đa La dặn dò Đạt Ma rằng: “Ngươi hãy tạm ở đây mà giáo hóa nước này, sau sang đến Trung Hoa mới thật là nhân duyên lớn. Nhưng, hãy đợi sau khi ta tịch được khoảng 60 năm rồi mới được đi về phương Đông, đừng đi sớm sẽ gặp việc không tốt!”.

Tiếp theo đó, Bồ Ðề Lạt Ma được sư phụ truyền thụ y bát, để kế thừa nhiệm vụ Tổ Thiền Tông Ấn Ðộ đời thứ 28.

Tại Ấn Ðộ, Tổ sư Bồ Ðề Lạt Ma nhận thấy niềm tin của Phật tử đã bị xáo trộn, vì sự phân hóa của Phật Giáo, gây nên bởi sáu đại môn đồ của ngài Phật Ðà Tiên, trở thành sáu tông phái khác nhau, với tư tưởng xa dần nguyên lý Phật giáo như: Hữu Tướng Tông, Vô Tướng Tông, Ðịnh Huệ Tông, Giới Hạnh Tông, Vô Ðắc Tông, Tịch Tịch Tông.

Do đó, ngài đã ra công thuyết phục được sáu vị lãnh đạo sáu tông phái này trở về nguồn chánh pháp đạo Phật. Cũng như, ngãi đã cảm hóa được vua Dị Kiến tỉnh ngộ, vì vua tin vào các tà thuyết xúi dục, ngăn cấm sự bành trướng của Phật giáo Ấn Ðộ lúc bấy giờ.

Ðể thực hiện lời di huấn của thầy mình, vào năm 517, Tổ sư Bồ Ðề Lạt Ma từ giả Ấn Ðộ, dùng thuyền vượt biển, trong ba năm, đến Quảng Châu, Trung Hoa vào ngày 21 tháng 9 năm 520 (Canh Tý), triều Lương Võ Ðế, niên hiệu Phổ Thông thứ bảy.


http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/1287147141699466604_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603238)

http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/1287147142610050969_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603249)

Ðến ngày mồng 1 tháng 10 năm 520 (Canh Tý), ngài được vua Lương Võ Ðế triệu vào cung Kim Lăng giảng đạo. Sau mười chín ngày thuyết giảng tại triều đình, ngài thất vọng vì căn cơ của nhà vua và các triều thần không thể lãnh hội được những tư tưởng Thiền của ngài.

Do đó ngài cô đơn từ giã cung Kim Lăng, vượt sông Dương Tử, qua vùng Bắc Giang, nhập cảnh nước Ngụy, đến Lạc Dương, dừng chân tại chùa Thiếu Lâm Tự, thuộc núi Tung Sơn, vào ngày 23 tháng 11 năm 520 (Canh Tý) đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Minh Ðế, niên hiệu Chánh Quang Nguyên.

Tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi im lặng, mặt hướng về vách đá để tham thiền nhập định. Người đời lúc bấy giờ gọi ngài là Bích Quán Bà La Môn, nghĩa là thầy Bà La Môn ngồi nhìn vách (theo Cao Tăng Truyện).
Có truyền khẩu rằng vách đá đó sau 9 năm đã nứt toác và trổ ra một đóa hoa tươi thắm, nên kẻ hậu sinh có thơ: “Kể từ xương đá trổ hoa; Sau lưng hài chiếc bước qua luân hồi”.

Sau chín năm có mặt tại Tung Sơn, toàn bộ tăng chúng ở chùa Thiếu Lâm đều quy y xin làm đệ tử của Tổ Đạt Ma, triệu thỉnh ngài về trụ trì. Ngài là vị trụ trì đời thứ hai của Thiếu Lâm tự, sau sư Kế Bạt Đà, bắt đầu khai sáng và truyền bá một dòng thiền mới mẻ cho Phật giáo Trung Hoa, với yếu chỉ “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Tổ Bồ Đề Đạt Ma trở thành Sư tổ của Thiền tông Trung Hoa.

http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/12871471621774715397_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603380)

Tương truyền, trong thời gian “diện bích” trên núi, vì tọa thiền quá lâu, tứ chi thường bị tê liệt, nên Đạt Ma Sư tổ đã sáng lập ra “La Hán quyền”, còn gọi là “Thập bát La Hán thủ” để vận động cơ thể, cũng như phòng vệ, địch lại với các loài ác thú hay rình mò tấn công. Đến khi trụ trì Thiếu Lâm tự, thấy chúng đệ tử cũng do tọa thiền mà cơ thể suy yếu, gục đầu hôn trầm, Sư tổ bèn truyền dạy quyền thuật để rèn luyện nội công nội lực, đáng kể nhất là hai bộ kinh về dưỡng khí công: “Đạt Ma Tẩy Tủy Kinh” và “Dịch Cân Kinh” áp dụng để cường thân kiện thể, trừ bệnh sống lâu được lưu truyền rộng rãi. Chúng đệ tử Thiếu Lâm tự qua nhiều đời đã dựa theo đó, phối hợp thêm với các bài võ của trăm họ mà phát triển nên võ thuật Thiếu Lâm tự, trở thành một lưu phái trọng yếu của võ thuật Trung Hoa, danh chấn thiên hạ, được xưng tôn là “Thiên hạ võ công xuất Thiếu Lâm” (Võ công trong thiên hạ đều từ Thiếu Lâm mà ra).

