PDA

View Full Version : Võ thuật



kymoc
12-09-2011, 04:08 PM
Để anh em TLKD ngoài những lúc cau mày suy nghĩ mệt mỏi vì cuộc cờ, nay Kymoc tạo một trang nhỏ nói về Võ thuật ,bạn nào có hứng thú thì vào chém chơi,Vui là chính.
Ky moc xin mở bát bằng một số clip về Vĩnh xuân quyền:
1.Bát trảm đao:
http://www.thanglongkydao.com/members/kymoc-albums-vo-thuat-picture329-bat-tram-dao.gif
2.Thủ đầu quyền:
http://www.thanglongkydao.com/members/kymoc-albums-vo-thuat-picture328-thu-dau-quyen.gif
3.Niêm thủ:
http://www.thanglongkydao.com/members/kymoc-albums-vo-thuat-picture327-niem-thu.gif
Mời anh em ai đã từng kinh qua võ thuật có thể vào giới thiệu chút ít về môn phái của mình hoặc vào chém vui.Chú ý không gây hiềm khích và xích mích với nhau vì VUI LÀ CHÍNH

123456
12-09-2011, 04:11 PM
chưa kinh qua võ thuật,nhưng đã từng kinh qua Kim Dung,Cổ Long vào chém có được ko bác?? ;))

FGYan
12-09-2011, 04:13 PM
Món này chắc phải chờ Lão Khoai cho ý kiến trước nhỉ!

6789
12-09-2011, 04:14 PM
Xem nhiều phim võ thuật được lên tiếng không bác kymoc :D.

kymoc
12-09-2011, 04:15 PM
chưa kinh qua võ thuật,nhưng đã từng kinh qua Kim Dung,Cổ Long vào chém có được ko bác?? ;))

Chém thoải mái bạn ạ...Bạn nên biết rằng một số cao thủ cũng đã từng đọc Truyện của Kim Dung mà ngộ ra rất nhiều điều.

Lão Khoai
12-09-2011, 04:37 PM
Cám ơn bác kymoc đã mở topic thú vị cho anh em tha hồ chém gió .Xin mời mọi người tham gia .Võ gồm võ công và võ học. Võ công đòi hỏi công phu thực chứng ,phải trải qua bao nhiêu năm luyện tập ,kiên nhẫn ,anh em chúng ta là dân chơi cờ tất nhiên võ công phải ấm ớ vì có thời giờ đâu mà luyện tập ,luyện cờ không thôi đã hết ngày rồi
Riêng võ học ,thuộc kiến thức .Người giỏi võ công chắc gì đã rành võ học ,đây là lãnh vực chém gió vi vút nhất Xin mời các bạn tham gia .Tôi thuở bé có học tí ti nhưng rất kém ,mỗi lần múa quyền sư phụ thuờng thở dài lẩm bẩm - Học võ như mày sau này chắc chỉ đánh đuợc vợ thôi ..hehe ...

kymoc
12-09-2011, 05:29 PM
Cám ơn bác kymoc đã mở topic thú vị cho anh em tha hồ chém gió .Xin mời mọi người tham gia .Võ gồm võ công và võ học. Võ công đòi hỏi công phu thực chứng ,phải trải qua bao nhiêu năm luyện tập ,kiên nhẫn ,anh em chúng ta là dân chơi cờ tất nhiên võ công phải ấm ớ vì có thời giờ đâu mà luyện tập ,luyện cờ không thôi đã hết ngày rồi
Riêng võ học ,thuộc kiến thức .Người giỏi võ công chắc gì đã rành võ học ,đây là lãnh vực chém gió vi vút nhất Xin mời các bạn tham gia .Tôi thuở bé có học tí ti nhưng rất kém ,mỗi lần múa quyền sư phụ thuờng thở dài lẩm bẩm - Học võ như mày sau này chắc chỉ đánh đuợc vợ thôi ..hehe ...

Bác Lão Khoai nói rất đúng...Võ học là nhận thức...một số học giả nghiên cứu về võ thuật có thể chỉ ra được cái yếu cái mạnh, cái khuyết của một võ sư, nhưng bản thân họ có thể không có cái kungfu như của một võ sư, tuy nhiên nhờ họ mà một số võ sư đã lĩnh hội và ngộ ra được một số chân lý mà họ còn thiếu.Cho nên nói Võ thuật là từ ghép của hai từ: Từ Võ thô thiển và từ thuật tinh tế....Để đạt được đến trình dụng võ một cách nghệ thuật là cả một quá trình rèn luyện kungfu có khi cả đời.

kymoc
12-09-2011, 05:39 PM
Video cao thủ võ lâm gặp nạn:
Video hài Khi cao thủ võ lâm gặp nạn - Cuoi 24H 24h (http://hn.24h.com.vn/cuoi-24h/video-hai-khi-cao-thu-vo-lam-gap-nan-c70a403132.html)

abc
12-09-2011, 06:22 PM
Video cao thủ võ lâm gặp nạn:
Video hài Khi cao thủ võ lâm gặp nạn - Cuoi 24H 24h (http://hn.24h.com.vn/cuoi-24h/video-hai-khi-cao-thu-vo-lam-gap-nan-c70a403132.html)

Quá cao thủ !

nhachoaloiviet
12-09-2011, 06:33 PM
Em hồi bé được học 1 năm karatedo ở cung văn hóa Việt Tiệp hehe. Nói chung mới biết sơ qua vài bài quyền từ số 1 đến số 10 mấy thì ko tập nữa. Em có sở trường là chân cao và dẻo, có thể đá vào mặt kẻ địch ghì cổ từ đằng sau

reporter
12-09-2011, 07:01 PM
Nhắc tới Vĩnh Xuân không thể không nhắc đến sư phụ Diệp Vấn, người thầy của Lý Tiểu Long, nhân vật chính trong bộ phim "bom tấn" 2 phần rất ăn khách do nam diễn viên ngôi sao võ thuật Chân Tử Đan (Donnie Yen) thủ vai chính. Phải nói rằng sau khi xem xong phim, tôi thật sự kính nể tài năng trác tuyệt của Diệp sư phụ, và cũng rất khâm phục tài nghệ của Chân Tử Đan khi chỉ cần một thời gian ngắn luyện Vĩnh Xuân với Diệp Thuần - con trai của danh sư Diệp Vấn - là đã nhập vai một đại cao thủ Vĩnh Xuân cực "ngọt"!

anhtuank11
12-09-2011, 07:24 PM
bác Kymoc up hình hay quá, em được cái ko biết võ học nhưng đánh nhau túm đầu e hơi khó hehe, Như Lai Thần Chưởng là bí kíp mơ ước của em nhưng mãi chưa tìm thấy hic

scholes
12-09-2011, 10:02 PM
Em hồi bé được học 1 năm karatedo ở cung văn hóa Việt Tiệp hehe. Nói chung mới biết sơ qua vài bài quyền từ số 1 đến số 10 mấy thì ko tập nữa. Em có sở trường là chân cao và dẻo, có thể đá vào mặt kẻ địch ghì cổ từ đằng sau

Hải Phòng bác hồi em còn học có 1 cậu tên Vương học trên em 1 khóa ( nhưng lại ít tuổi hơn em ) môn karatedo cũng khá đỉnh.thi đấu đạt rất nhiều giải cao ( hcv, hcb) ở cấp BCA ; em thời đó cũng tuyển teawondo chính thức của trường đại học nhưng thời đó em chỉ có 58kg (cao 1m72) đang nỗ lực để tăng cân ( tập tạ, ăn uống ...) nhưng hlv lại bắt ép cân để đánh hạng 54 kg nên em rút êm bằng cách lên bệnh viện YHCT " nghỉ dưỡng " vì lý do " rối loạn tiêu hóa ":)):)):))

doccocuukiem
12-09-2011, 11:03 PM
Bí Quyết “ Lăng ba vi bộ”.

Đọc “Lục mạch thần kiếm”, bạn biết được rằng, do rủi ro sa chân xuống một vực sâu, Đoàn Dự đã lạc vào một thạch động bỏ hoang từ bao đời. Trong lòng thạch động ẩn chứa một bí mật chưa có người khám phá, đó là pho tượng của một phụ nữ đẹp mê hồn và một bí kíp võ công thật lạ lùng là “ Lăng ba vi bộ”. Đoàn Dự đã tò mò tập thử không ngờ đã thành công (mặc dù không trọn vẹn bởi chẳng chuyên tâm). Và kể từ đó trên bước đường bôn ba giang hồ, mỗi lần Đoàn Dự giở món khinh công lạ lùng ấy ra đều làm cho các cao thủ võ lâm kinh ngạc, sợ hãi! Bởi vì, ngay cả vào thời ấy, trong võ lâm Trung Nguyên, hầu như không có ai luyện được tuyệt kỹ khinh công đó. Vì sao?

Theo truyền thuyết, không phải ai cũng học được tuyệt kỹ này, bởi phương pháp quá khó, lại vô cùng rối rắm. Một người dù võ công cao siêu đến đâu, nếu chỉ cậy vào nội lực, vào võ nghệ, thì sẽ không bao giờ luyện được “ Lăng ba vi bộ”. “ Lăng ba vi bộ” là thuật khinh công chạy “Lăng quăng” theo hình zic-zac để vừa né tránh mọi ám toán bằng cung tên, ám khí, lại vừa đạt độ nhanh khó ai đuổi kịp.

Thông thường, người hiểu “khinh công” là thuật vi hành bằng chân đạt tốc độ nhanh như gió, người nhẹ lướt trên mặt đất, thậm chí vượt qua mặt nước, nhưng chủ yếu là chạy thẳng, càng thẳng thì càng nhanh. Chớ như cách chạy “Lăng ba vi bộ” thì khó lòng đạt tốc độ như chạy thẳng. Vậy mà, theo mô tả của Kim Dung, cỡ trình độ võ công “i tờ” như Đoàn Dự, nhưng khi giở “Lăng ba vi bộ” ra thì Kiều Phong cũng phải thán phục! Có người bảo rằng, người thi triển khinh công “Lăng ba vi bộ” không dùng nội lực, mà lại dùng “trí lực”. Chính cái đầu đã điều khiển đôi chân, để từ đó nhấc cả thân thể lên, “biến” cả khối thịt xương hơn nửa tạ của con người nhẹ tựa chiếc lá, rồi cũng bằng trí lực, người thi triển làm cho bước chân mình đảo chỗ liên hồi, lượn qua tả, sàng qua hữu như con vụ theo một sức ly tâm càng lúc càng mạnh, càng nhanh. Đoàn Dự do “học lóm” nên khi sử dụng đôi lúc đã không tự điều khiển được, khi thì vụt chạy như chim lượn, lúc lại vụng về ngã té. Đó chẳng qua là do anh chàng không biết vận dụng trí não để điều khiển bước chạy.

Một chút truyền thuyết.

Thuật khinh công “Lăng ba vi bộ” bắt nguồn từ đâu? Trong sách của Kim Dung cũng chỉ đề cập đến người đàn bà biệt cư trong hang động là chủ nhân của bí kíp võ công đó, chứ cũng chưa nói rõ nó thuộc môn phái nào? Xuất xứ từ đâu?

Ngày nay chúng ta được dịp nghiên cứu nhiều sách vở, kể cả sách từ xưa, cũng thấy nhắc tới thuật phi hành lạ lùng đó. Duy nhất có quyển “Truyền thuyết dân gian của các dân tộc Mãn Châu” là có ghi vắn tắt một đoạn, có thể tóm lược như sau: “Người của các bộ tộc Mãn ở vùng núi A Lạp Thiên Sơn thường cưỡi ngựa đi săn bắn, những lúc đuổi theo con mồi trong những vùng cát mềm hoặc vùng đồi đá dựng đứng, họ không thể dùng ngựa mà dụng thuật khinh công chạy theo hình chữ chi trên mặt cát và áp dụng nó để vượt qua các địa hình hiểm trở ở đồi núi. Đặc biệt khi bị săn đuổi bởi cung tên của kẻ thù, người tẩu thoát phải dùng thuật khinh công chạy đổi hướng liên tục để tránh cung tên, ám khí …”.

Ở giai đoạn cuối của quyển “Truyền thuyết dân gian các bộ tộc Mãn Châu” có ghi một giai thoại sau đây, mà chúng tôi cho là nguồn gốc của thuật khinh công “Lăng ba vi bộ”. Vào thời khai sơ, lúc các bộ tộc Kim Mãn còn sống rải rác ở khắp các vùng thảo nguyên miền quan ngoại, ngoài vùng lãnh thổ của tộc Hán ở Trung Nguyên (Trung Hoa), thì toàn bộ vùng lãnh thổ rộng lớn đó mạnh ai nấy sinh sống, hùng cứ. Đứng đầu mỗi bộ tộc là một tộc trưởng nắm quyền sinh sát. Có hai bộ tộc ở gần nhau trong vùng chân núi A Lạp Thiên Sơn, là tộc A Đà Niêu và tộc Khật Tháp Giả. Từ chỗ thân thiện, tương trợ lẫn nhau, họ đã trở thành thù địch không đội trời chung, chỉ vì người của bộ tộc A Đà Niêu đã vô tình bắn chết người con cả của tộc trưởng Khật Tháp Giả trong một chuyến đi săn.

Mối thù âm ỉ suốt nhiều thế hệ. Thỉnh thoảng bên này lại kéo quân tấn công bên kia, gây thành những thảm cảnh máu đổ thây phơi. Vào một ngày cuối đông, lúc mặt trời chưa kịp nhô lên trên đỉnh núi, dân làng Khất Tháp Giả kinh hoàngvì tiếng chiên trống, tiếng ngựa chạy, tiếng binh khí va chạm, cuộc chiến đẫm máu kéo dài cho đến lúc mặt trời lên cao. Khi đoàn quân xâm lược rút đi thì hầu như toàn bộ những chiếc lều da dê của tộc Khất Tháp Giả đã ra tro bụi. Người chết hơn trăm, muông thú chồng chất xác lên nhau. May mắn là trong cơn loạn lạc đó, cả gia quyến tộc trưởng Tháp Thiên Á Quyến đều bình an. Máu hận ngút trời, cả bộ tộc đều thề sẽ rửa hận lập tức. Tộc trưởng A Có rống lên như mãnh hổ bị thương, ông chém đầu một con trâu rừng, thét lên lời thề: “Nếu ta không trả được thù này thì đời đời con cháu sẽ không có đất sống!”.

Lời thề vang vọng theo gió thảo nguyên lan ra khắp đồi núi chung quanh. Nhưng oái oăm thay, trong khi đó cô con gái út của tộc trưởng là nàng Cố Luân Mộc Chân lại đang cưu mang một kẻ đại thù. Nguyên là, sau cuộc giao tranh, trên đường trở về nhà lúc chập choạng tối, nàng đã vô tình dẫm phải một xác người nằm ngang lối đi. Khi nhìn kỹ thấy cái xác chỉ bị thương nặng chứ chưa chết. Động lòng trắc ẩn, Mộc Chân đã lén đưa chàng trai bị trọng thương về một động đá cách xa lều để cứu chữa. Oan nghiệt đều từ đó. Bởi vì chàng trai đó chẳng ai khác hơn là con trai của vị tộc trưởng A Khô Lý của bộ tộc A Đà Niên. Chính anh chàng A Khố Nặc Sơn này đã lãnh đạo cuộc tấn công. Khi biết được lai lịch chàng trai, đã có phút giây nàng định kết liễu đời chàng bằng một nhát kiếm trên tay. Nhưng dường như con tim nàng đã ngăn cản, đã làm mềm lòng sự thù hận chất chứa lâu nay … Thế rồi, sau nửa tuần trăng, khi bịnh tình Nặc Sơn thuyên giảm định giã biệt, thì cũng là lúc hai con tim cừu địch hòa nhịp đập cùng nhau. Họ yêu nhau trong nghịch cảnh.

Không lâu chuyện vỡ lở. Tộc trưởng Tháp Thiên rống lên như thú dữ, suýt chút nữa ông đã giết chết con gái cưng. May mà Mộc Chân nhanh chân thoát thân, trốn vô rừng vào nửa đêm hôm đó, trong lúc bơ vơ giữa rừng thẳm âm u, bỗng một con mãnh hổ vồ lấy nàng, mang thẳng lên núi A Lạp Thiên Sơn.

Khi Mộc Chân tỉnh lại đã thấy người tình ngồi bên cạnh. Thì ra con mãnh hổ vồ lấy nàng là Nặc Sơn giả dạng. Chàng đã mang nàng lên một thạch động cheo leo giữa sườn núi cao. Mộc Chân kinh hãi khi nhìn xuống chân núi, nàng lo sợ địa hình hiểm trở đầy nguy hiểm. Nặc Sơn đã nói thẳng ý của mình cho nàng nghe:

“- Chúng ta không có con đường trở về. Từ nay không có anh thì bố em cũng không còn lý do gì để trả thù bộ tộc của cha anh, còn vắng em ở nhà thì cha em lấy ai để trút cơn giận dữ? Ta giờ đây chỉ biết có nhau. Đỉnh núi này sẽ là “vương quốc” của hai ta …”
Họ đã sống bên nhau, cách ly với mọi người. Một năm sau thì họ sinh một đứa con trai. Thằng bé lớn lên dần, cũng là lúc nó cảm thấy tù túng khi phải chui rúc trong gian thạch động. Nó tìm cách lén ra ngoài, trèo qua vách đá cheo leo … Một buổi sáng, khi vợ chồng Nặc Sơn thức dậy không thấy con, họ hốt hoảng chạy đi tìm và gặp mảnh khố da beo của con trên bờ vực sâu!

Thương con, cả hai vợ chồng đều không kể gì mạng sống, đã cố lần theo vách đá để xuống vực sâu hơn 100 thước. Từ hôm đó, chẳng còn ai thấy bóng họ trên lưng chừng núi nữa.

Năm năm sau, những toán thợ săn của bộ tộc Khất Tháp Giả trong lúc say sưa đuổi theo con mồi vào vùng núi cao, đã vô cùng kinh ngạc khi thấy bóng ba người, gồm hai người lớn và một trang thiếu niên đang trổ thuật phi hành nhẹ nhàng như chim liệng chuyền theo vách đá dựng đứng chẳng khác con chim yến đang làm tổ trên vách Thiên Sơn.

Ba người đó không ai khác hơn là vợ chồng Nặc Sơn và Mộc Chân cùng cậu con trai Thiên Giả Cáp Tề của họ. Thì ra năm năm trước, họ đã tìm được con trai khi rơi xuống vực đã may mắn vướng vào một cành cây nên không chết. Họ đã cứu con rồi cùng nhau đi sâu xuống vực, tìm một thạch động khác. Họ đã sống luôn ở đó, vì muốn trở lên cũng chẳng có cách nào.

Một hôm ngồi dưới đáy vực nhìn lên vách núi, họ thấy những con rắn rất lạ, chúng thoăn thoắt trườn ngược theo vách đá dựng đứng để đuổi theo những con chim yến đang làm tổ. Thân rắn trơn lẳn, không bám víu vào đâu, vậy mà chúng chẳng hề rơi xuống. Nhìn kỹ hơn, Nặc Sơn khám phá ra nguyên tắc di chuyển của con rắn bắng cách chuyển hướng liên tục, như con vụ quay để tạo ra sức ly tâm, và chính nhờ thế chúng luôn luôn bám vào vách đá, vừa có thể tiến đi nhanh như chim bay – loài rắn núi nào khi chạy ở đường bằng phẳng cũng không quên nguyên tắc chuyển động cứ lao vòng xoay vun vút, thế mà không ai đuổi theo kịp chúng!

Đó là khởi đầu cho một tuyệt kỹ, mà sau này giới võ lâm được biết dưới cái tên “Lăng ba vi bộ”!

Xin nói thêm, chàng trai Tiên Giả Cáp Tề nói trên, chính là ông Nội Tổ của Nỗ Nhĩ Cáp Tề, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Mãn Thanh từng thống trị dân tộc Hán (Trung Hoa) ngót 300 năm sau này.
(sưu tầm)

kymoc
12-09-2011, 11:47 PM
Em hồi bé được học 1 năm karatedo ở cung văn hóa Việt Tiệp hehe. Nói chung mới biết sơ qua vài bài quyền từ số 1 đến số 10 mấy thì ko tập nữa. Em có sở trường là chân cao và dẻo, có thể đá vào mặt kẻ địch ghì cổ từ đằng sau

nhachoaloiviet bây giờ còn khả năng duy trì kungfu đó không....nếu trả lời là không thì quả là tiếc.Cũng chỉ vì cơm áo gạo tiền mà phải quẳng hết đi...đến lúc ốm đau bệnh tật đi chữa mới thấy mình đã bỏ phí.

kymoc
12-09-2011, 11:54 PM
Cám ơn doccocuukiem đã tham gia topic...Con người ta khi đã yêu một cái gì đó đều luôn ước mơ mình đạt đến cảnh giới cao nhất...tuy nhiên giữa mơ và thực tế lại là một trời một vực...Nói riêng về "lăng ba vi bộ" cũng chính nhờ đọc đến đoạn này mà một cao thủ ở Hà Nội đã tự mình sáng tạo nên một bộ pháp tuyệt học, chính nhờ nó mà đã tạo nên một môn phái với nét đặc thù độc đáo không môn nào có được.

kymoc
13-09-2011, 12:01 AM
Nhắc tới Vĩnh Xuân không thể không nhắc đến sư phụ Diệp Vấn, người thầy của Lý Tiểu Long, nhân vật chính trong bộ phim "bom tấn" 2 phần rất ăn khách do nam diễn viên ngôi sao võ thuật Chân Tử Đan (Donnie Yen) thủ vai chính. Phải nói rằng sau khi xem xong phim, tôi thật sự kính nể tài năng trác tuyệt của Diệp sư phụ, và cũng rất khâm phục tài nghệ của Chân Tử Đan khi chỉ cần một thời gian ngắn luyện Vĩnh Xuân với Diệp Thuần - con trai của danh sư Diệp Vấn - là đã nhập vai một đại cao thủ Vĩnh Xuân cực "ngọt"!

Thành công của Phim Diệp Vấn trước hết phải nói công đầu thuộc về Diễn Viên kiêm võ sư Hồng Kim Bảo (Người đóng vai bang chủ các võ phái Hồng Kông,sư phụ Hồng Gia)Chính nhờ Hồng Kim Bảo (một người rất am hiểu về quyền thuật Vĩnh(Vịnh) Xuân) hướng dẫn mà Chung Tử Đơn mới có thể nhập vai một cách thuần thục.Bản thân Chung Tử Đơn khi nhập vai Diệp Vấn cũng rất lo vì anh hoàn toàn không hiểu một chút gì về hệ thống quyền thuật Vĩnh(Vịnh) Xuân, Nhưng với tố chất là một diễn viên cộng thêm năng khiếu võ thuật, Chung Tử Đơn đã tương đối thành công khi hóa thân trong vai Diệp Vấn.

Lão Khoai
13-09-2011, 12:06 AM
Hồi đó quãng năm 1976 Hồng gia Quyền do cụ Nguyễn manh Đức tức Nam Hải chân Nhân truyền thụ ,khi ấy chỉ có một số ít anh em tập luyện sau này có người đi theo nghiệp võ luôn và rất nổi tiếng như Võ sư Lâm thành Khanh ,còn gọi là Khanh thợ mộc vì nhà ông làm mộc .Xin giới thiệu bài viết sau về Hồng gia quyền

Hồng Gia Quyền



Hồng Gia là một phái lớn trong thập đại danh gia của võ lâm Trung Quốc (Hồng, Lưu, Lý, Thái, Mạc, Phật…). Bể võ học mênh mông, môn phái như rừng nhưng không nằm ngoài nội gia và ngoại gia. Hồng Gia quyền thuộc dòng nội gia còn gọi là La Phù Sơn Huyền Công, khác với Hồng quyền của Hồng Huy Quan thuộc ngoại gia, vốn chủ trương “trong cương có nhu”. Hồng Gia quyền đi theo xu hướng “trong nhu có cương, trong sự mềm mại của bông gòn có sắt thép”.

Hồng gia truyền đến Việt Nam hơn nửa thế kỷ, và đã đồng hóa trở thành Hồng Gia Việt Nam. Người nhận lãnh trọng trách chưởng môn là võ sư Lý Hồng Thái, hiện đang định cư ở Mỹ. Vừa trở về Việt Nam, chưa kịp nghỉ ngơi ông đã có một buổi xê-mi-na dành cho cao đồ và các bằng hữu. Võ sư Lý Hồng Thái đã cố gắng lý giải thế nào là võ tâm và võ ý, con đường luyện tập để đạt đến “tâm vô sở trụ”, xuất thủ ly khai tâm pháp.

Ông nói: “Do tâm vọng động nên sự vật ta cảm nhận đều bị bóp méo, cũng như mặt hồ gợn sóng làm ta không thấy rõ đáy hồ. Tâm càng động ta càng cảm thấy bất an, vì vậy lý trí góp nhặt cả vật chất lẫn kiến thức để cảm thấy được yên ổn. Nhưng kiến thức mà mọi người tích lũy để dựa vào sẽ là cái khuôn giam cứng họ lại. Đúng là càng học càng đi xa Đạo (Lão Tử). Muốn cho tâm phẳng lặng như mặt nước hồ thu, ta phải vượt lên trên âm dương, gạt bỏ lý trí ra ngoài…”.

Những điều ông nói thật khó cảm nhận đối với nhiều người vốn mang nặng lý tính. Thế nhưng ông không nói suông, mà có thị phạm, diễn giải hẳn hoi. Ông đã chứng minh thế nào là “quên bỏ hết để trở về gốc, đến không còn vướng bận, không còn trụ vào đâu nữa, đi ngược với lẽ thông thường, thay vì tích trữ ta xả bỏ”.

Với động tác rũ cốt, ông biến mình thành “bộ xương”, không cầu sinh, không cầu tử. Người môn đồ lấy hết sức bình sinh đấm vào bên phải “bộ xương” đó thì bên trái đòn tự động bật đánh lại, đánh bên trên thì bên dưới bật đá ra. Đánh chậm “nó” phản đòn chậm, đánh nhanh “nó” phản đòn nhanh. Thoắt cái, ông trở về trạng thái bình thường, và chậm rãi giải thích: “thật ra nó không lo tự vệ cũng như có ý định đánh lại ta, trái lại nó nương vào ta, nhờ ta động mà nó sống. Sự phản đòn của nó là hoàn toàn tự nhiên, không tính toán, không chiêu thức”.

Võ sư Lý Hồng Thái là bậc kỳ tài võ thuật. Ông đã đi khắp thế giới và “lâm sàng” với nhiều môn phái, nên kinh nghiệm cũng nhiều mà ân oán cũng lắm. Các tạp chí võ thuật nổi tiếng như Kung Fu, Karate Bushido, Black Belt… đều có những bài viết trang trọng về ông. Ông cũng đã tìm về La Phù Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) để nhận chân lại nguồn gốc.

Tuy nhiên môn Huyền công một thời vang bóng giờ đã lụi tàn. Thời gian như bóng câu, cái gì không được gìn giữ thì sẽ nhanh chóng mai một, thất truyền. “Cũng may là dòng võ đặc dị này còn lưu giữ tại Việt Nam”.

Câu chuyện như miên man trở về một thời quá khứ xa xôi. Ngày ấy là một buổi sáng mùa xuân, tiết trời Hà Nội hãy còn lạnh buốt. Bên trong một trang viên có một cậu bé ốm yếu, tính mạng đang lâm vào tình trạng “thập tử nhất sinh”. Thời may trong lúc nguy kịch xuất hiện một hán tử dùng thuật châm cứu kịp thời cứu sống đứa bé. Và trang hán tử đó đã nhận đứa bé làm dưỡng tử đưa về Tàu chạy chữa, với lời hứa: “ba năm sau lên núi La Phù, xem sự sống chết của đứa trẻ ra sao”.

Người hán tử trung niên ấy chính là sư phụ Lý Văn Tân, chưởng môn của thánh địa La Phù Sơn. Đứa bé ấy chính là cháu 4 đời của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, người sau này khai sáng môn Hồng Gia Việt Nam, có tên là Nguyễn Mạnh Đức. Như một cơ duyên, cậu bé Nguyễn Mạnh Đức theo thầy tu tập ròng rã hơn hai mươi năm trên sơn động.

Cũng cần nói một chút về địa danh La Phù Sơn, nằm giữa Quảng Châu và Huệ Châu, trước thời nhà Đường, vùng này thuộc đất Giao Chỉ. Tương truyền tại núi La Phù nửa đêm có thể nhìn thấy mặt trời. Núi có hai lầu đá, chùa Diên Tường ở lầu Nam, động Chu Minh ở phía sau Xung Hư quán, được coi là động thứ bảy của cõi bồng lai. Sau quán Xung Hư có đàn Triều Đẩu (đàn ngắm sao) của Chu Minh chân nhân.

Vùng này nghe có nhiều đan sa, nên Cát Hồng đời Đông Tấn thích phép đạo dẫn thần tiên, đã đưa gia đình về đây để luyện tiên đan hòng cầu trường sinh bất tử. Ngọn núi này cũng là nơi xuất phát môn phái Hồng Gia Quyền – Huyền công La Phù Sơn.

Ngày xuống núi, Nguyễn Mạnh Đức không những tinh thông Thập bát ban võ nghệ, còn am tường Dịch học, Y lý và và nắm vững toàn khâu bộ Thái Ất chân kinh.

Hồng Gia Quyền được truyền bá và sự đón nhận nồng nhiệt tại Việt Nam. Có thể do những chiêu thức kỳ ảo biến hóa khôn lường như “Ma vân thủ”, hay ở bộ pháp linh hoạt tuyệt diệu của “Địa đàng công”, hoặc ở phần tâm pháp “Xả kỷ tùng nhân”, “Tiên ưu, hậu lạc” … là hấp lực lôi kéo mọi người đến với Hồng Gia. Khi chuyên cần luyện tập nội công và quyền pháp Hồng Gia, người luyện sẽ nhận ra nét thuận nghịch của âm dương, khám phá được sức vận chuyển âm thầm của ngũ hành.

Hiểu được thế nào là “nước mềm làm mòn đá cứng” để thấu triệt nguyên lý lấy nhu nhược thắng cương cường. Khi áp dụng vào tấn pháp có thể đạt đến trạng thái cực tĩnh để quán thông được nhất cử, nhất động của đối phương. Đây cũng là cái tĩnh của bậc hiền nhân khi tâm tư đã lắng đọng để giao hòa cùng thiên nhiên nhiên, vạn vật.(st)

Ông Lý Hồng Thái chuởng môn nhân bây giờ là con trai duy nhất của cụ Đức ông tên thật là Nguyễn mạnh Lân

kymoc
13-09-2011, 12:15 AM
Nếu Lãokhoai có dịp ở Hà Nội em sẽ mời Lãokhoai đến nhà của một võ sư Hồng Gia LPS...Có khi Lão khoai lại gặp lại người xưa cũng nên.

kymoc
13-09-2011, 12:18 AM
Lãokhoai đã viết“trong nhu có cương, trong sự mềm mại của bông gòn có sắt thép”.
Nguyên lý này có nơi còn gọi là "Miên lý tàng châm" cây kim trong nhúm bông gòn.

Lão Khoai
13-09-2011, 12:20 AM
Bài này thì phải hỏi kymoc và tranbinh xem có chính xác không

Vĩnh Xuân Quyền

Nguồn gốc Vĩnh Xuân Quyền

Tổ sư của Vịnh Xuân, bà Nghiêm Vịnh Xuân (Yim Ving Tsun) , là người Quảng Đông, Trung Quốc. Khi còn trẻ, bà là người thông minh, nhanh nhẹn, quật cường và có khí phách nam nhi. Bà được hứa hôn với Lương Bác Trù (Leung Bok Chau), một người buôn muối ở Phúc Kiến.

Sau đó một thời gian ngắn, mẹ bà qua đời. Cha bà, Nghiêm Nhị (Yim Yee), bị vu tội, chút nữa thì phải đi tù. Do vậy, gia đình phải ly hương, cuối cùng tới sinh sống tại chân núi Đại Lương, vùng biên giữa hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên. Đó là vào thời vua Khang Hy (1662-1722).

Thời đó, võ công của Thiếu Lâm Tự, ở Tung Sơn, Hồ Nam, đã rất cao, khiến triều đình Mãn Thanh lo sợ, nên đưa quân đến tấn công chùa, nhưng thất bại. Chan Man Wai, trạng nguyên năm đó, vì muốn làm vui lòng triều đình, đã lập mưu cùng các nhà sư Thiếu Lâm là Mã Ninh Nhi (Ma Ning Yee) với đồng bọn. Chúng đã phát hỏa đốt chùa khi quân lính tấn công bên ngoài. Thiếu Lâm Tự bị đốt trụi, các nhà sư phải tản mát. Các đại sư Ngũ Mai (Ng Mui), Chí Thiện (Chi Shin), Bạch My (Pak Mei), Phùng Đạo Đức (Fung To Tak), Miêu Hiển (Miu Hin) chạy thoát mỗi người một ngả.

Ngũ Mai ẩn thân tại đền Bạch Hạc, trên núi Đại Lưong. Tại đây, bà quen Nghiêm Nhị, và con gái ông, Nghiêm Vịnh Xuân, vì bà thường mua đậu phụ ở cửa hàng của ông.

Vịnh Xuân lúc đó là một cô gái trẻ, đẹp khiến một tên côn đồ địa phương chú ý. Hắn ép cô cưới hắn. Cô và cha cô rất lo lắng. Ngũ Mai biết chuyện đó và rất thương cô gái. Bà đồng ý dạy võ cho Vịnh Xuân để cô có thể tự bảo vệ. Lúc đó, cô có thể tự mình giải quyết tên côn đồ và cưới Lương Bác Trù, người chồng đã đính hôn của mình. Vịnh Xuân theo Ngũ Mai lên núi và bắt đầu học võ. Cô luyện võ cả đêm lẫn ngày cho đến khi thuần thục. Khi đó, cô đã thách đấu và đánh bại tên côn đồ nọ. Ngũ Mai quyết định lên đường chu du vòng quanh đất nước. Nhưng trước khi lên đường, bà đã bắt Vịnh Xuân thề giữ nghiêm các môn quy, phát triển võ thuật ngay cả sau khi cưới, và phải giúp nhân dân lật đổ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh. Đó là về chuyện Ngũ Mai đã truyền môn Vịnh Xuân như thế nào.

Sau khi cưới, Vịnh Xuân dạy võ cho chồng là Lương Bác Trù. Ông ta lại truyền cho Lương Lan Quế (Leung Lan Kwai). Lương Lan Quế lại truyền cho Hoàng Hoa Bảo (Wong Wah Bo) là diễn viên của một gánh hát trên thuyền, tức Hồng Thuyền. Hoàng Hoa Bảo ở cùng với Lương Nhị Đệ (Leung Yee Tei) tại Hồng Thuyền. Tình cờ, đại sư Chí Thiện, khi trốn khỏi Thiếu Lâm đã giả dạng làm đầu bếp trên Hồng Thuyền. Chí Thiện dạy Lục Điểm Bán Côn cho Lương Nhị Đệ. Hoàng và Lương thân nhau nên nói chuyện về võ thuật với nhau. Họ cùng nhau xem xét, trao đổi và hòan thiện võ thuật. Từ đó, Lục Điểm Bán Côn được nhập vào Vịnh Xuân.

Lương Nhị Đệ truyền cho Lương Tán, một danh y tại Phật Sơn. Lương Tán đã ngộ được những bí quyết của Vịnh Xuân và đạt được tuyệt đỉnh võ học. Nhiều võ sư đến thách đấu với ông nhưng đều thua. Lương Tán trở nên rất nổi tiếng. Sau này, ông truyền cho Trần Hoa Thuận (Chan Wah Shan), ông đã thu nhận tôi làm môn sinh cách đây nhiều thập kỷ. Tôi đã luyện võ cùng các huynh đệ như Ngô Tiểu Lỗ (Ng Siu Lo), Ngô Trọng Tố (Ng Chung So), Trần Nhữ Miên (Chan Yu Min) và Lôi Nhữ Tế (Lui Yu Jai). Vịnh Xuân đã được truyền đến chúng ta như vậy, và chúng ta vĩnh viễn biết ơn các Tổ sư và Sư phụ. Chúng ta sẽ luôn nhớ và tôn trọng nguồn gốc của chúng ta, tình cảm chung đó luôn đoàn kết môn phái chúng ta. Chính vì vậy, tại sao tôi lại tổ chức “Vịnh Xuân Đồng Môn” (Chú thích: Tổ chức này không được thành lập, thay vào đó, Liên đoàn Vịnh Xuân Hồng Kông được thành lập) mà tôi hy vọng các anh em đồng môn ủng hộ. Điều này rất quan trọng để thúc đẩy môn phái.


Diệp Vấn

kymoc
13-09-2011, 12:26 AM
Cám ơn Lão Khoai đã sưu tầm thông tin về VX
Tuy nhiên ngoài thông tin trên thì hiện nay cũng còn rất nhiều thông tin khác nhau về nguồn gốc VX, bản thân nội bộ VX Việt Nam hiện nay cũng còn chưa có sự thống nhất do đó theo em chúng ta chỉ nên tham khảo để biết và không nên bình luận gì thêm, người trong nhà còn đang cãi nhau huống hồ chúng ta là người ngoài.

doccocuukiem
13-09-2011, 03:00 AM
Bác Kymoc biết nhiều về Vịnh Xuân, vậy có biết vợ chồng cô Vân nhà trên đê Yên Phụ ko? Nghe nói đã mất cách đây vài năm, ngày xưa nghe cô nói chuyện thì vai vế còn trên cả Lý Tiểu Long.

Lão Khoai
13-09-2011, 08:20 AM
VÔ CỰC LUẬN

Chưởng Môn
Lý Hồng Thái

Tặng bác kymoc ,người lầu thông tám quẻ

Kinh Dịch gồm 64 quẻ hay 64 mô thức tiêu biểu diễn tả tất cả hiện tượng, trạng thái tinh thần lẫn vật chất của mọi sự vật trên thế gian trong tiến trình sinh hóa của chúng. Từ những vật thật nhỏ như cấu trúc các hạt nguyên tử, 64 (DNA-), cho đến các vũ trụ, thái dương hệ, hố đen (black hole), cũng như những giai đoạn thăng trầm hưng thịnh của một đời người, một tổ chức, một quốc gia, 64 quẻ Dịch còn là 64 Ðạo hướng dẫn cách thức tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, trên đủ mọi lãnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị, quân sự, y học,...

Nói một cách vắn tắt, 64 quẻ Dịch bao hàm tất cả các định luật của vũ trụ chi phối vạn vật. Như vậy thì 64 quẻ Dịch từ đâu mà ra? Ta truy về gốc của nó qua những câu vấn đáp sau:
-64 quẻ Dịch gốc ở đâu?... 64 quẻ Dịch gốc ở Bát Quái.
-Bát Quái gốc ở đâu?... Bát Quái gốc ở Tứ Tượng/Ngũ Hành.
-Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở đâu?... Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở Lưỡng Nghi (Âm,Dương).
-Lưỡng Nghi gốc ở đâu?... Lưỡng Nghi gốc ở Thái Cực.
-Thái Cực gốc ở đâu?... Thái Cực gốc ở Vô Cực.
"Cực" nghĩa là tận cùng, "Vô" nghĩa là không, "Vô Cực" nghĩa đen là không có sự giới hạn, tận cùng. Ðã nói Vô Cực là không có sự giới hạn thì không thể định nghĩa nó được. Tuy vậy, theo Tiên gia, ta có thể miễn cưỡng miêu tả Vô Cực như sau: Vô Cực chính là Ðạo, nó hằng có, vô thuỷ vô chung, trống rỗng, tịch lặng, không hình không tướng, một khối mờ mịt, hỗn độn, đặc biệt là nó đơn giản vô cùng, vượt ra ngoài cả sự nghĩ bàn của lý trí. Và mọi vật, tuy thiên hình vạn trạng, cũng đều cũng đều từ gốc Vô Cực mà ra.
Bể võ học mênh mông, môn phái như rừng, bài bản vô số; hành giả có khổ luyện hay góp nhặt đến mãn đời cũng không thể học hết, trong khi tâm trạng vẫn thấy thiếu thốn không đủ. Mang tiếng là võ sĩ, khi lâm trận vẫn không tránh được tình trạng phân tâm loạn trí, bao nhiêu bài bản chiêu thức không sữ dụng được, rốt cuộc lại xông vào đánh đấm túi bụi như những kẻ mới tập võ, không giải quyết được trận đấu. Bậc trí giả không thể không suy tư về vấn đề này.

Khi ở ngọn cành lá với muôn hình dạng phức tạp dễ làm ta hoang mang rối trí. Nhưng ở gốc thì chỉ có một, mọi thứ trở nên đơn giản, đồng thời nắm được gốc tức là nắm được ngọn, nắm được vạn vật. Bởi vậy môn Vô Cực Công đề xướng một giải pháp là đi lùi về gốc, về Vô Cực. Trở về gốc hay quy nguyên, tức tìm về căn nguyên cội nguồn của ta cũng như của vũ trụ, hầu nắm lấy nguyên lý của bản thể, để dù có ở đâu chăng nữa cũng sẽ không bị bối rối lung lạc. Chẳng những vậy, khi cầm chìa khóa Vô Cực trong tay, ta sẽ khai mở được nét đặc thù của bất cứ môn phái nào.

Các môn võ học ở cấp 'trung học' giảng dạy cho ta một kiến thức tổng quát về Bát Quái, Tứ Tượng, Ngũ Hành, để chuẩn bị cho ta vào 'đại học'. Bát Quái (Càn, Ðoài, Ly, Chấn, Tốn, Khãm, Cấn, Khôn) là tám lực căn bản trong vũ trụ, còn gọi là tám hướng, hay tám cửa. Ta sẽ có khái niệm về sự động biến của đối phương từ quẻ nào sang quẻ nào, cũng như ta nên động qua quẻ nào,...về các cửa để biết mình đang ở đâu, cửa nào đang mở cho mình đi, dồn đối phương vào các cửa nào,...vv...Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm,Thiếu Dương) giúp ta hiểu thế nào là cương nhu lưỡng hợp - trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Thí dụ ta trụ tấn thao diển chiêu thức, từ eo trở xuống thì tịnh (Thái Âm) nhưng lại xiết cứng (Thiếu Dương), trong khi phần trên lại động (Thái Dương) nhưng lõng mềm (Thiếu Âm). Ngũ Hành (Long/Kim, Xà/Thủy, Hổ/Thổ, Báo/Mộc, Hạc/Hỏa) phân tích sở trường của mỗi hành, sự sinh khắc biến hóa của chúng ta ra sao, hành nào đang vượng, trị nó ra sao, v.v...

Lớp Thái Cực ở trình độ 'đại học' nhấn mạnh đến nguyên lý Âm Dương, cùng với nguyên tắc "xả kỹ tùng nhân" (bỏ mình theo người) mà hòa nhập với đối phương. Thí dụ địch tiến thì ta lùi, địch lùi thì ta tiến; nghe nặng bên phải thì ta nhả bên phải, nghe nặng bên trái thì ta nhả bên trái...Ta học thêm các yếu quyết về cách thức xử dụng châu thân, sự động tịnh, tâm thân khí kình thần,v.v...
Thái Cực và Âm Dương (Lưỡng Nghi) dễ bị lẫn lộn với nhau. Thái Cực không phải là Âm Dương, mà nó là mẹ của Âm Dương. Nhưng môn Thái Cực chú trọng ở Âm Dương với mục đích trang bị cho ta sự hiểu biết rốt ráo về cõi nhị nguyên. Và Âm Dương ở mức cùng tột của nó chính là Thái Cực, điểm giao tiếp với Vô Cực. Trên lý thuyết, Thái Cực và Vô Cực cách nhau chỉ khoãng đường tơ kẽ tóc.
Hành giả cần hội đủ Cương Nhu Dũng Trí Tịnh trên đường hành võ đạo. Song ít ai có thể tận dụng toàn bộ cả năm đức trên. Thông thường ta bị vướng mắc trong Cương và nhất là Trí. Mặc dù lý trí là người bạn đắc lực dẫn ta đi một quảng đường dài đến Thái Cực, nhưng rồi chính nó lại là chướng ngại vật cản trở bước tiến của ta ở giai đoạn cuối cùng.