Minh Ngọc
15-10-2010, 09:41 PM
Kinh sách chép rằng Đạt Ma Sư tổ sau truyền y bát cho Nhị Tổ Huệ Khả, rồi ngồi an nhiên thị tịch, chúng đệ tử làm lễ đưa nhục thân của ngài nhập tháp tại chùa Định Lâm ở núi Hùng Nhĩ (tỉnh Hà Nam - Trung Hoa). Sau vua Hậu Ngụy sai Tống Vân đi sứ ấn Độ về, bỗng gặp Sư tổ tại núi Thông Lãnh, thấy ngài một mình đi nhanh như bay, tay cầm một cây gậy gác trên vai, trên đầu gậy có treo một chiếc dép, liền hỏi thầy đi đâu thì được biết ngài đang trên đường về lại quê hương (Nam Thiên Trúc).


http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/20/23/12871490091336956370_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721615020)

Về đến kinh thành, Tống Vân kể lại chuyện ấy cho vua Hiếu Trang nghe, vua lấy làm lạ bèn sai mở cửa tháp, giở nắp quan tài lên, quả nhiên bên trong quan tài trống không, chỉ còn lại một chiếc dép. Vua cho rước chiếc dép về thờ tại Thiếu Lâm tự, phong cho ngài hiệu Viên Giác Thiền Sư, tháp hiệu là Không Quán. Đến đời Đường, năm thứ 15, môn đồ đưa chiếc dép của Sư tổ về thờ tại chùa Hoa Nghiêm...

Vua liền chỉ thị Tống Vân, hợp cùng một số đại sư Thiếu Lâm Tự, để diễn tả lại các chi tiết về hình ảnh diện mạo của tổ, cho mười tám (18) nhà danh họa chân dung vẽ lại.

Theo sự diễn tả này, tổ có một thân hình cao lớn vạm vỡ, tướng đi đứng khoan thai lẹ làng. Lần đầu tiên, xuất hiện ở bờ biển Trung Hoa, tổ mặc y phục màu vàng theo lối Ấn Ðộ. Về sau, tổ hay dùng áo tràng kiểu Trung Hoa, đặc biệt, đầu thường phủ một chiếc khăn để cho sương gió. Râu, tóc, lông ngực, lông tay của tổ mọc tự do, dầy đặc dị thường. Chân trái có đeo chiếc vòng bạc, được gắn với bốn (4) chiếc chuông vàng nhỏ, tạo nên tiếng ngân vang, trong mỗi bước chân. Hai tay luôn đeo chiếc vòng từ ngọc lớn rộng như miệng chén. Mũi của tổ to lớn như chiếc mũi sư tử, miệng hay mím chặt, tạo thành một đường cong, ẩn sau vùng râu rậm. Tổ bị gãy mất hai chiếc răng cửa. Ðặc biệt nhất là đôi mắt, đa số người Ấn Ðộ đều có đôi mắt với tròng nâu hoặc đen, bên trong có hình xoắn ốc, trái lại, mắt tổ có màu xanh lỏ, to và có vẻ sâu thẳm như hư vô, không đáy. Ðôi mắt đó thường nhìn trừng trừng như đứng tròng bất động. Nhìn ai giống như có một mãnh lực vô hình, khiến người ta xao xuyến, khiếp sợ.


http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/1287147144953927741_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603259).....http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/1287147146901373834_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603272)

http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/12871471501494886335_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603305).....http://img1-photo.apps.zing.vn/upload/original/2010/10/15/19/52/12871471531653436508_574_0.jpg (http://photo.apps.zing.vn/gmquangchau/apps/photo/album/photo-detail/id/721603315)

Fansifan
15-10-2010, 10:50 PM
Bác MinhNgoc tìm đuợc các hình Tổ Đạt Ma đẹp quá , cám ơn bác

nhachoaloiviet
16-10-2010, 05:38 PM
Đạt Ma Độ Giang ! Bụp! Bụp! Bụp !

mtuan2
16-10-2010, 07:18 PM
Ngay tại Ấn độ quê hương của Phật giáo, tới thế kỷ 13 thì Phật giáo bị tiêu diệt hoàn toàn trên đất nước này. May nhờ có vị sư tổ Bồ đề đạt ma này mà Phật giáo lại phát triển mạnh tại Trung Quốc và sau đó mở rộng ra Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam.

Đến khi Nhật bản phát triển mạnh ra thế giới thì các sư Nhật bản lại sang châu Âu và sang Mỹ tuyển đồ đệ gây ra cơn sốt tu tập Thiền tông ở các quốc gia phương Tây.

Thiền sư gốc Việt Thích Nhất Hạnh cũng là một trong những thiền sư được ngưỡng mộ tại Pháp với trung tâm tu tập Làng Mai.

xitrum
16-10-2010, 07:36 PM
trong cỏi niết bàn có 2 vị đấu chiến thắng phật .1 la tôn ngộ không,2 la ông này

ha vy
03-08-2012, 10:16 AM
Trẻ con nhìn thấy Đạt Ma sư tổ chắc vãi đái???