Hai lực Âm Dương luôn luôn trồi xụt hoán chuyển gây sự đối đãi ảnh hưởng đến lý trí nên tâm ta sinh phân biệt. Vì tâm sinh phân biệt nên ta chấp vào ngã (cái tôi), trụ vào pháp. Có cái tôi xen vào nên tâm sinh vọng động. Do tâm vọng động nên sự vật ta cảm nhận đều bị bóp méo, cũng như mặt hồ gợn sóng làm ta không thể thấy rõ đáy hồ, cho nên mọi quyết định dựa trên lý trí sẽ dễ bị sai lạc. Hiểu rõ nhược điểm này, một cách mà đối phương có thể khai thác là lừa cho lý trí ta tính toán, khóa vào một mục tiêu nào đó, gây ra các điểm mù để hắn đánh vào. Một khuyết điểm nữa là sự tính toán chậm chạp của trí não. Trong lúc giao thủ, chỉ trong khoảnh khắc là bao biến chuyển đã có thể xảy ra mà nó không thể tính toán kịp, lúc đó bài bản chiêu thức có hay, có nhiều cũng vô ích.

Tâm động nên ta cảm thấy bất an, vì vậy lý trí góp nhặt cả vật chất lẫn kiến thức để cảm thấy được an ổn. Nhưng không khác gì trường hợp các học giả, số kiến thức họ tích lũy để dựa vào sẽ là cái khuôn giam cứng họ lại. Vả lại tâm đã bất an mà lại đi ôm đồm nhiều thêm, ta sẽ càng bị hoang mang rối loạn. Lão Tử đã vạch rõ lổi lầm này qua câu "càng học càng đi xa Ðạo"[một]. Vậy muốn cho tâm phẳng lặng không vọng động ta phải vượt lên trên Âm Dương, gạt bỏ lý trí ra ngoài, và dẹp luôn cả mớ kiến thức đã thâu lượm bấy lâu nay.

Lớp Thái Cực chỉ nhấn mạnh đến Âm Dương mà không đả động gì đến Bát Quái, Ngũ Hành. Như vậy môn Thái Cực đã lược giãn nhiều thứ rườm rà và bắt đầu hướng chúng ta về gốc, về Vô Cực. Lên đến lớp Vô Cực này là trình độ 'Tiến Sĩ', những gì ta đã học qua đều phải quên bỏ. Quên bỏ hết để trở về gốc tức là đơn giản dần cho tới khi trống rỗng, tịch lặng, không còn gì vướng bận, không còn trụ vào đâu nữa, "giãm thiểu rồi lại giãm thiểu cho đến chổ vô vi". Trở về với Vô Cực Ðạo là đi ngược với lẽ thông thường, thay vì tích trử, ta xã bỏ.

Lão Khoai
13-09-2011, 08:22 AM
Kinh Dịch đã phân tích tường tạn và hướng dẫn một cách cặn kẽ hành trình quay về cõi Ðạo qua các quẻ:

Bắc, số 23,
Phục, số 24,
Vô vọng, số 25.

Trở về với Vô Cực tức là thi hành đạo Phục. Tuy nhiên, trước khi có thể "phản phục kỳ Ðạo", kinh Dịch nhắc nhở ta bằng cách trãi qua đạo Bác. Bác nghĩa là bóc, lột. Sự tương quan giữa hai quẻ Bác và Phục có thể ví như trái cây khi chín rụng, cần phải khô đi, rồi vỏ nó rời ra (Bác) để các hạt bên trong có cơ hội nẩy mầm đâm rễ, bắt đầu một chu kỳ mới (Phục). Ta cắt xén cho hết những gì dư thừa để bước qua đạo Phục. Cái dư thừa phải lột bỏ là những cái hay giỏi, thói quen chống trả, cùng với những khuôn khổ học thức mà chúng ta tự giam hãm ở trong bấy lâu nay. Nhờ đó hạt nhân Vô Cực mới có chổ để nẩy nở phát triển.

Sau khi "cải tà qui chánh", hoàn tất đạo Phục, tâm ta trống rỗng ở trạng thái Vô Cực, tức là trở về trạng thái hồn nhiên của trẻ thơ. Kinh Dịch nói đến sự trong trắng ngây thơ ở quẻ "vô vọng". Vô Vọng nghĩa là không vọng động, không làm việc càn bậy, Ðộng theo ý trời, đúng với qui tắc "vô ý sinh" không có cái TÔI tính toán lý luận.

Ðặc tính của trẻ con cần được suy xét sâu xa vì thánh nhân đã không tiếc lời ca tụng. Một đặc điểm của đứa bé sơ sinh là tâm vô tư, không phân biệt xấu đẹp, thiện ác, một kẻ trộm hay người thân bước vào nhà nó đều coi như nhau, vì không phân biệt nên nó không vọng động. Ðặc điểm nữa là nó có khả năng xã bỏ rất nhanh. Ðang để hết tâm trí chơi nghịch đồ chơi đắc ý nhất của nó, chỉ một giây sau nó có thể ném bỏ không thương tiếc. Nó sống trong giây phút hiện tại, không hề vướng bận chuyện quá khứ hay lo lắng việc tương lai. Nó có một đức tin phi thường, hoàn toàn tin tưởng ở sự chăm sóc của cha mẹ nên nó không cần dùng trí thông minh để xử thế. Thật ra, nó lại dựa vào sự non nớt yếu đuối để diễn đạt những ý muốn của nó. Ðiều này được nhắc đến ở câu "giống như đứa bé sơ sinh chưa biết cười... không như người đời, ta ngu xuẩn dốt nát...nhưng ta dựa vào người Mẹ chăm sóc nuôi dưỡng ta"[một]. Dĩ nhiên đây là người Mẹ Vô Cực. Ðặc điểm mềm dẽo của đứa bé về phương diện thể chất cũng được đề cao, "người có đức sâu dày có thể ví như đứa bé sơ sinh, xương yếu gân mềm, nhưng cái mềm của nó chắc", hay "cứng mạnh là kẻ đồng hành với sự chết, mềm mại yếu đuối là bằng hữu của sự sống."

Ta học hỏi ở đứa trẻ thơ để có khái niệm về Vô Cực. Ta đã thấy vì chưa phân biệt vọng động nên chưa có cái TÔI hình thành ở đứa bé thành thử trẻ thơ rất gần với Vô Cực, hay đúng ra nó phản ảnh trạng thái Vô Cực. Cứ việc "ngu si hưởng thái bình" là ở chổ này, đặt niềm tin ở Mẹ Vô Cực, tức pháp Vô Cực dẫn dắt và ta không cần phải lao tâm nhọc trí.

Môn Vô Cực Công sẽ dẫn ta trở về trạng thái mềm dẽo của đứa trẻ, dáng cách buông lõng của bộ xương, lúc chưa có lý trí xen vào, mọi động tác đều do "vô ý sinh". Nghĩa là không có ý tạo tác, sự việc xảy ra một cách tự nhiên trong khi đầu óc thoải mái không có gì vuớng bận. Ðó là thái độ khoan thai thư thái mà Quyền phổ Vô Cực Công có nhắc đến qua các câu như "Nhất kình thư bộ", chẳng hạn như ta đang nhồi bột, bất chợt có người nhờ lấy cái khăn, ta tự động với tay rút khăn một cách nhẹ nhàng khéo léo mà tâm trí hoàn toàn không để ý gì cả.

Ý niệm "vô ý sinh" có điểm tương đồng với thuyết Vô Vi, Vô Vi có hai định nghĩa, làm nhưng không phải là làm, và không làm nhưng mọi việc đều xong. Người đạt đến mức Vô Cực tuy vẫn thấy những động tác đánh đở, nhưng phải hiểu là họ không có chủ ý đánh đở, họ không còn cái tôi hay lý trí bảo tay chân phãi đở gạt thế này thế nọ. Họ có thể ví như giãi Ngân Hà, tự động xoay chuyển khi đối phương dấy động. Bỡi vậy, làm nhưng không phải là làm, không làm nhưng khi giãi Ngân Hà đi hết một chu kỳ, trở về trạng thái tự nhiên của nó thì mọi việc sẽ hoàn tất. Bởi vậy, không làm nhưng mọi việc đều xong.

Thập Nhị Huyền Công là bài quyền trọng yếu của Vô Cực Công. Các chiêu thức trong bài giải thích tiến trình sinh hóa của vạn hữu, giúp ta có khái niệm vế sự ứng hiện của Vô Cực

kymoc
13-09-2011, 09:26 AM
Lão khoai quả là người uyên thông về dịch lý...Kymoc rất vui được hầu chuyện cùng Lãokhoai về Dịch kinh, Mai Hoa...bởi căn bản của VX hay một số môn võ thuật khác đều không ít thì nhiều cũng lấy từ kho tàng triết học phương đông đó là Kinh Dịch.Đặc biệt nhất phải kể đến: Vô cực công, Bát quái cực, Thái cực quyền, Vĩnh Xuân.Đây là những môn lấy nguyên lý cân bằng của Âm Dương để làm tiêu chí rèn luyện.

kymoc
13-09-2011, 09:39 AM
Bác Kymoc biết nhiều về Vịnh Xuân, vậy có biết vợ chồng cô Vân nhà trên đê Yên Phụ ko? Nghe nói đã mất cách đây vài năm, ngày xưa nghe cô nói chuyện thì vai vế còn trên cả Lý Tiểu Long.

Hệ thống Vĩnh(Vịnh) Xuân của Việt Nam được bắt nguồn từ cụ Tế Công, Còn hệ thống Vĩnh(Vịnh) Xuân của Hồng Kông được Cụ Diệp Vấn đưa vào.Hai nhánh của Cụ Diệp và Cụ Tế là hai nhánh xa nhau. Tuy cùng bắt nguồn từ Hai trong ba đệ tử đầu tiên của Vĩnh Xuân Trung Hoa (Lương Nhị Đệ,Hoàng Hoa Bảo,Đại Hoa Diện Cẩm).Dòng cụ Diệp bắt nguồn từ Đại sư Lương Nhị Đệ,dòng cụ Tế bắt nguồn từ Đại sư Đại Hoa Diện Cẩm.
Qua đó có thể khẳng định vợ chồng cô Vân không ngang hàng, không hàng trên hay hàng dưới với Lý Tiểu Long,bởi họ không cùng một nhánh trực tiếp.Bởi từ đời cụ Diệp cụ Tế đến đời chung nhánh đầu tiên đã trải qua hơn 3 đời rồi.
Vấn đề thứ nữa là tuy Lý Tiểu Long có được học VX từ Cụ Diệp Vấn nhưng kỳ thực Lý Tiểu Long hoàn toàn không lĩnh hội được gì nhiều từ hệ thống quyền pháp Vĩnh Xuân của Cụ Diệp.Bản thân Lý Tiểu Long sau này khi thành danh có quay lại xin cụ Diệp chỉ dạy cho bài Mộc Nhân, nhưng cụ Diệp đã từ chối.Bản thân VX Hồng Kông bây giờ cũng chưa bao giờ coi Lý Tiểu Long là người am hiểu và giỏi Vĩnh Xuân.Lý Tiểu Long là bậc kỳ tài võ học nhưng tiếc là anh theo học VX của cụ Diệp trong thời gian quá ngắn nên không thể lĩnh hội được nhiều.

tranbinh
13-09-2011, 10:23 AM
Khái lược lịch sử Vịnh Xuân Việt Nam

Vĩnh Xuân Quyền vào Việt Nam chủ yếu do công của tôn sư Nguyễn Tế Công - người được đa số các võ sư Vĩnh Xuân hiện nay coi là sư tổ của Vĩnh Xuân Việt Nam. Từ năm 1939 đến 1954, Sư tổ chủ yếu dạy ở ngoài Bắc với các học trò (thế hệ thứ hai) sau này được nhiều người biết tên như các cố võ sư Việt Hương, Trần Văn Phùng, Ngô Sỹ Quí, Vũ Bá Quí, Trần Thúc Tiển, Ngô Phượng Tường, Hồ Hải Long v.v.

Sau năm 1954, sư tổ chuyển vào Nam, tiếp tục dạy các học trò như các cố võ sư Nguyễn Bá Khả, Lục Viễn Khai, Đỗ Bá Vinh, Ngô Phượng Tường, Trần Văn Từ, Huỳnh Ngọc Ẩn(đệ tử của Hồ Hải Long) v.v. cho đến khi mất 1959.

Trong thế hệ thứ ba của Vĩnh Xuân Việt Nam cũng đã có nhiều võ sư mở võ đường, được công chúng biết, đặc biệt ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, và ở một số nước khác như Canada, Pháp và Ukraina. Ngoài ra, còn nhiều võ sư không mở võ đường chính thức, dù vẫn âm thầm truyền dạy và phát triển các công phu của môn phái.

Ngoài những nhánh chính của tôn sư Nguyễn Tế Công, còn có một số ít chi nhánh khác của Vịnh Xuân vẫn được truyền dạy chủ yếu trong cộng đồng người Hoa ở Q5 (Sài Gòn,Chợ Lớn) và rải rác ở các tỉnh Nam Bộ (Vũng Tàu, Biên Hòa, Lái Thiêu, Cần Thơ...)Những chi nhánh này cũng do những người Hoa di cư truyền dạy (cùng thời và sau tôn sư Nguyễn Tế Công), mang tính chất tâm truyền(1-2 người) mục đích bảo tồn tinh hoa nên ít được biết đến.Những chi nhánh này mang nét đặc trưng của Vịnh Xuân truyền thống với 4 bài quyền, 2 bài binh khí. ( S/T )

tranbinh
13-09-2011, 10:35 AM
Vịnh Xuân quyền Lịch sử và tên gọi của môn phái

Trước đây, không có cơ sở tin cậy để kết luận về nguồn gốc của tên gọi. Một trong các truyền thuyết nói rằng tổ sư của môn võ này là Ngũ Mai Lão Ni, một đệ tử của võ thuật Thiếu Lâm, trưởng môn phái Bạch Hạc Quyền, đúc kết những kinh nghiệm tập luyện và bổ sung thêm những kỹ thuật độc đáo "lấy nhu chế cương" khi quan sát trận giao đấu giữa Hạc và Xà. Cũng theo truyền thuyết, đệ tử đầu tiên của bà là Nghiêm Vĩnh Xuân, người có công phát triển rộng rãi môn võ. Về sau, tên của bà được lấy làm tên môn phái.

Trong các truyền thuyết khác, tên của Chí Thiện Thiền Sư, Miêu Hiển, Phùng Đạo Đức, Trương Ngũ thường được nhắc đến như những người có các đóng góp cho kỹ thuật của môn phái. Các võ sư ở thế hệ sau như Đại Hoa Diện Cẩm, Lương Nhị Đệ, Hoàng Hoa Bảo trong Hồng Hoa Hội, Lương Tán, Hoắc Bảo Toàn, Phùng Thiếu Thanh, Trần Hoa Thuận v.v. là những người đã có công truyền bá và hòan thiện các kỹ thuật Vĩnh Xuân, và được nhắc đến trong hầu hết các phả hệ ở các chi phái. Các bằng chứng về việc Hoắc Bảo Toàn và Phùng Thiều Thanh truyền dạy cho anh em Nguyễn Tế Công và Nguyễn Kỳ Sơn hiện vẫn còn lưu tại Phật Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc.

Môn này đã phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, và được biết đến nhiều nhất qua Lý Tiểu Long, người thể hiện công phu Vĩnh Xuân trên màn bạc. Sư phụ ông - Diệp Vấn, được coi là sư tổ của Vĩnh Xuân Hồng Kông - là người có công đào tạo ra một thế hệ học trò đã truyền bá Vĩnh Xuân rộng rãi trên toàn thế giới.

Hiện nay, theo những nghiên cứu về khảo cổ học của Viện Văn hóa và Khảo cổ Trung quốc, Viện Văn hóa và Khảo cổ tỉnh Phúc kiến, những nghiên cứu về lịch sử, về võ thuật và nghệ thuật kinh kịch Trung quốc cộng với những công trình nghiên cứu của nhiều dòng Vĩnh Xuân khác nhau trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là Viện Bảo tàng Vĩnh Xuân (Ving Tsun museum) của dòng Diệp Vấn, chúng ta có thể rút ra các nét chính về lịch sử môn Vĩnh Xuân như sau:

- Vĩnh Xuân là một môn khoa học chiến đấu được các cao tăng Nam Thiếu Lâm và một vài người còn lại của giới tướng lĩnh quân sự nhà Minh nghiên cứu sáng tạo ra tại Vĩnh Xuân đường, thuộc về chùa Nam Thiếu Lâm ở Bồ Điền (Putian), tỉnh Phúc Kiến.Mục đích của việc sáng tạo ra môn Vĩnh Xuân là để tạo ra một phương pháp chiến đấu hữu hiệu hơn võ thuật Thiếu Lâm truyền thống. Đồng thời, vào thời điểm đó, quân đội Minh triều đã tan rã, nên giới tướng lĩnh quân sự Minh triều và giới lãnh tụ khởi nghĩa cần phải có một phương pháp huấn luyện mới thật hiệu quả, nhanh chóng để trong một thời gian ngắn có thể đào tạo ra một lực lượng chiến đấu đủ sức chống lại quân đội Mãn Thanh thiện chiến.

- Khi chùa Nam Thiếu Lâm này bị vua Khang Hy đốt vào cuối thế kỷ 17, các cao thủ Vĩnh Xuân thoát khỏi vụ hỏa thiêu đã đổi tên môn phái thành Vịnh Xuân, rút vào hoạt động bí mật và phổ biến môn phái ra quần chúng dưới tên gọi Vịnh Xuân. Truyền thuyết về Ngũ Mai lão ni và Nghiêm Vịnh Xuân được đặt ra để che giấu nguồn gốc thực của môn phái. Chữ Nghiêm đặt trước tên Vịnh Xuân để nhắc về lời thề giữ bí mật của Vĩnh Xuân đường.

- Khi đổi tên, họ luôn có ý định khi lật đổ nhà Thanh, phục hồi nhà Minh, sẽ dựng lại chùa Nam Thiếu Lâm và đổi tên môn phái trở lại thành Vĩnh Xuân. Dự định này đã không thành sự thật, vì triều đại nhà Minh không bao giờ được khôi phục. Do đó môn phái mang cả hai tên gọi là Vĩnh Xuân và Vịnh Xuân, tùy theo xuất thân và dòng gốc của người thầy phổ biến nó.

- Bên ngoài Hồng Hoa hội, khi Vịnh Xuân được dạy cho quần chúng, các sư phụ không bao giờ dạy toàn bộ hệ thống như là một Khoa học Chiến đấu hoàn chỉnh được tạo ra từ Vĩnh Xuân đường. Chính vì vậy, nhiều dòng Vịnh Xuân khác nhau đã ra đời, và có nhiều cách hiểu và lý giải công pháp Vịnh Xuân khác nhau.( S/T)

Lão Khoai
13-09-2011, 10:42 AM
@tranbinh Huỳnh Ngọc Ẩn có phải là ông làm bài thơ ..Anh đi rừng chưa thay lá ...
.Em có về qua lối cũ
phố phường chừ đã đổi thay
thương em nửa đời hoang phế
thương ta trọn kiếp lưu đầy

Hay là trùng tên hả tiểu muội ?

Lão Khoai
13-09-2011, 10:48 AM
Kymoc và tranbinh là cao thủ cờ tuớng mà lại rành võ thuật cùng nhiều môn khác .Thật là đa tài Sao ai cũng nói Lý tài tử là thuộc Vịnh Xuân nhưng rõ ràng trong cách chiến đấu đánh với Chuck Norris đòn chân ông dùng thuần túy Karate .Lạ thật !

tranbinh
13-09-2011, 12:11 PM
@tranbinh Huỳnh Ngọc Ẩn có phải là ông làm bài thơ ..Anh đi rừng chưa thay lá ...
.Em có về qua lối cũ
phố phường chừ đã đổi thay
thương em nửa đời hoang phế
thương ta trọn kiếp lưu đầy

Hay là trùng tên hả tiểu muội ?

Chắc là trùng tên thôi huynh ạ . Ông Huỳnh Ngọc Ẩn ( Hồ Phi HỔ ) này nghe nói đang ở Nga ta lư mở võ đường và có tham gia Liên đoàn võ thuật thế giới

kymoc
13-09-2011, 01:02 PM
Kymoc và tranbinh là cao thủ cờ tuớng mà lại rành võ thuật cùng nhiều môn khác .Thật là đa tài Sao ai cũng nói Lý tài tử là thuộc Vịnh Xuân nhưng rõ ràng trong cách chiến đấu đánh với Chuck Norris đòn chân ông dùng thuần túy Karate .Lạ thật !
Các kỹ thuật mà Lý Tiểu Long sử dụng trong Phim ảnh thường mang tính biểu diễn (đẹp mắt, thu hút khán giả).Còn trong thực tế ngoài đời Lý Tiểu Long đã phát triển một số căn bản của VX lên một tầm khác và đặt tên là "Triệt quyền đạo",môn này cũng thu hút được rất đông học trò theo học, tuy nhiên chưa một ai đạt được đến trình cao thủ như Lý Tiểu Long.

tranbinh
13-09-2011, 01:17 PM
Kymoc và tranbinh là cao thủ cờ tuớng mà lại rành võ thuật cùng nhiều môn khác .Thật là đa tài Sao ai cũng nói Lý tài tử là thuộc Vịnh Xuân nhưng rõ ràng trong cách chiến đấu đánh với Chuck Norris đòn chân ông dùng thuần túy Karate .Lạ thật !

Những gì Lý tài tử thể hiện trong phim là môn phái do ông sáng tạo ra Lão huynh ạ
.
Nghiên cứu và sáng tạo Triệt quyền đạo

Năm 1965, chỉ vài tháng sau khi cưới. Lý Tiểu Long nhận được lời thách đấu của Hoàng Trạch Dân (Wong Jack Man), một thầy dạy Kungfu tại khu phố Tàu. Họ thỏa thuận nếu Lý Tiểu Long thua anh sẽ phải hoặc là đóng cửa võ quán của mình hoặc ngưng dạy những người da trắng, còn nếu Jack thua anh ta sẽ phải ngừng dạy võ. Hoàng Trạch Dân không tin là Lý Tiểu Long sẽ dám nhận lời thách đấu, và cố trì hoãn trận đấu. Lý Tiểu Long đã nhận lời và yêu cầu họ không phải đợi. Hoàng Trạch Dân sau đó cố giới hạn kỹ thuật. Lý Tiểu Long khước từ những quy định đó và họ đã không đi đến thỏa thuận. Lý Tiểu Long đánh bại kẻ thù chỉ trong giây lát và giành phần thắng. Hoàng Trạch Dân bỏ chạy nhưng Lý Tiểu Long tóm lại và đánh gục hắn ngay trên võ đài. Đệ tử của Hoàng Trạch Dân định can thiệp song James Jimmy Lee, một người bạn tốt của Lý Tiểu Long đã ngăn lại. Sau đó Lý Tiểu Long nhận ra tại sao trận đấu lại diễn ra lâu như vậy. Lý Tiểu Long bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Đó chính là cơ sở sau này cho môn võ Triệt quyền đạo (Jeet Kune Do), "Nghệ thuật chiến đấu bằng cách chặn đứng đòn tấn công của đối phương" đã được ra đời. Triệt Quyền Đạo là một môn võ bao gồm đòn thế của nhiều môn phái như quyền Anh phương Tây, quyền Thái, Karate Nhật Bản, Taekwondo Hàn Quốc, võ Trung Hoa - Hồng Gia Quyền, Vịnh Xuân Quyền trong đó đặc biệt nhấn mạnh các kỹ thuật của Vịnh Xuân Quyền (như bài Mộc nhân thung cải cách) được Lý Tiểu Long gọi chung là Kungfu.( S/T )

thi_mich
13-09-2011, 03:53 PM
Triệt Quyền Đạo và Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia

Chiến thuật Tầm kiều - Phá mã là một chiến thuật phổ biến trong tất cả các hệ phái Nam Quyền Thiếu Lâm từ Hồng Gia quyền cho đến Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Phật Gia quyền, Trung Ngoại Chu Gia, Thái Gia quyền. Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long cũng phát triển trên nguyên lí này thành 2 nguyên lí căn bản của Triệt Quyền Đạo:

1. Triệt Đầu Quyền: ngăn chặn đòn của đối phương ngay từ trong gốc trước khi phóng ra đến mục tiêu trên người ta (nên mới gọi là Triệt Đầu Quyền, Triệt có nghĩa là ngăn chặn khi quyền đối phương mới khởi phát).
2. Tiếp Vĩ Quyền: đối phương vừa dứt đòn hết tầm ngay lập tức ta xuất thủ tiếp quyền đối phương (nên mới gọi là Tiếp Vĩ, Vĩ là cái đuôi, ý nghĩa là như vậy).

Chữ Kiều có nghĩa là Cái Cầu, ở đây chỉ khoảng cách đo lường giữa ta và đối phương.

Tuy nhiên có một đặc điểm trong kĩ thuật quyền pháp của Trung Hoa rằng khái niệm Kiều có nghĩa là Điếu Kiều tức là cái cầu ở cửa thành ngày xưa hạ xuống cho người ra vào, nên khi muốn tấn công đối phương nghĩa là trước khi Công Thành ta phải phá Cửa Thành (Phá Kiều) rồi mới xông vào Thành, tức là đánh gẫy (triệt hạ) tay chân (quyền cước) đối phương trước rồi mới công thành.

Xét cho cùng Triệt Quyền Đạo của Lý Tiểu Long không phải là mới mẻ gì mà chỉ là sự phát triển trên cơ sở các Nguyên Lí Quyền Kĩ Nam Thiếu Lâm Hồng Gia và Thiếu Lâm Vịnh Xuân quyền.

Nhưng sự sáng tạo của Lý Tiểu Long ở chỗ là Lý nhấn mạnh đến tính đơn giản, trực tiếp và phi cổ điển.

Nghĩa là phải chăng Lý đã chối bỏ mọi Hình Thái Quyền Pháp Thiếu Lâm để tiến đến Nguyên lí Vô chiêu thắng Hữu chiêu?

Thật ra không phải như vậy.

Lý muốn nói rằng mọi Nguyên lí Triết học Trung Hoa trong Võ Thuật như Âm - Dương, Cương - Nhu, Hư - Thực, Động - Tĩnh và các hình thái quyền pháp (tức là những Chiêu thức, Chiêu số) chỉ là lột tả cái ý niệm sống động nào đó của quyền thuật. Các ý niệm quyền thuật này thể hiện ở ngay tên của các chiêu thức quyền pháp trong bài quyền theo cách tư duy tượng hình (mô phỏng) có tính ví von và so sánh bằng hình ảnh của người xưa.

Chẳng hạn ở tư thế Trung Bình Tấn (Hồng quyền Hồng Hi Quan gọi là Tứ Bình Bát Phân) một tay quyền để ở hông còn tay kia xuất quyền đánh thẳng ngang về phía một bên hông của tay đó có tên là Hoa Vinh xạ tiễn ám chỉ động tác tay vung quyền tấn công tựa như dang cánh cung về một bên, trong khi tay còn lại nằm ở hông giống như đang nắm mũi tên kéo về sắp sửa bật dây cung bắn ra, còn Hoa Vinh là tên của một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am. Hoặc chiêu thức Ngọa Hổ Tầm Dương (cọp nằm bắt dê) chẳng hạn. Còn nếu như hai tay nắm thành quyền nằm ở hai bên hông thì gọi là Nhị Hổ Tiềm Tung (như hai con cọp nằm hai bên cổng) hay Long Tàng Hổ Phục (rồng và cọp nằm hai bên chờ thời xuất công)...

Do vậy Lý đã đưa ra khái niệm Triết học vận động trong võ thuật có nghĩa là giữa các hình thái quyền pháp - tức là các chiêu thức - luôn có sự biến hóa có thể không theo một trình tự nhất định nào để trở thành một khuôn vàng thước ngọc mà tùy theo khả năng ứng biến theo tình thế của người luyện tập và trong khi chiến đấu ngoài đời thật sự. Đó là tư tưởng "Không câu chấp, không câu nệ và vạn pháp hư không" trong thuyết lí Thiền Tông Phật Giáo Trung Hoa.

Và Lý đã đi đến kết luận Học nguyên tắc rồi giải trừ nguyên tắc, nghĩa là qua sông rồi thì nên để lại Thuyền mới đi tiếp được, nếu cứ câu nệ vào phương pháp tức là quá quan tâm đến hình thức mà không hướng đến nội dung thì Tâm Pháp bị vướng bận, năng lực bị giam hãm và không được giải phóng thì cho dù có tập luyện quyền thuật lâu ngày cũng không có kết quả gì.

Như vậy người mới học quyền thuật rất cần các Hình thái Quyền pháp căn bản, đến khi tinh luyện rồi thì thiên biến vạn hóa, từ chỗ có chiêu số đi đến chỗ không có chiêu số nghĩa là Vô ảnh quyền, vô ảnh cước, mọi cử động bất kỳ của thân thể cũng có thể trở thành chiêu thức phòng thủ, tấn công hay phản công đối phương hữu hiệu.( S/T )

kymoc
13-09-2011, 08:59 PM
Cám ơn thi mich đã có bài nói về Triệt Quyền Đạo và Nam quyền TL Hồng Gia. Bác nào còn nhã ý vào chém gió hoặc sưu tầm võ vẽ ở đâu thì xin mời vào...kể cả so sánh chiêu thức trong các câu truyện kiếm hiệp...
thi mich đã hiểu về tầm kiều, vậy cho phép Kymoc hỏi thi mich hiểu như thế nào là Trường kiều phát lực và Đoản kiều phát lực.

Lão Khoai
13-09-2011, 09:23 PM
Tiếp theo phần 1 vô cực luận


Ðộng tác buông thả của các chiêu thức Thập Nhị Huyền Công cũng như Tam Phong Quyền đều dựa theo các thế rơi của chiếc lá, cành hoa, hay viên gạch. Sự rơi rớt xuống đất của chúng cho ta thấy Vô Cực Công đặt nặng ở hành Thổ - mẹ của các hành khác. Quyền cước (nói chung. tứ chi là Kim Mộc Thuỷ Hỏa) sẽ không có sức mạnh và sự vi diệu của chúng cũng không thể phát huy đúng mức nếu không có thân mình (hành Thổ) yễm trợ đằng sau; ra lệnh cho mọi người mà không có thực quyền thì không khác gì lời nói suông, sẽ không ai nể sợ cả. " Thận là gốc của Tiên Thiên, Tỳ (lá lách) là gốc của Hậu Thiên ". Tỳ ở trung cung (giữa cơ thể thuộc hành Thổ). Hành Thổ tượng trưng cho quả Ðất , là người Mẹ nuôi dưỡng dung chở vạn vật. Như vậy Vô Cực Công ám chỉ không gì khác hơn là quay về với Mẹ Vô Cực.

Vô Cực Công chủ trương 'bất dụng lực'. Vì lực tự nhiên do ở thao tác rợp ràng của cơ thể tạo ra. Khi ỷ lại vào tài hay giỏi dễ đưa đến sự chống trả gây ra sự cố ý vận sức (vướng mắc ở đức Cương). Tưởng rằng đối phương sẽ kiêng nể cái hay giỏi của ta, nhưng cao thủ Vô Cực, vào và ra được toàn khâu, sẽ không ngần ngại bước vào ngàm để triệt hạ ta. Ðương sự đũ bản lãnh áp dụng một phương cách không mấy xa lạ, 'vào hang hùm để bắt hổ con'. Do đó, ỷ dựa vào sở trường của mình là tự đào hố chôn mình vậy; trái với lẽ thường, ta học võ để gây sự tự tín, tin tưởng vào khả năng của chính mình để sẳn sàng đương đầu với đối phương, nghịch cảnh. Câu tục ngữ 'sinh ngề tử nghiệp' cũng như câu 'kẻ nào xử dụng gươm giáo sẽ chết vì giáo gươm' rất hữu lý trong trường hợp này. Và một thí dụ tiêu biểu là Tôn Hành Giả trong truyện Tây Du Ký, cậy ở 72 phép thần thông biến hóa lên quấy phá Thiên Ðình, để rồi bị kềm tỏa ở chân núi Ngũ Hành.

Bởi vậy, yếu tố then chốt và cũng là bước đầu của Vô Cực Công khi thao diễn Thập Nhị Huyền Công ta phải thật lỏng mềm, phải bỏ quên cái hay của mình, và luôn nhớ rằng ta là kẻ yếu dở nhất ) ," Phúc thay cho kẻ có lòng khiêm tốn, vì nước Trời là của họ"). Ðồng thời ta tập thêm pháp Tỳ Bà Công để phát triển sự mềm dẽo tự nhiên - khác với sự mềm dẽo do lý trí sai bảo - bổ túc cho Thập Nhị Huyền Công. Và cũng nhờ sự buông lõng không vận sức, khí lực luân lưu không bị ngăn ngại sẽ dễ khai mở kinh mạch, tăng cường thể lực,v.v...

Có hai thứ khí lực trong cơ thể, Tiên Thiên và Hậu Thiên. Khi mới sinh ra ta được thừa hưởng Tiên Thiên khí là khí lực truyền từ cha mẹ. Hậu Thiên Khí là khí lực do ta tự gây tạo nên. Theo lẽ thường, con người đến 50-60 tuổi thì Tiên Thiên Khí suy kiệt. Tuy nhiên Thập Nhị Huyền Công còn là phương pháp giúp ta phát triển Hậu Thiên Khí để bổ túc cho Tiên Thiên Khí. Tập một giờ thì ta gặt hái được một giờ công lực; tập 20 năm hay 40 năm thì ta được 20 năm hay 40 năm công lực.Thế nên không có gì lạ khi có những cụ già 70, 80 tuổi vẫn có thể hạ được những thanh niên 19, 20 tuổi. Nên nhớ rằng một cây con bé nhỏ ốm yếu phải trải qua bao nhiêu năm gió bão trui luyện nó mới trở thành cây cổ thụ cao to, cuồn cuộn gân guốc sau này.

Tại sao lớp Vô Cực Công vẫn còn phải học bài bản ? Lý do là không thể bất chợt nhảy luôn vào Vô Cực, lớp vỏ hay cái giỏi của sự hiễu biết trước đây đã đóng dày đặc, cũng như một thói quen lâu năm không thể một sớm một chiều mà dứt bỏ được. Ta nắm lấy cái thanh cao để buông dần cái thô trược, rồi sau đó mới thoát hẳn ra ngoài mọi khuôn phép hình thức.

Chúng ta đã công nhận quan điểm con người vốn động. Dựa vào khả năng lanh lẹ, hay thu thập bài bản cho nhiều cũng chỉ gây thêm nhiều sự giao động mà thôi. Vô Cực Công cho rằng bí quyết là ở chổ tâm bình thản. Muốn vậy, không khác Hồng Gia Quyền ở bước đầu, ta cần trụ tấn trong lúc thao diễn Thập Nhị Huyền Công.

Trước hết, trụ tấn để định được tâm, nhờ đó ý có thể quán khắp châu thân. Song song với việc trụ tấn, sự buông thả rơi rớt trong lúc thao diễn giúp tâm trí dễ trầm xuống, đưa đến sự tĩnh lặng. Ðồng thời những thao tác thượng trung hạ liên kết chặc chẻ sẽ dẫn đến trạng thái 'thân thủ bộ pháp tích cực liên hoán'. Lâu ngày toàn thân sẽ như có mắt, nơi nào bị công thì tự nó sẽ tránh và phản đòn, ta không cần phải bận tâm lo phòng thủ.

Ngoài ra trụ tấn còn mục đích nuôi tấn (gốc). Tấn sinh Thần, Thần nhiếp Khí. Bởi vậy đứng tấn để nuôi Thần. Không cần phải tìm Tinh Khí Thần đâu xa, tấn vững chắc sẽ đưa đến "Tinh Khí Thần hợp nhất". Nó sẽ trợ lực cho quyền pháp (lực tại căn), giúp cho Thần khỏi bị động, cũng như thân pháp khỏi bị loạn. Và sau này, Thập Nhị Huyền Công qua giai đoạn động, tuy không còn trụ tấn nữa, nhưng khi ta di chuyễn đến đâu thì tấn theo đến chổ đó, không khác gì cái gốc di động.

Tuy rằng tấn Vô Cực lơ lửng, không Âm, không Dương, không trụ vào đâu cả. Nhưng ta cần nương vào cái đã có trước. Bởi vậy tấn Vô Cực lúc đầu phải dấu Thái Dương. Cần phải bám vào Dương, vì Dương là chính, là mặt Trời, là có, và Âm là mặt Trăng là không.

Tuy Thái Cực chú trọng đến cái Một, ta và địch là một. Nhưng đây là Một - 2, vì vẫn phải có 2 người, phải có ta bỏ mình theo người, địch tiến ta lùi,v.v...Lên đến Vô Cực lúc đó không còn vướng mắc Âm Dương, không còn người không còn ta, ta và địch là Một. Một này là Một -0, khác với Một -2 của Thái Cực.
Bộ xương người là một đối tượng tuyệt hảo để nghiệm xét. Nó đã chết rồi, không còn ý tưởng dấy khởi. Nó không cầu sinh, không cầu tử. Ðối với nó ta không mà nó cũng không.Ta tập với bộ xương người, nếu đấm nó phía bên phải, bên trái nó bật đánh lại ta, nếu đấm nó phía bên trên thì phía dưới nó bật đá lại ta. Ta đánh nó chậm thì nó phản đòn lại chậm, đánh nó nhanh nó phản đòn nhanh,v.v...Ðánh nó nhanh như thế nào ta vẫn bị đòn đánh trả lại. Thật ra nó không lo tự vệ cũng như có ý định đánh lại ta, trái lại nó nương ở ta, nhờ ta động mà nó sống. Sự phản đòn của nó do sự phản xạ tự nhiên, hoàn toàn không có tính toán, không chiêu thức.

Hoặc như giải Ngân Hà, tự nó đã đầy đũ toàn vẹn, an nhiên tự tại. Nhưng khi đối phương chợt động, tức là Thái Cực phát khởi, lập tức Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái nối tiếp nhau sinh biến, chuyễn xoay luôn cả giải Ngân Hà. Ðối phương dấy động gây ra sự thái quá (dư thừa) hoặc bất cập (thiếu hụt) làm xáo trộn trạng thái quân bình hiện tại. Mà bản tính tự nhiên của giải Ngân Hà là đi đũ một chu kỳ sinh tử mộ tuyệt, rồi trở lại tình trạng quân bình tịch tĩnh Vô Cực của nó. Trên đường đi trở về Vô Cực, những gì thiếu hụt nó sẽ bù vào, dư thừa nó sẽ thãi ra ngoài. Vậy nếu đối phương không bị cuốn ra khỏi quỹ đạo, thì cũng bị Thiên La Ðịa Võng bao phủ và nghiền nát trong giải Ngân Hà. Sao Thiên La (lưới trời) nằm ở cung Thìn, sao Ðịa võng (võng đất) ở cung Tuất. Trên lá số tử vi, nói một cách khái quát thì Mệnh ở cung Ngọ, Phối (phu thê) ở cung Thìn, và Quan (công danh) ở cung Tuất. Vậy sao Thiên La đi với cung Phối, và sao Ðịa Võng đi với cung Quan. Phối và Quan là hai nguyên do chính gây ra dục vọng tham ái khiến tâm ta động. Và khi tâm bị khuấy động, thiên la địa võng sẽ phong tỏa xiết trói và nghiền nát ta tương tự như nạn nhân kể trên.

Khi trụ bám vào một sự hay vật gì, là khó thấy được sự vật khác chung quanh nó. Còn như bộ xương người, không trụ không cầu nên không bị giới hạn trong một phạm vi nào. Thí dụ khi phát quyền vào ngực đối phương, thay vì theo dỏi địch thủ, ta không cần để ý, không cần biết trúng hay trật. Trường hợp đối phương đở hay tránh được, thông thường ta thu quyền về rồi biến thế khác, trái lại ta đi tiếp. Nếu đối phương đở lên, đường quyền tiếp tục lên mặt hắn, nếu hắn gạt xuống, đường quyền đi xuống bụng hắn. Hoặc đối phương chụp lấy ta, thay vì ta giải gở, nhưng kế tiếp là khuỷu tay, vai sẽ tự động phát đòn. Một khi phóng quyền cước ra thì nó sống ngay lúc đó, nhưng nó chết liền khi bị đối phương đở hay chụp. Vậy nếu không cầu mong ở quyền cước hay tự trói buộc vào mục tiêu nào thì mọi thứ sẽ tự kiếm đường sống cho nó cũng như mục tiêu khác sẽ tự nảy sinh. Thế nên càng buông bỏ nhanh ta càng được tự do, càng linh hoạt biến hóa. Ỳ niệm này hoàn toàn phù hợp với câu "kẽ nào coi trọng mạng sống mình sẽ mất nó".

Lão Khoai
13-09-2011, 09:24 PM
Hành trình trở về Vô Cực rất đơn giản, khi đã có, tức là xử dụng được Bát Quát, Ngũ Hành, Thái Cực, ta bắt đầu lìa bỏ cho đến khi không còn gì để học cái Không.

Thường ta chỉ chú ý tới cái Có mà không chú trọng tới cái Không. Một căn nhà sẽ chẳng phải là căn nhà nếu nó không có khoãng trống bên trong, cũng như cái cửa sổ sẽ chẳng thành hình nếu không có khoảng trống trên tường. Thử nghĩ nếu không ăn hay không thở thì ta sẽ không thể sống được. Hoặc một bản nhạc chỉ toàn là nốt từ đầu đến cuối mà không có những lúc yên lặng, nó cũng sẽ không phải là bản nhạc.

Mức quan trọng của cái Không chẳng kém gì cái Có, thật ra nó đã bám sát cái có trong vũ trụ từ nguyên thủy. Một căn nhà đầy chật đồ đạc làm ta nghĩ là nó không có khoãng trống, nhưng thật ra sự hiện diện của nó đã ở đó tự bao giờ. Chỉ cần bỏ đồ đạc ra là khoãng trống tự xuất hiện, ta không cần phải bê nó vào. Vậy Có (sắc) và Không đi đôi với nhau như hình với bóng, vì chúng chính là cặp Âm Dương. Ta được biết Âm là Dương ở trạng thái tĩnh, Dương là Âm ở trạng thái động, ngày nay khoa học cũng tuyên bố không khác, năng lượng (energy) là vật chất (matter), và vật chất là năng lượng. Do đó, cặp Có Không tuy có cùng một bản chất nhưng ở hai trạng thái khác nhau.

Phật gia cũng đồng một quan điểm khi nói "sắc sắc không không". Sau khi thấu triệt về sắc (có/ thí dụ như tứ đại: đất, nước, lửa, gió), họ quay qua học cái Không. Khi đã thấu đáo ý nghĩa của Sắc và Không, và chẳng còn bị chúng chi phối, tức là lúc trí tuệ (bát nhã) đã khai mỡ, họ mới có thẩm quyền để nói "sắc tức thị không, không tức thị sắc" (sắc là không, không là sắc).

Ta đã biết khi lùi về Vô Cực tức trở về cái gốc sinh ra vạn vật; hay nói một cách khác ta trở về chổ Không để Có. Cái Có này không phải cầu mong mà được, nó là cái Có tự nhiên, khác với cái Có (đối với cái không) của Âm Dương, của lý trí. Ðể có khái niệm về cái Không sinh ra vạn vật, ta nhận xét một cây cổ thụ to lớn từ một hạt nhân bé nhỏ, mà khi bổ hột ra thì bên trong nó trống rỗng, không có gì.
Những gì đã học, thấy, nghe qua đều in trong tiềm thức, bởi vậy khi nói buông bỏ không có nghĩa là sẽ xóa hết sạch. Khi về đến Vô Cực (Không), theo lối nhìn đã đề cập ở trên, ta sẽ trở lại trạng thái thơ ngây như xưa. Như xưa nhưng vẫn khác xưa. Chẳng hạn như có một thanh niên để lòng yêu mến một thiếu nữ. Một lần trong mộng anh đã gặp gở và chuyện trò vui vẽ cùng cô. Sáng hôm sau dĩ nhiên là không có gì từng xảy ra cả, con người anh tối hôm qua và con người anh hôm nay là một. Tuy là một, không có gì thay đổi, nhưng vẫn có sự khác biệt.

Tiếp tục các câu vấn đáp truy về gốc: Vô Cực gốc ở đâu?
-Vô Cực không có gốc.

Ta đã từng thấy tấn Thiếu Lâm, Hồng Gia, vv...đều bị hất đổ, ngược lại tấn Vô Cực lại không hề hấn gì. Vì nó không dấu Thái Dương hay Thái Âm mà chỉ lơ lửng không bám trụ vào đâu cả (hư linh đỉnh kình), có thể ví như không có gốc. Vì không có gốc nên không có chuyện bật gốc, không bật gốc thì không đổ. Vấn đề này được kinh Dịch làm sáng tỏ qua hai quẻ Ký-Tế (số 63, hoàn tất) và quẻ Vị-Tế (số 64, chưa xong). Các tấn khác đứng thật vững chắc theo tượng quẻ Ký-Tế, nghĩa là mọi thứ đều ở đúng vị của nó, không có gì sai lệch. Nhưng vì tất cả đâu đã vào đấy, như cái cân đang ở trạng thái quân bình hoàn hảo thì chỉ cần thêm bớt nhẹ cũng đũ khiến nó nghiêng lệch mất thăng bằng. Trong khi tấn Vô Cực bấp bênh mỏng manh theo tượng quẻ Vị-Tế - việc còn dở dang chưa xong. Chưa xong có nghĩa là sẽ xong chứ không phải không xong. Bởi vậy va chạm nó hóa ra lại thêm vào cho nó được đầy đũ giúp nó tạo thế quân bình dễ dàng.

Không có ý chống trả của Vô Cực khác với sự tiến lùi theo đối phương như còn ở cấp độ Thái Cực. Lấy pháp Chủ Tế làm thí dụ. Một ứng dụng của nó là nghe nặng ở đâu rót sức nặng về chổ đó, nên thấy có vẻ như giằng co vận sức. Khi bị kéo, thay vì bước tới trước nhượng theo theo lực đối phương, nó lại bật người ra sau theo tư thế Chủ. Và nó đổ người tới trước, Tế, thay vì lùi lại khi bị đẩy.

Pháp Chủ Tế cùng với vài đặc điểm sau đây biễu hiện những khía cạnh nghịch với thế thường của Vô Cực.

Ngoài 'trọng quyền khinh tấn', một lỗi lầm nữa là quyền cước, ta chỉ lo phát ra mà không chú ý đến sự thu về. Căn cứ theo luật quân bằng của Âm Dương, đi và về bắt buộc phãi quan trọng ngang nhau. Tuy nhiên, cao thủ Vô Cực, không còn trong vòng ảnh hưởng của Âm Dương, nhiều khi có đi mà không cần về - nếu không hiễu, sẽ cho rằng họ vi phạm qui tắc sơ đẳng này. Ðối với họ, một khi quyền cước đang ở địa phận đối phương, không có lý do gì phải thu về nếu chưa giãi quyết xong. Họ không cần khoãng cách để tạo ra lực. Họ dư sức chấn thương đối phương qua những động tác nhỏ tinh diệu, với sự di động tối thiểu.

Sự hỗn độn của cao thủ Vô Cực khi lâm trận cũng là một đặc điểm. Tay chân họ lúng túng vụng về, đi đứng nghiêng ngã loạng choạng, không chiêu nào ra chiêu nào (điển hình là môn Túy Lúy Quyền). Trông họ như kẻ nữa điên nữa say, còn kém hơn cả các môn sinh mới nhập học chưa biết gì về thân thủ bộ pháp. Ðúng ra họ không còn trụ vào chiêu thức nữa, nên gọi là vô chiêu. Vô chiêu không phải là không có chiêu thức. Mọi động tác của họ đều nằm trong các dạng Ngũ Hành, Bát Quái,vv..., chỉ vì chúng nhuộm màu Vô Cực, quá sức vi tế nên khó nhận ra hình tướng chúng. Ở trình độ của họ, đi đứng nằm ngồi, tay chân dù ở tư thế nào cũng là võ cả. Nghệ thuật của họ được mô tả là "sự khéo léo quá mức dường như vụng về".

Nghe một bản nhạc cổ điển hiện đại (modern classical) nhiều khi thính giả không biết đầu đuôi nó ra sao, bắt đầu ở đâu, hết lúc nào. Cả bài giống như một đống nốt lộn xộn, âm giai chói tai, nhịp điệu hỗn loạn...Cứ tưởng bản nhạc được viết trong lúc đầu óc người nhạc sĩ không được bình thường, nhưng nếu ta vạch bõ lớp cành lá có vẽ vô trật tự ở trên, thì thấy nó vẫn không ra ngoài khuôn khổ âm luật.
Hoặc một y sĩ châm cứu siêu đẳng sẽ làm mọi người lạnh xương sống, vì những mũi kim bậy bạ, không theo đúng bộ vị huyệt đạo của vị y sĩ này. Ðiều ta không ngờ được là, khi nắm được nguyên lý của tiểu và đại vũ trụ, cắm kim ở đâu thì chổ đó là huyệt.

Bậc hiền nhân quân tử và kẻ nham hiểm đại ác thường có những thái độ giống nhau. Chữ viết thão của nho sĩ thấy không khác nét nguệch ngoạc của kẻ mù chữ.
Qua những nhận xét kể trên, ta thấy bất cứ nghành học nào, cấp bậc sơ đẳng và mức độ thượng thừa - ở đầu hai cực - sẽ có những nét tương tự như nhau. Sự kiện này cũng khiến ta liên tưởng đến câu phương châm "zen" rất quen thuộc, "ban đầu núi là núi, sau đó núi chẳng phải núi, và cuối cùng núi là núi".

Trước câu hỏi về Vô Cực, cư sĩ Duy-Ma-Cật trả lời bằng sự lặng thinh. Khi mở miệng nói đến Vô Cực tức là đã tự mâu thuẩn rồi vậy. Sự mâu thuẩn phát sinh ngay khi chúng ta mới bắt đầu trên con đường về Vô Cực. Ta phải từ bõ thay vì góp nhặt, phải nghĩ mình yếu, dở, thay vì nghĩ mình mạnh, hay,v.v...Việc khó khăn hơn nữa là không cầu mong ngay cả sự thành đạt Vô Cực, như Phật gia có câu "vô sở cầu vô sở đắc". Vì khi cầu mong tức là ta nhắm vào một mục tiêu nào đó để đạt đến, và như vậy trong trường hợp này ta đã đặt mức giới hạn Vô Cực lại rồi. Vậy Vô Cực cũng chỉ là một ý niệm cần phải buông bõ như tất cả những ý niệm khác. Vạn pháp đều huyễn[Ỵ]. Ta nắm lấy một pháp để loại trừ tất cả các pháp khác, để rồi cuối cùng chính nó cũng phải bị vứt bõ. Ðã đến ngưỡng cửa mà chỉ đứng đó trầm trồ thì sẽ chẳng bao giờ biết được bên trong ra sao. Vì cánh cửa mở đấy mà cũng đóng đấy.

Ta hãy nghiền ngẫm câu chuyện sau đây do sư tổ truyền kể lại :
Có người học nghề đồ gốm đã lâu mà vẫn chưa nặn được một cái bát, cái bình nào cho tròn (còn bị vướng bận trong Âm Dương). Mãi đến một hôm, vì không chú tâm cố ý trong việc làm, bất ngờ anh ta hoàn thành được một cái bát tròn hoàn hão (không có ý thêm bớt nên thoát khỏi Âm Dương, đạt đến Vô Cực). Mừng rỡ, anh vội mang cái bát đi khoe sư phụ. Hốt nhiên vị thầy rút búa đập vở tan cái bát. Anh học trò ngẫn người ngạc nhiên, rồi sau đó khuôn mặt anh bừng sáng với nụ cười thức tỉnh.

Xin tổng kết sự mâu thuẫn, đơn giãn của Vô Cực như sau. Ta xông tới tấn công với những chiêu thức dũng mãnh, đường quyền vũ bão, nhưng Vô Cực chẳng buồn né tránh hay đở gạt, nó thãn nhiên đưa tay chộp cổ ta và cười khà khà .

Ngày nhập môn Vô Cực Công, theo thông lệ, sẽ có cuộc đối thoại giữa sư phụ với từng môn sinh. Qua các câu hỏi, thầy sẽ quậy khởi các thứ tình cảm trong con người anh học trò. Mục đích là hướng môn sinh nhìn vào trong để giúp anh mường tượng - việc mà bình thường ít ai thắc mắc để ý - cái Tôi đó là gì. Ðây là bài học thứ nhất của Vô Cực Công.
Vô cực vốn không phân , Thái Cực sinh Lưỡng Nghi , Ma Vân Thủ sao có thể ? Vô chiêu có thế , vô thế cho chiêu ? Hóa chiêu thành thế là đạo ắt thắng . Hóa chiêu đổi thế là đạo quyết thắng .
Và một ngày kia, ta sẽ chẳng còn bận tâm đến chấp xã hay thành đạt

kymoc
14-09-2011, 09:11 AM
Thập Nhị Huyền Công gồm 12 thức là bài quyền trọng yếu của Vô Cực Công có tên gọi là Bạch Thố Hí Nguyệt (Thỏ Trắng Giởn Dưới Trăng). Các chiêu thức trong bài giải thích tiến trình sinh hóa của vạn hữu, giúp ta có khái niệm vế sự ứng hiện của Vô Cực.

Bạch Thố Hí Nguyệt

1. Vô Cực Sinh Tắc Biến - từ lúc vô thủy, vũ trụ được hình thành là một khối, sau khi big bang những phân tử được phân tán ra bốn phương, dần dần rơi xuống.

2. Thiên La Ðịa Võng - khi đã đũ sức nặng thì Thổ thành hình, tức là lúc bắt đầu có hình tướng. Ðó là lúc lưới trời võng đất hợp lại và sinh Âm Dương.

3. Song yến Ðồng Phi.

4. Mỹ Nhân Chiếu Kính.

5. Tiên Nữ Tán Hoa .

6. Âm Kình Chưởng . Chánh Diện Chưởng - Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái.

7. Thần Long Bái Vĩ .

8. Dương Kình Chưởng.

9. Lôi Hoành Chưởng.

10. Hồ Ðiệp Chưởng.

11. Bạch Sư Hòa Thượng Trút Áo Cà Sa.

12. Thiên La Ðịa Võng - lùi về Âm Dương.

thi_mich
14-09-2011, 09:14 AM
Cám ơn thi mich đã có bài nói về Triệt Quyền Đạo và Nam quyền TL Hồng Gia. Bác nào còn nhã ý vào chém gió hoặc sưu tầm võ vẽ ở đâu thì xin mời vào...kể cả so sánh chiêu thức trong các câu truyện kiếm hiệp...
thi mich đã hiểu về tầm kiều, vậy cho phép Kymoc hỏi thi mich hiểu như thế nào là Trường kiều phát lực và Đoản kiều phát lực.

Muội hiểu nôm na thế này : Trường kiều ( đòn tay dài ) phải đi với bộ tấn rộng và thấp mới phát lực được hiệu quả . Đoản kiều ( đòn tay ngắn ) thì ngược lại . Mong Huynh chỉ giáo thêm !

kymoc
14-09-2011, 09:15 AM
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền trên thế giới
• Ngũ Mai Sư thái (五 枚 師 太, Wumei Shitai, Ng Mui Si Tai) hay Ngũ Mai Đại Sư ( 五 梅 大 師, Wǔ Méi Dà Shī, Ng Mui Dai Si), tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
• Nghiêm Nhị (嚴 二, Yim Yee): cha của Nghiêm Vịnh Xuân, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
Đời thứ I
Nghiêm Vịnh Xuân (嚴 詠 春, Yim Wing Chun): học trò của Ngũ Mai Sư thái, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật.
Đời thứ II
• Lương Bác Trù hay Lương Bác Thau ( 梁 博 儔 - Leung Bok Chau, Leung Bok Sui): tương truyền là học trò của Hồng Hy Quan (Hung Hei Gun), và cũng là chồng của Nghiêm Vịnh Xuân, truyền nhân đời thứ hai của Vịnh Xuân quyền
Đời thứ III
• Lương Lan Quế (梁 兰 桂, Leung Lan Kwai): truyền nhân đời thứ ba Vịnh Xuân, học trò đầu tiên của Lương Bác Trù.
• Than Thủ Ngũ - Trương Ngũ (摊 手五 - 张 五, Tan Sau Ng)
Đời thứ IV
• Lương Nhị Đệ (梁 二 娣, Leung Yee Tei): , bạn của Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Hoàng Hoa Bảo, (黄 华 宝, Wong Wah Bo): học trò của Lương Lan Quế (Leung Lan Kwai), truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Lục Cẩm hay Đại Hoa Diện Cẩm (陸 锦, 大 华 面 锦, Dai Fa Min Kam):
• Lục Lan Quan - 陸 兰官, San Kam ( Đại Hoa Diện Tân Cẩm - 大 华面 新 锦 ), đồng môn với Lục Cẩm
Đời thứ V
• Lương Tán (梁 赞, Leung Jan): học trò của Lương Nhị Đệ và Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ 5 của Vịnh Xuân quyền
• Phùng Thiếu Thanh (冯 少 青, Fung Siu Ching): , sư phụ của Nguyễn Tế Vân
• Hắc Bảo Toàn (霍 保 全, Fok Bo Chuen) hay Quách Bảo Toàn ( 郭 宝 全 )
Đời thứ VI
• Lương Bích (梁 壁, Leung Bik): con của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 của Vịnh Xuân quyền, thầy của Nguyễn Tế Vân
• Trần Hoa Thuận hay Trảo Tiền Hoa (Chan Wah Shan, Chan Wah Shun - 陳 華 順 / 陈 顺 华 / 找 钱 华): học trò của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 Vịnh Xuân quyền, thầy của Diệp Vấn
Đời thứ VII
• luong phien (梁翻, Leung faan): Con Lương Bích.Truyền nhân đời thứ 7.
• Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
• Nguyễn Kỳ Sơn (阮 其 山, Yuen Kay Shan): em ruột Nguyễn Tế Vân, sư tổ Vịnh Xuân quyền Quảng Châu
• Diệp Vấn (叶 问, Yip Man): học trò của Trần Hoa Thuận, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, thầy của Lý Tiểu Long
• Ngô Tiểu Lỗ (吳 小 魯, Ng Siu Lo), học trò của Trần Hoa Thuận
• Ngô Trọng Tố (吳 仲 素, Ng Chung Sok): học trò của Trần Hoa Thuận, Nhị Sư huynh và cũng là người đã dạy Vịnh Xuân quyền cho của Diệp Vấn từ năm 13 tuổi tại Phật Sơn, Quảng Đông
• Trần Nhữ Miên (Chan Yu Min, Chan Yu-Gum - 陳 汝 錦): con trai của Trần Hoa Thuận
• Lôi Nhữ Tế (Lui Yu Jai, Lui Yu-Chai - 雷汝濟): học trò của Trần Hoa Thuận
Đời thứ VIII
• tran Thông (1984 - ) Học trò truyền nhân của Lương Khôi. Hiện đang mở võ đường Trần Thông ở Bình Thạnh và Tân Phú.
• Lương Đỉnh (梁 挺, Leung Ting, 1947 - ): học trò của Diệp Vấn
• Diệp Chuẩn (Yip Chun, Ip Chun - 葉 準, 1924 - ), con trai của Diệp Vấn
Đời thứ IX
Bành Nam (彭 南, Pang Nam, Pan Nam, 1909 – 1995) học trò đời thứ hai của Lôi Nhữ Tế và Trần Nhữ Miên

kymoc
14-09-2011, 09:18 AM
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ I
Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công, (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ II
• Ngô Sĩ Quý (1922-1997)
• Trần Thúc Tiển (1912-1980)
• Vũ Bá Quý (1912-1995)
• Trần Văn Phùng (1902 -1987)
• Hồ Hải Long (1917-1988)

kymoc
14-09-2011, 09:26 AM
Muội hiểu nôm na thế này : Trường kiều ( đòn tay dài ) phải đi với bộ tấn rộng và thấp mới phát lực được hiệu quả . Đoản kiều ( đòn tay ngắn ) thì ngược lại . Mong Huynh chỉ giáo thêm !

Trường kiều phát lực và đoản kiều phát lực nếu tập tốt thì sẽ cực kỳ hữu dụng khi chiến đấu.
Nôm na thì trường kiều phát lực là phát lực trên cự li(Kiều) dài, con đoản kiều phát lực là phát lực trên cự li gần (1inch).Mấu chốt để tập tốt hai dạng phát lực trên thì người tập phải tháo lỏng được các khớp, phát lực không gân cứng, ném tay ra như khăn ướt, chạm đích thì như quả chùy có dây xích sắt đằng sau.Bộ pháp như tiêu diêu, tấn pháp lúc thì trầm trên khinh dưới lúc lại trầm dưới khinh trên.Không nguyên tắc.

6789
14-09-2011, 09:32 AM
Bác tranbinh và thi_mich đừng nói với em là các bác tập võ công nhá [-O<

kymoc
14-09-2011, 09:36 AM
Bác tranbinh và thi_mich đừng nói với em là các bác tập võ công nhá [-O<

6789 yên tâm...tất cả chúng ta đang ngồi sau bàn phím luyện võ...mồm=)).Cho nên đồng chí cứ thoải mái chém gió...chém làm sao để thiên hạ tưởng 6789 là cao thủ ẩn danh...ngọa báo tàng mèo :))

tranbinh
14-09-2011, 10:04 AM
Về miền đất võ, Thuận Truyền - Vang danh những đường roi

Làng võ Bình Định là một nét độc đáo riêng trong truyền thống văn hóa Bình Định. Trong đó, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn vốn là một vùng quê khoai sắn, ấy vậy mà nơi đây lại vang danh bởi cái tên Thuận Truyền với lời truyền tụng: "Roi Thuận Truyền - quyền An Vinh..."
Phải lò dò vào những ngách nhỏ ngoằn ngoèo, vun đầy cát ở làng Hòa Mỹ, mới tìm được ngôi nhà xưa của võ sư Hồ Nhu (thường gọi là Hồ Ngạnh). Trước nhà, một mái hiên lợp tôn thông thống bốn phía. Võ sư Hồ Sừng, cháu nội võ sư Hồ Nhu, năm nay đã 65 tuổi, cho biết: "Tui mới cất năm ngoái để tập võ vào mùa mưa, còn như mùa hè thì tận dụng luôn cả hai khoảnh ruộng làm sân tập".

Từ huyền thoại làng võ

Roi Thuận Truyền xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng võ sư Hồ Nhu được xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một võ quan triều Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà võ. Chuyện xưa kể, một lần do bị bức hiếp, Hồ Nhu đã đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng. Ông Hương Kiểm xách gậy đi tìm, đòi đánh ông. Mẹ ông đã giở ngay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù tận ngõ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện võ. Nhưng theo võ sư Hồ Sừng, hồi bé, võ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy võ. Ông phải tìm học ở nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ, tiếp đến học roi của Hồ Khiêm và theo Quách Tấn - Quách Tạo thì ông còn được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ võ) truyền dạy thêm. Khi đường roi đã cứng cáp vì kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường.
Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, học trò đến thọ giáo rất đông. Quá 80 tuổi, Hồ Nhu vẫn còn thao diễn roi, đường roi vẫn cứng và đẹp. Con trai mất sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, là võ sư Hồ Sừng hiện nay. Võ sư Hồ Sừng kể: "Bao giờ thâu nhận học trò, ông cũng thử trước rồi dạy sau. Học trò ông có Mười Mỹ, Đinh Văn Tuấn, Năm Tạo, Sáu Được... đều đã có danh có tiếng, trong xã thì có Lê Thành Viên, thường gọi Ba Hào, và Lê Bá Cừu, tức Sáu Dật. Mà yêu cầu của ông với học trò, kể cả con cháu trong nhà cũng vậy, cao lắm".

Năm nay đã 90 tuổi, võ sư Lê Thành Phiên (làng Đại Chí, xã Tây An) vẫn minh mẫn. Ký ức ông vẫn vẹn nguyên hình ảnh người thầy vóc người cao to, dạy học trò rất nghiêm: "Thầy dạy ngày ba buổi. Thầy dạy kỹ, nhưng trò phải tập cho tinh. Nhờ vậy nên tui học kể ra thì cũng hổng nhiều, đâu có 18 tháng, nhưng cũng được truyền dạy cơ bản". Lão võ sư có vẻ hơi buồn, chẳng là vài năm gần đây, tuổi cao, nên giỗ tổ chẳng thể lên nhà thầy.

* Đến đường roi bí truyền

Roi là một loại binh khí tiêu biểu của võ Bình Định. Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Nhiều võ đường ở Bình Định rất giỏi về roi như: Lâm Ngọc Phú, Bửu Thắng (An Nhơn); Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái võ ở chùa Long Phước (Tuy Phước); Phan Thọ (Tây Sơn)…

Người thầy dạy của võ sư Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi "lạc côn", cũng là một đường roi tuyệt kỹ. Rồi các đường roi như: "đâm so đũa", "roi đánh nghịch", "đá văng roi", "phá vây", "roi chiến"… đều là những bảo vật bí truyền của võ Bình Định.
ột bài roi gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác là các đòn thế tấn công và phòng thủ theo các phách cơ bản như: bát, bắt, triệt, chận (nặng về thủ để triệt phá các đòn tấn công của đối phương); hoành, khắc, lắc, tém (vừa thủ vừa công). Thủ ở đây không có nghĩa thụ động, mà phải dùng các phách hợp lý để triệt tiêu đòn tấn công đối phương rồi ra đòn tiêu diệt đối phương. Hay có thể giả vờ trá bại, dụ đối phương vào thế. Có lúc phải dùng trừ công để thủ tức là khi đã trừ được các đòn tấn công của đối phương, phải thủ cho kín chặt, không cho đối phương ra đòn tấn công tiếp, rồi phán đoán nhanh xem đối phương phản ứng để có đối sách...

Mỗi môn phái ở Bình Định có các đòn roi bí truyền nhưng đường roi Thuận Truyền vang danh nhất. Cái bí truyền của những đường roi đã đi vào những câu chuyện truyền tụng, thật - hư lẫn lộn...( S/T )

tranbinh
14-09-2011, 10:13 AM
Bác tranbinh và thi_mich đừng nói với em là các bác tập võ công nhá [-O<

Tranbinh học võ lý là chính :-s:-s:-s đang lấy maxitơ Nhẫn Tâm Pháp..6789 muốn lĩnh giáo chăng ??

hung vi
14-09-2011, 10:30 AM
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ I
Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công, (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ II
• Ngô Sĩ Quý (1922-1997)
• Trần Thúc Tiển (1912-1980)
• Vũ Bá Quý (1912-1995)
• Trần Văn Phùng (1902 -1987)
• Hồ Hải Long (1917-1988)

Bổ xung thêm cao đồ Vĩnh Xuân Quyền.. Nguyễn Tế Công Sư Tổ dòng Vĩnh Xuân Việt Nam..Còn có một người

Sư Tuệ Hàn(tức Đạt ma trí thông) hiện giờ ngài đang tu ở Ngọa Vân Am, Yên Tử...Tôi đã có cơ duyên đươc tham vấn ngài về phật pháp..

6789
14-09-2011, 10:34 AM
Tranbinh học võ lý là chính :-s:-s:-s đang lấy maxitơ Nhẫn Tâm Pháp..6789 muốn lĩnh giáo chăng ??

Không phải em muốn lĩnh giáo lĩnh mác gì đâu :D, em sợ bác bắt nạt em nên mới hỏi [-O<

tranbinh
14-09-2011, 10:57 AM
Vịnh Xuân Quyền: Kiềm Dương Tấn

Kiềm dương tấn, còn gọi là Kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã là một thế tấn đặc thù của Vịnh Xuân Quyền, bao gồm hai dạng thức là chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương.
Trong Vịnh Xuân Quyền, tấn pháp được áp dụng thường xuyên nguyên lý chiều cao của tấn tỷ lệ nghịch với độ vững trãi và tỷ lệ thuận với độ linh hoạt, theo đó tấn pháp càng thấp cơ thể càng vững nhưng tính linh hoạt lại giảm. Kiềm dương mã tự cũng không phải là ngoại lệ, việc tập luyện tấn pháp này không nhấn mạnh sự cố định một cao độ của người luyện tập, mà có thể linh động, kết hợp với những bài tập tấn ở nhiều cao độ khác nhau, cả ở những tư thế rất thấp tới mức cơ thể gần như ngồi trên mặt đất.
.

Tấn pháp kiềm dương, với chữ kiềm (鈐) tương đối dễ hiểu là “kìm”, “kẹp”, “giữ”. Nhưng chữ dương có vài cách hiểu khác nhau: “dương” (羊) với nghĩa là con dê, khi đó tấn sẽ được hiểu là thế “kẹp dê”, “giữ dê”. Theo huyền sử thì Ngũ Mai sư thái đã cho nàng Nghiêm Vịnh Xuân tập chăn dê và tắm cho các con dê bằng cách dùng hai chân kẹp chặt đầu và cổ con vật, từ đó sẽ rèn luyện được nội lực và tấn pháp trước khi bước vào tập võ (bộ phim Vịnh Xuân Quyền do các diễn viên Tạ Đình Phong, Hồng Kim Bảo và Nguyên Bưu đóng, diễn tả ý nghĩa này). Tuy nhiên, theo cách hiểu khác với chữ “dương” (陽) chỉ “mặt trời”, “dương tính”, “dương khí”, “đàn ông”, “bộ phận sinh dục của giống đực”, kiềm dương tấn là thế tấn duy nhất ở chính diện có đủ kín đáo, do đầu gối hơi khép vào trong và có thể nhanh chóng kẹp chặt hai đùi, để thủ thế và bảo vệ vững chắc trước những đòn tấn công vào hạ bộ, ít nhiều linh hoạt và hiệu quả hơn hẳn trung bình tấn. Đi xa hơn trong suy luận, một số người cho rằng kiềm dương ở đây nhằm mục đích luyện khí, mà luyện khí chủ yếu phải kiềm dương (tiết dục).

Chính thân kiềm dương

Chính thân kiềm dương còn được gọi là Chính thân kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã, tư thế gần giống với tấn chuẩn bị (lập tấn) của các môn sinh Taekwondo, Karatedo với khoảng cách hai gót chân đều vừa mức với chiều cao và bề ngang của người tập, thường bằng vai hoặc hơi lớn hơn một chút, hai bàn chân gần song song hình chữ nhị (二) với mũi chân hơi hướng vào trong. Hạ thấp trọng tâm và hơi bẻ cong chân vào để hai đầu gối có một khoảng cách tương đối nhỏ, bằng khoảng nắm tay của người tập. Cơ thể người tập hơi ngửa ra phía sau để giữ cho gót chân, cột sống và đầu được thẳng.
Do hai mũi bàn chân với ngón cái hơi xoay khép lại thành hình chữ bát (八), thế tấn này còn có thể được gọi là Bát tự kiềm dương (kiềm dương hình chữ bát). Nếu kéo dài chữ “bát” người tập sẽ có một tam giác. Ở đây có những nguyên tắc để xác định góc tạo thành đó là góc nhọn hay góc tù. Đưa chân người tập ra theo trục thẳng trước mặt cho đến khi chân nằm ngang và lấy điểm vuông góc với gót chân là đỉnh của tam giác.
Cần đứng đúng cách để để hai chân hướng vào đỉnh này.
Trong phần lớn các bài tập tại chỗ của Vịnh Xuân thường dùng chính thân kiềm dương, đặc biệt là sáo lộ đầu tiên Tiểu niêm đầu chỉ sử dụng duy nhất một thế tấn này. Tuy nhiên, trong thực tế chiến đấu ít khi môn sinh sử dụng thế tấn này mà nó thường được phản ứng nhanh sang thế tấn trắc thân kiềm dương, với dụng ý dẫn đòn của đối phương vào khoảng không và phản đòn theo nguyên lý “tá lực đả lực” (mượn sức đánh sức )
.
Trắc thân kiềm dương

Với ý nghĩa của chữ Trắc (側) là “mặt bên”, “bên cạnh”, “nghiêng” phản ánh đúng bản chất của thế tấn. Khi đứng ở chính thân kiềm dương, người tập xoay đều hai chân và thân sang một phía sao cho hai mũi chân song song hướng về phía chéo góc khoảng 45 độ, người tập sẽ chuyển sang thế tấn trắc thân kiềm dương. Thế tấn này ít nhiều giống trảo mã tấn của một số môn phái, nhưng không hướng các mũi bàn chân thẳng phía trước và cũng không nhón gót. Hai đầu gối khép vào nhau với khoảng cách giữa chúng vẫn được giữ như ở chính thân kiềm dương. Trọng lượng cơ thể dồn khoảng 70% lên chân sau và khoảng 30% ở chân trước. Khi hạ thấp tấn hơn, người tập cần duỗi chân trước ra phía trước với khoảng cách dài hơn
Môn phái Vịnh Xuân khởi phát từ miền Nam Trung Hoa, nơi mọi người thường dùng thuyền như một phương tiện vận chuyển chính, cho nên, các võ sư sáng tổ của Vịnh Xuân Quyền như Đại Hoa Diện Cẩm và các môn đồ của Hồng thuyền hội quán đã tập võ chủ yếu trên thuyền, nơi yêu cầu giữ thăng bằng trở thành cốt tử. Thế tấn chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương được coi là phương cách tối ưu để giữ thăng bằng.
Chính thân kiềm dương tấn là thế tấn quan trọng bậc nhất của Vịnh Xuân Quyền, đi kèm với sáo lộ Tiểu niệm đầu như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật, nó giúp người tập luyện ngay từ những ngày đầu tiên đến với môn phái đã luyện gân chân, làm lỏng và mạnh các khớp, tạo một chân đế vững chắc như mọc rễ vào đất để phục vụ tối đa cho sự thả lỏng phần trên (từ hông lên trở lên) theo nguyên tắc “thượng hư, hạ thực“. Tuy tấn nhấn mạnh vào yêu cầu trụ vững nên buộc phải giảm sự linh động, ít nhiều có thể cản trở cho sự phát huy lực từ trung tâm phát lực (hông eo), nhưng không cản trở đường vận hành của khí xuống chân, và vì vậy không làm giảm đáng kể lực thông xuống chân khi tập tấn tĩnh. Đầu gối cong vào cũng là một cách tiết kiệm sức lực tối đa khi chân giữ trọng lượng cơ thể của người tập. Bởi vậy, chính thân kiềm dương nếu được tập đúng, sau những khó khăn ban đầu, người tập ngày càng có được sự linh hoạt đặc biệt, có thể đá bất kỳ lúc nào mà không cần chuẩn bị, và cú đá sẽ có toàn bộ sức của thân thể khi tấn công vào trung điểm của địch thủ. Thế tấn này cũng được dùng để thủ một cách hữu hiệu.
Trắc thân kiềm dương là thế tấn linh hoạt hơn Chính thân kiềm dương, rất thuận lợi cho tấn công thần tốc mà vẫn có thể phòng thủ kín đáo, vì vậy, trong Vịnh Xuân Quyền thế tấn này được ứng dụng chủ yếu khi thực chiến :( S/T )

hao nam dong
14-09-2011, 11:06 AM
-Không biết Vịnh Xuân Quyền có tất cả bao nhiêu bài quyền nhỉ,mình không học võ nhưng vẫn thường xuyên tập luyện môn "ù té quyền " hihihi,trình độ ở mức khá đấy 100m/12,5s

kymoc
14-09-2011, 11:44 AM
-Không biết Vịnh Xuân Quyền có tất cả bao nhiêu bài quyền nhỉ,mình không học võ nhưng vẫn thường xuyên tập luyện môn "ù té quyền " hihihi,trình độ ở mức khá đấy 100m/12,5s

Học võ gì thì võ riêng cái kế thứ 36 mà không tập thì thà đừng học võ.Nó to hơn mình=> mình chạy, nó gấu hơn mình=> mình chạy, nó khỏe hơn mình=> mình chạy....cho nên theo em Bác Hao nam dong cần gì tập nhiều, nội cái món 100m/12,5s của Bác cũng đủ hạ gục ối cao thủ rồi...Dưng mà em hỏi nhỏ chút đấy là sức chạy của Bác ngày xưa phải không ạ? chứ em nghĩ sức Bác bây giờ tốn nhiều cho chị nhà rồi liệu còn xung như xưa không :))

thi_mich
14-09-2011, 11:50 AM
Bác tranbinh và thi_mich đừng nói với em là các bác tập võ công nhá [-O<

Bác 6789 à Mịch đang luyện Kẹp Dương Tấn mới được 9 thành thôi . Chưa dám nhận là con nhà võ :-h:-h:-h

Lão Khoai
14-09-2011, 11:55 AM
Tôi đã có cơ duyên đươc tham vấn ngài về phật pháp..

Trông bác vốn người phong tình mà lại chịu khó tham vấn phật pháp hóa ra đây là bậc thiện tri thức .Chúng tôi còn mệt mới theo kịp bác hihi

Lão Khoai
14-09-2011, 11:59 AM
..Dưng mà em hỏi nhỏ chút đấy là sức chạy của Bác ngày xưa phải không ạ? :))

Ngày xưa nhất định bác ấy phải khỏe để còn có sức chạy đi ...tìm phòng ...bác kymoc ạ

Congaco_H1R5
14-09-2011, 12:04 PM
Bác 6789 à Mịch đang luyện Kẹp Dương Tấn mới được 9 thành thôi . Chưa dám nhận là con nhà võ :-h:-h:-h
Kẹp Dương tấn này là chiêu thức hay là nội công tâm pháp vậy bác ? :)):)):))

Lão Khoai
14-09-2011, 12:10 PM
Trượng Phu Quyền (ST)


La-Phù Sơn nằm giữa Quảng-Châu và Huệ-Châu. Trước thời nhà Ðường, vùng này thuộc đất Giao-Chỉ. Tương truyền tại La-Phù nửa đêm có thể nhìn thấy mặt trời. Núi có hai lầu đá, chùa Diên-Tường ở lầu Nam; động Chu-Minh ở phía sau Xung-Hư quán, được coi là động thứ bảy của cõi Bồng-Lai. Sau quán Xung-Hư có đàn Triều-Ðẩu (đàn ngắm sao) của Chu-Minh Chân-nhân. Vùng này nghe đồn có nhiều đan sa, nên Cát-Hồng tự Bảo-Phác-tử đời Ðông Tấn thích phép Ðạo-dẫn của thần tiên, đã đưa gia đình về đây để luyện tiên đan, trường sinh bất tử. Ngoài ra ngọn núi này cũng là nơi xuất phát của môn phái Hồng-Gia Quyền, Huyền Công La-Phù sơn.
Từ nghìn xưa, Hồng-Gia là một môn phái đứng hàng đầu trong Thập Ðại danh gia của võ lâm Trung-quốc (Hồng, Lưu, Lý, Thái, Mạc, Phật, v.v...). Ðệ tử của giòng phái này được chia làm hai nhánh rõ rệt. Nhánh nội-gia gồm những người đã quyết-tâm rũ bỏ bụi trần, chọn con đường tu hành để tìm nguồn tịnh độ; nhánh tục-gia là hậu-duệ của những anh hùng, hào kiệt được tuyển chọn lên La-Phù, chịu sự rèn luyện, hun đúc để trở nên những bậc anh tài, văn võ kiêm toàn. Môn đệ Hồng-Gia quyền khi hành hiệp thấy việc nghĩa thì không thể không làm, nên thường được thiên hạ quý trọng đặt danh hiệu cho môn phái là "Trượng-Phu-Quyền". Vào những thế kỷ gần đây, khi quân Mãn Thanh xâm chiếm Trung-Hoa lục địa, triệt hạ nhà Minh và đặt ách cai trị khắc nghiệt trên toàn lãnh thổ, khắp nơi quần hùng nổi dậy. Với hoài bão "Phản Thanh, Phục Minh", trong cuộc trường kỳ kháng chiến, chỉ riêng Hồng-Gia đã hy sinh khá nhiều anh tài, nhân kiệt cho lý tưởng cao thượng này. Ðến đời chưởng môn thứ tư, gặp cơn đột biến, chỉ có một số ít đệ tử Hồng-Gia thoát nạn. Trong số này có môn đồ Nguyễn-Mạnh-Ðức, hiệu Nam-Hải Chân-Nhân (1), sau này trở thành chưởng môn đời thứ năm của giòng phái Huyền-Công La-Phù Sơn, và ông cũng chính là Sư-tổ sáng lập môn phái Hồng-Gia Việt-Nam.
Nam-Hải Chân-nhân thuộc giòng dõi của cụ Tam-nguyên Yên-Ðổ, một đại thần triều Nguyễn. Buổi thiếu thời mang trong người nhiều tật bệnh, nhờ cơ duyên được một vị Chân-nhân cứu tử, nhận làm dưỡng tử và đưa lên La-Phù truyền thụ võ công. Sẵn thiên khiếu, không những tinh thông thập bát ban võ nghệ ông còn am tường Dịch-học, và nắm vững toàn khâu của bộ Thái-Ất chân kinh. Khi lãnh địa La-Phù bị tàn phá bởi cơn Hồng-Thủy, để trả nghĩa sư phụ, ông đã xả thân giúp đỡ một số đông huynh đệ đào thoát qua Ðài-Loan, một số khác theo ông xuyên bộ trở về Bắc-Việt trong khi tình thế hết sức nguy kịch, khẩn trương. Ðiều này đã nói lên tinh thần tích cực, lòng đôn hậu, tính trọng nhân nghĩa của ông đối với tha nhân nói chung, và với đồng môn nói riêng, cho dù không cùng chung một huyết thống, giống nòi.

Lão Khoai
14-09-2011, 12:11 PM
Thời gian này, đất nước Việt-Nam hoàn toàn bị thống trị, dầy xéo bởi thực dân Pháp và bè lũ tay sai, tham quan, ô lại. Triều đình thì hủ bại, lây bệnh giáo điều của Tống-Nho, giới trí thức tân học bị ru ngủ bởi bả vinh hoa, phú quý, nên chỉ nghĩ đến việc hưởng thụ quên mất hận vong quốc, khiến tinh thần nhân dân ly tán, sinh lực dân tộc ngày càng kiệt quệ. Thảm hại hơn nữa, chính quyền thực dân còn có cả những chính sách cai trị cực kỳ thâm hiểm. Họ chủ trương đầu độc, làm sa đọa thanh thiếu niên Việt-Nam, đồng thời hủ hóa và bóc lột giới trung lưu, là thành phần có học, tương đối lãnh đạo được nông, công nhân. Tất cả những thủ đoạn trên đây không ngoài mục đích làm suy yếu, hủy diệt tiềm năng tranh đấu, ý chí quật cường, truyền thống cách mạng của dân tộc.
Trong một bối cảnh lịch sử nhiễu nhương, Nam-Hải Chân-nhân, đường đường Chưởng-môn đời thứ năm của một danh phái đã phụng mệnh sư phụ trở về quê mẹ, mang theo những tinh hoa Võ học, Dịch học, Y học của tiền nhân ưu ái trao lại cho người nước Nam. Là bậc võ công cái thế, văn võ song toàn, nhưng chỉ riêng tâm tư đầy ắp tình dân tộc của ông đã đủ là một hấp lực lôi cuốn thanh niên, nam nữ gia nhập Hồng-Gia Việt-Nam trong giai đoạn này. Giai đoạn đất nước qua phân, trật tự xã hội đảo lộn, luân thường, đạo lý trên đà suy thoái. Sự xuất hiện của Hồng-Gia Việt-Nam đã khiến nhiều người kinh ngạc, bàng hoàng và thán phục! Không hẳn vì những chiêu thức "Ma vân thủ" biến ảo khôn lường, chưa phải ở phần nội lực sung mãn của những "Thiết bố sam" hoặc "Kim chung cháo", hay ở bộ pháp linh hoạt, đầy địa sát khí của 108 thế "Ðịa đường tấn". Nhưng chính ở những tâm pháp "Xả kỷ tùng nhân", "Tiên ưu, hậu lạc", "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín", tuy là những sắc thái đặc thù của Nho học, nhưng khi được ông phát huy theo không gian, thời gian của giòng Việt-nho đã đánh động, chinh phục nhân tâm đang hoài vọng chạy theo những trào lưu Âu, Á. Trong khi đó tại non sông nhà cả một kho tàng văn hóa hiển lộng đã khiến văn học giới Tây phương không khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt khi vừa chạm đến.
Khi chuyên cần luyện tập nội công và quyền pháp của Hồng-Gia, chúng ta sẽ nhận ra những nét thuận nghịch của Âm Dương, khám phá được sức vận chuyển âm thầm nhưng tinh tế của ngũ hành. Hoặc đi xa hơn nữa qua Ðạo-Ðức kinh, ta lại bắt gặp ẩn tàng những tuyệt kỹ võ công mà tiền nhân đã có ý gởi gấm, trao lại cho hậu thế. Ngoài những quan niệm khá phổ thông như dùng hình ảnh "nước mềm mà làm mòn đá cứng" để ám chỉ việc lấy nhu nhược thắng cương cường, hoặc "không họa nào lớn hơn bằng khinh địch" nhắc nhở ta luôn cẩn trọng trước đối thủ. Còn có những ẩn dụ tinh diệu như "ba chục căm xe kết lại thành bánh xe, nhưng phải có chỗ hổng ở giữa bánh xe mới quay được" ngụ ý muốn nói cái chỗ không có gì cũng có cái công dụng của nó, tức quan niệm hư vô của Vô-Cực công , hay trong chương 66 "nước từ trăm nguồn đều chảy về biển, vì lẽ biển thấp hơn" hồ như muốn gợi ý cho chúng ta nên có tinh thần khiêm hạ, nhún nhường thì người khác mới tìm đến mình. Chợt đến khi áp dụng vào tấn pháp lại đạt đến trạng thái cực tĩnh để quán thông được nhất cử, nhất động của đối phương. Ðây chính là cái tĩnh của những bậc thánh hiền khi tâm tư đã lắng đọng để giao hòa cùng thiên nhiên, vạn vật.

kymoc
14-09-2011, 12:17 PM
Kẹp Dương tấn này là chiêu thức hay là nội công tâm pháp vậy bác ? :)):)):))

Nếu ai đã xem Diệp Vấn 2 sẽ thấy đoạn cuối khi mà Sư phụ Diệp Vấn (Chung Tử Đơn đóng) kẹp đầu Quyền Vương vào giữa hai đầu gối rồi đấm vào mặt, mũi, thì đó chính là thế Tấn Kiềm dương(Có nơi gọi là Kìm dương mã hay nhị thụ kiềm dương hoặc nhị tự kiềm dương...)

thi_mich
14-09-2011, 12:32 PM
Kẹp Dương tấn này là chiêu thức hay là nội công tâm pháp vậy bác ? :)):)):))

Em có biết gì đâu :-t:-t:-t Thấy nói kẹp là kẹp liền , chỉ tính thời gian lâu mau không để ý đến chiêu thức sợ phân tâm dẫn đến tẩu hỏa nhập ma Bác Gà ạ [-O<[-O<

hao nam dong
14-09-2011, 12:37 PM
-Bây già rồi,công lực suy giảm không biết riêng môn thứ 36 này mất bao lâu nữa,chắc là dùng vẫn tàm tạm.

kymoc
14-09-2011, 02:06 PM
-Bây già rồi,công lực suy giảm không biết riêng môn thứ 36 này mất bao lâu nữa,chắc là dùng vẫn tàm tạm.

Mừng là Bác vẫn tự tin "dùng vẫn tàm tạm", chứ theo em biết nhiều người ở tuổi Bác chạy bộ được dăm chục mét là đã thở hồng hộc như trâu rồi.=D>

hung vi
14-09-2011, 04:23 PM
Trông bác vốn người phong tình mà lại chịu khó tham vấn phật pháp hóa ra đây là bậc thiện tri thức .Chúng tôi còn mệt mới theo kịp bác hihi

Cảm ơn Lão Huynh đã quá khen đệ,thật tình cờ trong chuyến du hành Yên Tử,đệ cùng mấy anh em đã có duyên được gặp( Thích Đạt Ma Trí Thông) khi Ngài đang tĩnh tu ở Ngọa Vân Am,trong đoàn đệ có hai người nghiên kứu về Phật Học, dòng Phái Trúc Lâm Yên Tử..Khi gặp được Ngài những câu hỏi về Phật Pháp và đối nhân sử thế.Ngài đều trả lời rất uyên thâm, lý lẽ sắc sảo...Về vấn đề tại sao biết Ngài là Cao Đồ phái Vĩnh Xuân...Buổi sáng sớm trên Ngọa Vân Am thật yên tĩnh,không khí rất trong lành,đệ dậy sớm và thấy hai đệ tử của Ngài đang luyện võ, và hỏi họ đang luyện môn gì.Được họ cho biết là Vĩnh Xuân Quyền, sau đó đệ lên tham vấn Thiền Sư và được biết,Ngài chính là môn đồ của Sư Tổ Nguyễn Tế Công,Ngài kể rất nhiều về cơ duyên được Sư Tổ truyền dạy.Cùng những tên tuổi đệ tử mà "kỳmoc" đã post lên diễn đàn..

6789
14-09-2011, 08:37 PM
Bác 6789 à Mịch đang luyện Kẹp Dương Tấn mới được 9 thành thôi . Chưa dám nhận là con nhà võ :-h:-h:-h


Tranbinh học võ lý là chính :-s:-s:-s đang lấy maxitơ Nhẫn Tâm Pháp..6789 muốn lĩnh giáo chăng ??

Quả nhiên 2 bác đều có võ công thượng thừa, em không biết võ vẽ gì mà bác tranbinh nỡ hỏi em muốn lĩnh giáo Nhẫn Tâm Pháp không ~X(, lại còn 9 thành Kẹp Dương Tấn của bác Mịch thì em đỡ sao nổi...không biết tý võ nào khổ thế đấy, biết ngay bị bắt nạt :((:((:((

vicaichet
14-09-2011, 10:15 PM
Nếu ai đã xem Diệp Vấn 2 sẽ thấy đoạn cuối khi mà Sư phụ Diệp Vấn (Chung Tử Đơn đóng) kẹp đầu Quyền Vương vào giữa hai đầu gối rồi đấm vào mặt, mũi, thì đó chính là thế Tấn Kiềm dương(Có nơi gọi là Kìm dương mã hay nhị thụ kiềm dương hoặc nhị tự kiềm dương...)

Ôi bác ơi cho em hỏi học đòn này ở đâu vậy .Xem Diệp vấn 1,2 em mê nhất đòn này =P~

kymoc
15-09-2011, 12:05 AM
Cảm ơn Lão Huynh đã quá khen đệ,thật tình cờ trong chuyến du hành Yên Tử,đệ cùng mấy anh em đã có duyên được gặp( Thích Đạt Ma Trí Thông) khi Ngài đang tĩnh tu ở Ngọa Vân Am,trong đoàn đệ có hai người nghiên kứu về Phật Học, dòng Phái Trúc Lâm Yên Tử..Khi gặp được Ngài những câu hỏi về Phật Pháp và đối nhân sử thế.Ngài đều trả lời rất uyên thâm, lý lẽ sắc sảo...Về vấn đề tại sao biết Ngài là Cao Đồ phái Vĩnh Xuân...Buổi sáng sớm trên Ngọa Vân Am thật yên tĩnh,không khí rất trong lành,đệ dậy sớm và thấy hai đệ tử của Ngài đang luyện võ, và hỏi họ đang luyện môn gì.Được họ cho biết là Vĩnh Xuân Quyền, sau đó đệ lên tham vấn Thiền Sư và được biết,Ngài chính là môn đồ của Sư Tổ Nguyễn Tế Công,Ngài kể rất nhiều về cơ duyên được Sư Tổ truyền dạy.Cùng những tên tuổi đệ tử mà "kỳmoc" đã post lên diễn đàn..

Cám ơn bạn HungVi đã gửi thông tin.Tuy nhiên Kymoc tôi xin khẳng định rằng: Ngoài các Tôn sư sau:
Vũ Bá Quý
Ngô Sỹ Quý
Trần Văn Phùng
Trần Thúc Triển
Cam Túc Cường
Hồ Hải Long....
Thì hiện tại lứa còn sống đến bây giờ không còn ai.
Nếu vị sư phụ tu tại Yên tử vẫn chắc một điều rằng được đích thân đại sư Nguyễn Tế Công chỉ dạy thì VX ngoài Bắc xin được lên hầu cụ.
Hungvi làm ơn chuyển hộ lời này lên vị sư thầy.
Bởi theo Kymoc được biết thì tất cả các học trò của đại sư Nguyễn Tế Công đến hiện tại là người trẻ nhất là Cụ Quý cũng đã viên tịch lâu rồi.

Lão Khoai
15-09-2011, 12:37 AM
người trẻ nhất là Cụ Quý cũng đã viên tịch lâu rồi.

Kymoc khảo cứu cẩn thận thật ,dựa trên sự kiện không dựa trên suy tuởng .Quá hay !

kymoc
15-09-2011, 09:31 AM
Kymoc khảo cứu cẩn thận thật ,dựa trên sự kiện không dựa trên suy tuởng .Quá hay !

Nếu vị Thiền sư mà Hungvi được cơ duyên đàm đạo phật pháp quả thật là người từng được sư tổ Nguyễn Tế Công chỉ dạy VX thì Kymoc xin đoán rằng ít nhất Vị Thiền sư đó cũng phải ngoài 90 tuổi.Tức là lấy mốc năm sinh là khoảng các năm từ 1902 đến 1922.Trong khi đó cuối năm 1954 cụ Tế Công di cư vào Nam thì các lứa học trò ngoài Bắc lúc bấy giờ như sau:
1. Cụ Trần Văn Phùng lúc đó là khoảng 52 tuổi,
2. Cụ Ngô Sĩ Quý khoảng 32 tuổi,
3. Cụ Tiển khoảng 42 tuổi,
4. Cụ Vũ BácQuý khoảng 42 Tuổi,
5. Cụ Hồ Hải Long khoảng 37,
6. Cụ Cam Túc Cường, trong nhóm tuổi trên
7. Cụ Việt Hương cũng trong nhóm tuổi trên.(Ẩn danh hoặc mất tích đã rất lâu rồi, đã cho người tìm nhưng không có thông tin gì về Cụ Việt Hương)
Trong đó Sư Phụ Trần Văn Phùng là người lớn tuổi nhất trong 7 người.Cho nên thông tin về người học trò thứ 8 (Tức vị thiền sư của Hùng Vi) của cụ Tế nếu là có thật thì Cụ Phùng phải là người biết nhiều nhất vì bản thân Cụ Phùng là người theo học Cụ Tế ở ngoài Bắc là lâu nhất và thường xuyên nhất.
Tuy nhiên Kymoc ngờ ngợ phải chăng vị thiền sư mà Hungvi đàm đạo là Cụ Việt Hương chăng ?!Nếu là vậy thì cụ phải ngoài 90 rồi.

hung vi
15-09-2011, 10:21 AM
Cảm ơn "KYMOC" đã cho biết thêm thông tin,về các Tôn Sư...Vị Thiền Sư mình gặp cũng già lắm rồi,mình chỉ biết Pháp danh của Ngài,không biết tên thật của Ngài..Nếu đúng như KYMOC" nói tên thật Ngài là cụ Việt Hương,thì chắc chắn đây chính là Vị Thiền Sư ..Mình cũng mấy lần nên Ngọa Vân Am để tìm gặp Ngài,mà không gặp được...Vạn sự tùy duyên,Ngài vẫn còn khỏe đang vi hành trong dãy Yên Tử Sơn...Nếu có duyên thì sẽ gặp được Ngài...

Lão Khoai
15-09-2011, 10:23 AM
Một vị chân tu theo như hungvi nói thì nhất định lời nói phải chân chính ,với lại ngài chẳng cần gì phải nói khác đi Suy luận bác kymoc quả có chỗ đúng đắn đáng tin ,có thể ngài đã qui ẩn từ lâu
Cụ Phùng ngoài 50 rồi mà vẫn theo cụ Tế học thì đáng khâm phục quá ,

Trong phả hệ bác kymoc nhắc đến Tranthong sinh năm 1984 là học trò của Luơng Khôi ,nhưng tra ngược lại thì không thấy tên Luơng Khôi nằm trong dòng truyền thừa vậy ông này có nằm trong chính môn không hả bác ?

Đời thứ IX
Bành Nam (彭 南, Pang Nam, Pan Nam, 1909 – 1995) Cụ này già rồi mà lại là em út trong phả hệ .Thật khó hiểu về dòng truyện Vịnh Xuân thảo nào bác kymoc nói trong nhà người ta còn chưa chịu nhau nữa là ....

thi_mich
15-09-2011, 10:39 AM
Võ Thuật Việt Nam


MÔN PHÁI BÌNH ĐỊNH SA LONG CƯƠNG

Lão võ sư Trương Thanh Đăng (1895-1985) xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ thuật ở Phan Thiết , được ông ngoại tận tâm truyền dạy môn võ thuật cổ truyền Việt Nam ngay từ thuở bé . Năm 14 tuổi , ông từng được gia đình cho ra tận Bình Định để thụ giáo môn võ Bình Định và võ Thiếu Lâm với nhiều thầy dạy võ nổi tiếng trong suốt 15 năm . Khi trở về quê hương , ông đã sáng tạo nên bài Bát Bộ Chân Quyền và bắt đầu thu nhận đồ đệ . Năm 1930 , ông vào Sài Gòn , tiếp tục truyền bá võ thuật . Mãi cho đến năm 1964 , võ phái Bình Định Sa Long Cương chính thức được hình thành , đóng góp công sức vào việc không phục truyền thống thượng võ của người Việt Nam .

Năm 1964 , tại Sài Gòn hình thành một võ phái mà giới hâm mộ đều biết tiếng , đó là võ phái Bình Định Sa Long Cương do cố võ sư Trương Thanh Đăng (biệt hiệu là Sa Long Cương) sáng lập .

Đặc trưng kỹ thuật của võ phái Bình Định Sa Long Cương là hệ thống căn bản , bài quyền và binh khí cùng phong cách huấn luyện còn giữ tương đối nguyên vẹn theo truyền thống . Môn sinh của võ phái này trước hết phải học qua bài Bát Bộ Chân Quyền - một công trình sáng tạo của lão võ sư Trương Thanh Đăng , tổng hợp toàn bộ thân pháp , thủ pháp , bộ pháp , cước pháp của võ thuật cổ truyền Việt Nam , sau đó sẽ luyện tập những bài quyền lừng danh của đất võ Bình Định : Lão Mai , Thiền Sư , Thần Đồng , Ngọc Trãn , Phượng Hoàng , và những binh khí như Trung Bình Tiên , độc kiếm Lê Hoa , song kiếm Tuyết hoa , Thái Sơn côn , Hồng côn , Triệu Gia côn , Thái Cực kiếm , Kiếm Sư , Đồ Long Đao , độc giản , song giản , song Tô , song xỉ , song phủ , Bát Quái Siêu , lê hoa thương , thanh long yểm nguyệt đao , phương thiên hoa kích , bát xà mâu , đinh ba ... Có thể nói , những môn sinh của võ phái Bình Định Sa Long Cương được đào tạo khá kỹ lưỡng , khi chiến đấu hay dạo quyền đều chú trọng đến bộ tấn , giúp cho cơ thể được thăng bằng , vững vàng .

Mặc dầu có võ phục chung thống nhất màu đen của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam , nhưng võ phái Sa Long Cương còn có cả võ phục truyền thống của mình là chiếc áo thun ngắn tay màu trắng cùng với chiếc quần dài trắng và chiếc đai màu đen to bản có viền các màu sắc để phân biệt cấp đai . Cấp đai truyền thống của võ phái Bình Định Sa Long Cương theo thứ tự từ thấp lên cao là : đai đen , đai xanh , đai đỏ , đai vàng , dựa theo nguyên lý tương sinh của Ngũ Hành . Ngoài ra , ở cấp đai vàng nhất đẳng , võ phục điểm thêm 2 viền đỏ quanh ống quần phía dưới , tượng trưng các bước thành tựu ban đầu đã kết tụ vững vàng . Đối với người kế thừa truyền thống chính thức , màu đỏ quanh ống quần phía dưới được thay bằng màu vàng , tượng trưng tính chất cao quý .

Từ sau ngày lão võ sư Trương Thanh Đăng qua đời , võ phái Bình Định Sa Long Cương tiếp tục phát triển . Tại thành phố Hồ Chí Minh , võ sư Trương Bá Dương vẫn tiếp tục việc dạy dỗ cho lớp hậu sinh ngay tại võ đường mà cha mình - lão võ sư Trương Thanh Đăng - thành lập (phường Nguyễn Cư Trinh , quận 1) , còn có các võ sư khác mở lớp tại nhiều điểm như : Nhà văn hóa Thanh Niên , quận 2 , quận 6 , quận 11 , quận Phú Nhuận ... Ngoài ra , môn phái Bình Định Sa Long Cương còn phát triển đến nhiều tỉnh ở Nam Bộ và nhiều nước trên thế giới : Pháp , Mỹ , Canada , Italia ...
( S/T )

kymoc
15-09-2011, 10:54 AM
Một vị chân tu theo như hungvi nói thì nhất định lời nói phải chân chính ,với lại ngài chẳng cần gì phải nói khác đi Suy luận bác kymoc quả có chỗ đúng đắn đáng tin ,có thể ngài đã qui ẩn từ lâu
Cụ Phùng ngoài 50 rồi mà vẫn theo cụ Tế học thì đáng khâm phục quá ,

Trong phả hệ bác kymoc nhắc đến Tranthong sinh năm 1984 là học trò của Luơng Khôi ,nhưng tra ngược lại thì không thấy tên Luơng Khôi nằm trong dòng truyền thừa vậy ông này có nằm trong chính môn không hả bác ?

Đời thứ IX
Bành Nam (彭 南, Pang Nam, Pan Nam, 1909 – 1995) Cụ này già rồi mà lại là em út trong phả hệ .Thật khó hiểu về dòng truyện Vịnh Xuân thảo nào bác kymoc nói trong nhà người ta còn chưa chịu nhau nữa là ....

Cái này em không được rõ lắm vì VX trong Nam ngoài rất ít học trò của Cụ Tế (độ 2 đến 3 người) thì số còn lại có thể học ở nhưng người Hoa di cư sang Việt Nam trong thời chiến tranh. Có thể trong Phả hệ chỉ nói chủ yếu đến những người còn đang Hoạt động hoặc có đóng góp cho VX. Còn những người có học VX (Cả Chính thống lẫn không chính thống) nhưng vì lý do nào đó không có thông tin đầy đủ thì có thể sẽ bị bỏ qua.

kymoc
15-09-2011, 11:03 AM
Cảm ơn "KYMOC" đã cho biết thêm thông tin,về các Tôn Sư...Vị Thiền Sư mình gặp cũng già lắm rồi,mình chỉ biết Pháp danh của Ngài,không biết tên thật của Ngài..Nếu đúng như KYMOC" nói tên thật Ngài là cụ Việt Hương,thì chắc chắn đây chính là Vị Thiền Sư ..Mình cũng mấy lần nên Ngọa Vân Am để tìm gặp Ngài,mà không gặp được...Vạn sự tùy duyên,Ngài vẫn còn khỏe đang vi hành trong dãy Yên Tử Sơn...Nếu có duyên thì sẽ gặp được Ngài...

Hy vọng nếu đúng là Cụ Việt Hương thật thì có lẽ VX ngoài Bắc sẽ tổ chức mấy buổi tham quan Yên tử...nếu có cơ duyên mà gặp thì hay quá.Để mình phóng to ảnh chụp của Cụ Tế với học trò ngoài Bắc rồi Hungvi quan sát xem Vị Thiền sư có giống với Cụ Việt Hương trong ảnh không nhé ?!

kymoc
15-09-2011, 11:10 AM
Ảnh chụp Sư tổ Nguyễn Tế Công và các học trò:
http://www.thanglongkydao.com/members/kymoc-albums-vo-thuat-picture337-cu-nguyen-te-cong-va-cac-hoc-tro.jpg

Đây là ảnh sư tổ Tế Công và các truyền nhân của người trước khi sư tổ vào Nam năm 1954 (Người đầu tiên bên trái ảnh là cố võ sư Trần Văn Phùng, tiếp theo ông Lâm, ông Bình, ông Phạm Khắc Quảng, ông Việt Hương và cuối cùng là cố võ sư Trần Thúc Tiển. Ở giữa là sư tổ Nguyễn Tế Công và con trai, bác Thành)

HUNGVI chú ý hộ xem cụ Việt Hương có nét gì giống với vị Thiền sư không?
Cụ Việt Hương đứng thứ hai tính từ bên tay phải

thi_mich
15-09-2011, 11:16 AM
Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"

Hành trình bái sư của võ sư Băng Sơn vô cùng gian khổ, bởi vô số người muốn một lần diện kiến nhân vật huyền thoại Thiện Tâm Thiền Sư mà không được, chưa nói đến việc được thu nạp làm đệ tử

“Có phải Lý sư phụ giới thiệu tới tìm ta?”

Bởi lý do đó, vào Sài Gòn suốt mấy tuần trời, tìm đến khắp các võ đường của Võ lâm Côn Luân nhưng ông vẫn không một lần được thấy mặt Thiện Tâm Thiền Sư. Thấy ông vất vả, kỳ công, các trợ giáo của đại sư đã thương cảm, khuyên ông nên ra Bắc, bởi đại sư không bao giờ tùy tiện gặp người mình không quen biết.
Thế nhưng, nhớ lời dạy của Lý sư phụ trước lúc chia tay, ông quyết chí tìm gặp Thiện Tâm Thiền Sư cho kỳ được, dù có phải đi làm thuê để kiếm kinh phí trang trải trong những ngày chờ đợi.
Thế rồi, cơ duyên đến. Một lần viếng thăm một võ đường của đại sư nằm khuất sâu trong con hẻm nhỏ yên tĩnh, ông đã được một trợ giáo của đại sư đon đả mời vào. Chưa hết ngạc nhiên thì vị trợ giáo ấy đã bảo: “Đại sư đang chờ ông ở trong. Người biết thế nào ông cũng đến nên đã cố tình chờ đấy!”.
Võ sư Băng Sơn kể, nghe câu nói đó ông mừng đến nỗi ú ớ chẳng nói được câu nào. Quãng đường từ võ đài vào phòng đại sư chỉ vòng vèo qua mấy gian nhà mà ông thấy như xa vời vợi. Cái giây phút căng thẳng ấy đã nhanh chóng trôi qua khi cánh cửa phòng của đại sư bật mở. Đang ngồi trầm ngâm,thấy ông vào, đại sư đứng dậy,vồn vã:“Con vào đây! Ta chờ con cũng đã lâu rồi!”. Khi vừa an vị, một câu hỏi nữa của đại sư càng khiến ông thêm phần bối rối, khó hiểu: “Có phải Lý sư phụ giới thiệu con tới tìm ta? *”. “Ôi, sao đại sư biết!?”.
Trước câu hỏi đầy sự kinh ngạc ấy của ông, Thiện Tâm Thiền Sư chỉ khẽ mỉm cười. Sau này, ông đoán rằng, trước đây, bôn tẩu giang hồ, hai vị đại sư đã có lần hội ngộ nên đã hứa hẹn chuyện dìu dắt đệ tử cho nhau.

* Võ sư Lý Chấn Hòa
( còn tiếp )
Nguồn: Gia đình . NET.VN

kymoc
15-09-2011, 11:21 AM
Nhiều truyện nghe như trong tiểu thuyết kiếm hiệp...thế mà vẫn hiện hữu thực sư ngoài đời.

hung vi
15-09-2011, 11:25 AM
Nhìn bức ẢNH quý giá này... Với khuôn mặt và đôi mắt sắc sảo tinh anh.Đúng là Thiền Sư rồi.Cảm ơn kymoc nhiều

thi_mich
15-09-2011, 11:31 AM
Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"


Môn đồ cuối cùng trong Thập nhị cao đồ

Ngay buổi gặp gỡ ấy, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã thử tài năng võ nghệ của người đệ tử tương lai của mình.
Ngồi trên sập, đại sư bảo ông thi triển quyền cước trong nhà. Ban đầu, đại sư bắt ông đánh phá 2 cửa, rồi tăng lên 4 cửa, 6 cửa. Sau một thôi một hồi thi triển tất cả những kỹ năng mà mình có được, đã thấm mệt, đang chực dừng lại thì Thiện Tâm Thiền Sư lại giục tiếp: “Đánh 8 cửa!”. Mệt, thêm nữa, trong căn phòng nhỏ ấy, không đủ diện tích để ông thực thi “mệnh lệnh” lạ lùng của vị đại sư, nên ông đành chắp tay mà rằng: “Cái đó thầy con chưa dậy!”. Nghe ông nói vậy, đại sư bỗng phì cười.
Thế nhưng, sau nụ cười ấy ông bỗng trầm ngâm, như đang mải mê với một suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Đăm đăm nhìn ông, bất chợt đại sư hỏi: “Con có muốn làm đệ tử ta không? Nếu đồng ý, ta sẽ đích thân chỉ giáo!?”. Câu hỏi ấy đã làm ông vô cùng sung sướng, bởi đó là mục đích của chuyến đi đầy gian khổ mà ông đã phải chịu đựng.
Thế nhưng, nghĩ đến hàng ngàn đệ tử của đại sư, có mấy người được hưởng ân sủng đặc biệt ấy. Sợ hiềm khích, đố kỵ nên ông đã e dè: “Con sợ mình không có khả năng với lại còn sư huynh, sư đệ...”. “Cái đó thì con khỏi phải lo, khả năng của con đến đâu ta biết! Còn về môn phái, ta sẽ đặc cách cho con!”.
Sự kiện Thanh Hư Chân nhân đặc cách thu nạp đệ tử ấy chẳng mấy chốc lan rộng ra khắp sư môn, thậm chí cả làng võ phía Nam. Thế nhưng, với những người luyện võ chân chính thì lại cho đó là một điều vô cùng có lợi cho võ lâm, bởi họ tin vào con mắt tinh đời của ông. Và cũng qua sự kiện ấy, võ lâm mới hiểu hết khát khao cháy bỏng mà suốt cả cuộc đời, Thanh Hư Chân nhân chưa hội đủ điều kiện để thực hiện.
Từ năm 1960, khi sáng lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam và Võ lâm đạo Việt Nam, sáng tổ Đoàn Tâm Ảnh đã có dự định hưng chấn võ đạo Việt Nam cùng với Thập nhị đại đồ đệ như truyền thống của các danh sư Côn Luân thủa trước ở Trung Hoa. Mỗi danh sư của phái Côn Luân thì có thể có nhiều đệ tử nhưng chỉ có 12 người được phong pháp danh và được truyền thụ tất cả những bí kíp võ công của môn phái.
Võ sư Băng Sơn kể, trước ông, đã có 11 đại đồ đệ được đại sư Đoàn Tâm Ảnh thu nạp. Trong số họ, đã có nhiều người danh chấn giang hồ như Hàng Thanh, Lạc Hà, Hùng Phong, Vũ Đức... (các cao thủ này hiện đang sinh sống và truyền bá võ thuật ở nước ngoài). Thu nạp ông làm đại đồ đệ cuối cùng, thứ 12, Thanh Hư Chân nhân đã đặt pháp danh cho ông là Bắc Phong Chân nhân với uớc muốn, ông sẽ đưa môn phái phát triển rực rỡ ở miền Bắc.

Nguồn: Gia đình . NET.VN
( còn tiếp )

kymoc
15-09-2011, 11:43 AM
Nhìn bức ẢNH quý giá này... Với khuôn mặt và đôi mắt sắc sảo tinh anh.Đúng là Thiền Sư rồi.Cảm ơn kymoc nhiều

Rất cám ơn Hungvi.Để Kymoc thông báo với các Sư phụ VX ngoài Bắc, chắc chắn mọi người sẽ rất vui.Đúng là: cứ xa thì tìm tít mù khơi không thấy dấu, mà thực thì lại gần ngay trước mắt. Có lẽ là duyên chăng.

hao nam dong
15-09-2011, 12:58 PM
-Xin mọi người chỉ giáo,có ai biết rõ về môn phái Nhất Nam không nhỉ,ai biết thì cho mình xin tý thông tin,xin cảm ơn!

Congaco_H1R5
15-09-2011, 01:01 PM
-Xin mọi người chỉ giáo,có ai biết rõ về môn phái Nhất Nam không nhỉ,ai biết thì cho mình xin tý thông tin,xin cảm ơn!

Võ Nhất Nam là một phái võ ở Việt Nam. Võ Nhất Nam mới chính thức ra mắt tại Hà Nội vào ngày 23 tháng 10 năm 1983 do võ sư Ngô Xuân Bính đưa ra giới thiệu.
Lịch sử

Võ Nhất Nam là môn võ có nguồn gốc ở Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Trước đây chỉ tồn tại dưới các dạng gia phái hoặc trong cộng đồng làng xã. Có người cho rằng cái gốc ban đầu của Nhất Nam là võ Hét, hoặc võ Héc, của vùng châu Hoan, châu Ái xa xưa mà sau này là xứ Thanh, xứ Nghệ (hay Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay). Trong số Tạo sĩ, Tạo toát thời Lê Trung Hưng, rất nhiều người quê ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn, Hoàng Hóa, nhất là các huyện Kỳ Hoa, Tống Sơn và Thạch Hà của vùng Thanh-Nghệ, trong số đó nổi bật lên các họ Vũ Tá, Nguyễn Đình, Ngô Phúc, Phạm Phúc, Văn Đình...
Tác giả giới thiệu

Võ sư Ngô Xuân Bính xuất thân trong gia đình có truyền thống về võ, ông học võ ngay từ thân phụ và các võ sư nổi tiếng trong vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh đã lĩnh hội được truyền thống võ thuật dân tộc lâu đời, muốn thống nhất, đồng nhất các kỹ thuật võ Việt ông đã tiếp thu được để cùng vun vén về cội nguồn, hy vọng quy tụ các kỹ thuật của bầu đoàn võ của vùng sông Lam, sông Mã thành một phái võ riêng cho Việt Nam. Ông là một học trò giỏi của làng võ Việt Nam, nên khi ông là chưởng môn phái đã đặt tên cho môn võ mới là phái võ Nhất Nam. Với ý nghĩa đây là một đứa con của làng võ Việt nam, một phần tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Theo những gì ông cho biết ( tham khảo sách Nhất Nam căn bản tập 1 và 2 ), đây là một môn phái có quy mô và tổ chức cao, với một hệ thống các môn công khá đồ sộ, toàn diện được đúc kết, sáng tạo dựa trên những nguyên lý đơn giản mà hợp lý, dựa trên những đặc điểm tâm sinh lý và cơ chế vận động của cơ bắp con người để tạo dựng lên những phương pháp luyện tập, những hệ thống bài tập dư chứa những thủ thuật tinh tế và khoa học, những đòn thế đơn giản mà khéo léo, có khả năng lợi dụng được sức mạnh của đối phương... Ngày 19 tháng 5 năm 2009 Bộ Văn Hóa - Thể Thao và Du lịch đã chính thức ra văn bản công nhận danh sách Ban Vận Động Thành Lập Liên Đoàn Võ Thuật Nhất Nam Việt Nam gồm 21 vị.
Đặc điểm

Võ Nhất Nam xuất phát trước hết từ đặc điểm của người Việt là tầm vóc nhỏ bé, mà trong thời gian dài lịch sử lại phải thường xuyên đối đầu với người phương Bắc thể lực to khỏe và quyết chí cao do đó khó có thể đương lực ngang bằng theo lối đối đòn và trả miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn thắng phải tìm ra thế mạnh riêng. Xuất phát từ thể chất không cứng mạnh, võ sinh ta không thể tập theo lối cương cường, mà tập trung vào luyện công và môn công để khắc chế võ Tàu, cụ thể là tập nhiều về tránh né sao cho thật thuần thục để những đòn đánh của đối phương đều không đến được đích, rồi chọn cơ hội tấn công vào đúng điểm hở, điểm yếu của đối phương mà dứt điểm. Nói như các võ sư võ Héc là: "học đạt cái tinh để chế cái nhiều, cái tĩnh để chế cái động, cái đột để phá cái ì, cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng..." (trích sách Nhất Nam căn bản tập 1, nhà xuất bản TDTT Hà nội năm 1988) tất cả đều phải đạt độ quyền biến, tới mức thần quyền.
Phương châm của võ Nhất Nam là né tránh, đánh nhanh, điểm đặt đòn chính xác, đúng chỗ hiểm, có hiệu quả cao. Do đó về võ thuật phải luyện thân pháp cực kỳ mau lẹ để luồn tránh được đòn của đối phương, còn về tấn pháp tập trung vào các thế tấn thật cơ động, biến ảo cao. Để đánh điểm huyệt đối phương và chữa chạy cho mình hữu hiệu nhất, võ Nhất Nam nghiên cứu kỹ hệ thống các huyệt trên cơ thể người và những bài thuốc lấy từ cây cỏ và những con thú sẵn có ở địa phương.
Các võ sinh Nhất Nam được tập tinh thông thập bát ban võ nghệ, tức là ngoài quyền cước, võ sinh còn biết sử dụng thành thạo 17 loại vũ khí nữa. Quyền của Nhất Nam có 32 bài cơ bản, lại thêm 42 bài bổ trợ. Xuất phát của quyền theo quan niệm: "Biến tạo của trời đất có tất cả, từ cao đến thấp, chim muông, hoa lá, vạn vật, côn trùng... theo chúng kiến tạo, thêm cái hay để bảo tồn một giống hay nhiều giống. Trên đến chí cương, dưới đến chí âm, khắc nhu khắc cương, đấy là đạo của quyền". Điều đó có nghĩa là: Nhất Nam với mọi vật phỏng theo muôn vật, nghiền ngẫm để rút ra cái hay, cái đẹp, cái cứng, cái dẻo, cái biến hóa của muôn vật mà chế thành quyền. Bài quyền một chuỗi động tác, có thế công, thế thủ nhưng không chỉ là thế, là dũng mà phải là cái biến, cái khoáng đạt, tùy lúc. Nhất Nam bên cạnh những bài quyền chiến đấu, còn có những bài quyền dưỡng sinh chữa bệnh và những bài quyền nhập định nhằm tu dưỡng nhân cánh con người. Trong quyền, Nhất Nam tập đá nhiều, nhưng những đòn yểm trợ bằng tay vẫn được chủ yếu sử dụng và đạt hiệu quả cao, trong đó nổi bật lên 2 thế: tay xà và tay trảo. Tay xà là một thế mô phỏng động tác quăng, quật, luồn, cuộn của các loài trăn vốn rất phổ biến ở vùng Thanh-Nghệ, nó có độ nẩy, độ xiết, độ mở và độ uốn lượn rất linh hoạt. Tay trảo là thế đánh của tay chĩa ngang ngón cái như cựa gà chọi, còn các ngón kia khép lại chĩa thẳng thành mũi xỉa vào các huyệt của đối phương, thể hiện lối võ lấy yếu thắng mạnh, lấy nhẹ đánh nặng. Đặc biệt các bài Ma quyền, Ảo quyền, Hoa quyền đã kết tinh những kỳ bí của võ Nhất Nam.
Về võ binh khí, Nhất Nam coi binh khí là phương tiện "nối" cho tay thêm dài, thêm sắc, thêm cứng, thêm dẻo và linh hoạt, nên đã từ thế thức trong các bài quyền mà sáng tạo ra những bài võ binh khí như Ma kiếm, Hoa kiếm, Vũ Chân kiếm... Nhất Nam ưa sử dụng loại gậy tre đặc hoặc gỗ cứng, nặng các cỡ khác nhau, các bài Lôi côn, Thiết côn, Vân Vũ côn gồm nhiều thế đánh khác nhau, kết hợp nhuần nhuyễn giữ công và thủ. Hiện nay, về vũ khí có 9 bài côn, 9 bài kiếm, 7 bài rìu, 3 bài chạc ba, 5 bài thương, 1 bài song nguyệt, 2 bài đoản thiên mộc, 3 bài câu liêm cán ngắn (đánh kèm với lá mộc), 1 bài đánh bằng dây lưng, đặc biệt có cả bài đánh bằng dải lụa được gọi là Nhung thuật.
Binh khí của Nhất Nam cũng rất đặc sắc. Côn có tới 4 cỡ với độ dài bằng cánh tay, cao ngang mày, cao 1 đầu 1 gang tay và cao một đầu một với tay. Mộc bằng gỗ ken mây, bọc nhiều lớp da sống. Hai bên thân mộc còn lắp thêm 2 cái để khi đánh có thể xòe ra thành một lớn hoặc có thể gấp lại để che hai phía của thân mộc. Cây chạc ba như cây chạc ba đâm cá, có thể vừa đâm vừa ngoặc. Câu câu liêm là biến tướng của cây rựa đi rừng. Kiếm có sống và lưỡi, cong từ đoạn 2/3 ra mũi. Song nguyệt như cái liềm lưỡi sắt, hai đầu nhọn hoắt, một cặp nguyệt như bốn con dao vừa đâm vừa chém. Bài nhung thuật đánh bằng dải lụa dài 1-3 mét, đầu buộc vật nặng, cứng dùng để điểm, trói đối phương và quấn, giật vũ khí đối phương, có thể dấu kín nên dễ đánh bất ngờ.
Võ Nhất Nam xưa có 12 đẳng ứng với 12 vạch, nhưng nay thất truyền chỉ còn 9 đẳng ở môn công thuộc đủ các bài quyền thuật, binh khí, ám khí, xoa bóp, châm cứu, dưỡng sinh. Trang phục của võ sinh Nhất Nam theo lối võ cổ truyền: đầu chít khăn, mình trần, đóng khố. Các tài liệu tham khảo được phổ biến rộng rãi của võ Nhất nam hiện nay là hai cuốn Nhất nam căn bản do đích thân võ sư Ngô Xuân Bính biên soạn và trình bày.
(ST)

Congaco_H1R5
15-09-2011, 01:02 PM
Bí quyết luyện

Nguyên tắc
Học lấy tinh, không cần nhiều
Hiểu cần nhiều, nhưng luyên ít
Học lõi không học vỏ, học vỏ để chứa lõi
Giác đầu thành tay, thành chân
Cần chí hơi lý ở đầu
Phương pháp
Dậy chí trước môn công
Dậy ý trước tay chân
Dậy chế công, lấy công làm gốc
Dậy chế thủ, lấy thủ làm gốc
Biết chế chống công, biết công được chế
Yếu pháp
Là những yếu quyết căn bản giúp người luyện tập nắm vững và có cơ sở lý luận trong việc học tập các đòn thế, chiêu thức, cách di chuyển, tấn công phản công, phòng thủ... Giống như người đi xa phải chuẩn bị tư trang, người luyện võ muốn đạt được công phu, đều phải hiểu và nắm được những yếu quyết căn môn cơ bản.
Yếu pháp của môn phái võ Nhất Nam, dựa trên những nguyên lý đơn giản và hợp lý. Dựa trên những đặc điểm tâm sinh lý, cơ chế vận động của cơ bắp cơ chế vận hành của khí huyết để đưa ra các phương thức rèn luyện. Những hệ thống bài tập dư chứa những thủ thuật tinh tế và khoa học, những đòn thế đơn giản mà khéo léo; có khả năng lợi dụng được sức mạnh của đối phương, cũng như khả năng huy động một cách hợp lý sức mạnh của bản thân và các bộ phận của cơ thể dùng khi công hoặc thủ. Nhằm giúp người tập nhanh chóng thu được những kết quả mong muốn như: bản lĩnh vững vàng, trí cảm sáng suốt, khả năng phản xạ nhạy bén, cử động của tay chân linh hoạt, chính xác.
Các yếu pháp căn bản của phái Nhất Nam được chia ra làm 5 phần: Thân pháp, Thủ pháp, Công pháp, Hoá pháp, Giải pháp.
Bộ tay
Sự khéo léo, tính biến ứng và khả năng thực hiện những động tác phức tạp ở các góc độ khác nhau, là ưu điểm tiêu biểu của đôi tay con người. Dựa vào những nhận xét thông minh và đúng đắn đó, các võ sư nghiên cứu môn công và các phương pháp luyện tập đôi tay đêu cố gắng tận dụng khả năng lớn lao của nó.
Môn phái Nhất Nam tách bộ tay ra 5 kiểu: Tay quyền, Tay trảo, Tay đao, Tay xà, Tay chỏ.
Bộ chân
Khả năng vươn dài, vươn cao, trượt thấp, nhảy xa, bật cao, di chuyển, thực hiện dễ dàng các động tác nhanh mạnh là ưu thế chủ yếu của đôi chân con người. Người tập võ, luyện thành những đòn thế căn bản của bộ chân sẽ có được công phu trụ tấn vững vàng, di chuyển linh hoạt, đòn đánh kín, lực đánh mạnh và những khả năng gạt, đỡ, ngoắc, khóa, du ép đối phương một các hợp lý, có hiệu quả.
Môn phái Nhất Nam chia bộ chân ra làm 5 kiểu sau: Thiết cước, Lôi cước, Đao cước (cước đao ), Kim chỉ cước, Chuỳ lôi cước.
Quyền
Quyền là thuật vận động, hài hoà giữa sức mạnh, sức bật, sức bền, độ dẻo, tính nhịp điệu trong một tổng thể khăng khít, hoà hợp giữa con người với thiên nhiên mà tính năng của nó có thể thu âm, thu dương, khắc cương, khắc nhu, là nếp nghĩ, là tinh thần, là phần hành động lộ hiện cho tư tưởng hành hiệp của người học võ. Kỹ thuật của Quyền rất đa dạng: khi ứng đấu các võ sĩ phải xử lý đồng bộ nhiều động tác của tay, chân, của đầu, của thân, của mông... khi chậm, khi nhanh, khi mạnh, khi nhẹ... khi đánh xa, khi đánh gần, khi đánh cao, khi đánh thấp, khi đánh đòn đơn, khi đánh đa đòn... khi đánh trực diện, khi đánh từ hai phía... khi chập chờn dồn dứ, khi ồ ạt liên hoàn... Mặt khác trong qúa trình luyện quyền, người học võ phải thường xuyên di chuyển bằng các thức; bước chuyển, nhảy, lăn, lộn, chạy... để phù hợp với tình huống tấn công hoặc phòng thủ.

(ST)

Congaco_H1R5
15-09-2011, 01:05 PM
P/S :
Tôi Sưu tầm trên Wikipedia giúp bác Hao_namdong bằng cách nhờ giáo sư Gúc thôi , chứ không dám "chỉ giáo " - múa rìu qua mắt thợ đâu đấy !!!

hao nam dong
15-09-2011, 01:27 PM
-Cám ơn Congaco đã sưu tầm,thú thât hồi học xong lớp 12(1988) và mới vào đại học tôi cũng có học qua môn phái này,sau một thời gian chuyển đến lớp thầy Bính dậy tại SVĐ Hàng Đẫy thì tôi không theo kịp nên đành phải bỏ dở(không chịu được khổ luyện),bạn bè tôi sau đó có người vẫn tiếp tục theo học khoảng 6-7 năm nữa thấy cũng luyện rất nhiều loại binh khí và trình độ chắc là cũng khá
-Hồi mới học(phong trào lúc học võ đó rất phát triển) được thời gian ngắn tôi thường dủ mấy thằng bạn học môn phái khác như karate,tayquando..... ra công viên Thống Nhất thi đấu giao lưu thì toàn thắng thôi(lúc mới học nhất nam bao giờ cuối buổi thầy cũng bắt học trò thi đấu đối kháng với nhau 1-1,hay 1 đấu 2 .....)bọn bạn chưa quen đối kháng nên không biết đánh đấm mấy chỉ giỏi mỗi múa quyền thôi.
-Bây giờ mới thật sự biết thêm về môn phái Nhất Nam,còn võ vẽ thì quyên hết từ lâu rồi.

tranbinh
15-09-2011, 03:23 PM
- Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó là người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” - lời Huyền Đạo Công Trần Công.

Huyền Công Đạo Trần Công khí công cự phách, ám khí kinh hồn; Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm ảnh xuất quỷ nhập thần, nghiệp võ huy hoàng vài thập kỉ; lão võ sư Trần Tiến, Hà Châu tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng quyền thuật thì vẫn mạnh như mãnh thú, gần xa nô nức khen tài... Kế đến, “lớp trẻ” như võ sư Chu Há, Băng Sơn, Vũ Quang Tín, Văn Thắng... cũng tài danh lừng lẫy, gây dựng nghiệp võ khiến người người thán phục, ngợi ca.

Vậy, trong số những “ngôi sao sáng chói” ấy, ai là thiên hạ đệ nhất?

Hùng kê đệ nhất?

Ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, nguyên là Vụ trưởng Vụ Thể dục Thể thao quần chúng (đồng thời là Tổng Thư ký đầu tiên của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, từ năm 1991 tới năm 2007), đã được sống, được gắn bó với nhiều võ sư tên tuổi của làng võ Việt Nam.

Đặc biệt hơn, ông chính là người đã tiến hành biên soạn, xuất bản cuốn sách "Đời người - Nghiệp võ", được tạm gọi là phác thảo đầu tiên về “khuôn mặt” những cao thủ của võ lâm Việt Nam suốt từ Nam chí Bắc.

Trong cuốn sách ấy, ông đã giới thiệu 23 võ sư, họ đều là những người nổi tiếng, có đóng góp tích cực cho phong trào võ thuật nước nhà. Tuy thế, khi hỏi ông về nhân vật số một trong làng võ đương đại, quan điểm cá nhân, ông đã không ngần ngại mà trả lời, người ấy là lão võ sư Ngô Bông, truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền, hiện đang sinh sống ở Quảng Ngãi.

Theo ông Trung, lão võ sư Ngô Bông là người vô cùng say mê với võ thuật. Bất cứ nơi nào có “chuyện võ” là nơi ấy có sự “góp vui” của lão võ sư ấy.

Lão võ sư Ngô Bông sinh năm 1923, trong một gia đình nghèo ở Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Cha bị giặc Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về ở với nhà ngoại của mình. Tại đó, ông đã được hai cậu ruột của mình là Lê Chót và Lê Thuỳ dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi.

Tiếp đến, khi đã thành một thanh niên vạm vỡ, ông đã theo học Thiếu lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Và cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông cũng đã nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh...

Với những đóng góp của mình cho phong trào võ thuật, khi Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam được thành lập, ông được mời làm cố vấn. Năm 1993, trong một hội thảo chuyên môn, bài Hùng kê quyền do ông là truyền nhân đã được bình chọn là một trong những bài võ thống nhất (nằm trong thể thức thi đấu) của Liên đoàn. Đặc biệt hơn, năm 2004, khi đã ngoài 80 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái Võ thuật nổi tiếng của khắp các quốc gia, với bài Hùng kê quyền do chính lão võ sư Ngô Bông thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của tất thảy mọi người.

Mãnh sư Trần Tiến ở ngôi đầu?

Võ sư Phan Dương Bình (Bình “bún”) lại có “quan điểm” khác. Luận bàn về chủ đề này, quan điểm cá nhân, võ sư Phan Dương Bình “đề cử” ngay rằng trong số những võ sư đương đại, ông thấy lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được ngồi vào “ghế” đầu tiên.

Võ sư Phan Dương Bình kể, ông vừa mới đi Nam về. Chuyến đi ấy, vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông và lão võ sư Trần Tiến đã có nhiều thời gian để trao đổi với nhau những điều tâm huyết về võ thuật. Điều ông thấy mừng là dù tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng lão võ sư Trần Tiến vẫn vô cùng rắn rỏi, minh mẫn. Điều ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự uyên thâm của lão võ sư trên “con đường” võ học của mình.

Lão võ sư Trần Tiến sinh năm 1911, trong một gia đình có truyền thống võ học ở Bắc Giang. Ông nội ông là cụ Hoàng Hảo, bố là Hoàng Tân, cùng chi họ và từng tham gia nghĩa quân của hùm xám Yên Thế Hoàng Hoa Thám.

Khi nghĩa quân tan rã, để tránh sự truy sát của quân giặc, gia đình ông đã phải dạt về Đồ Sơn, Hải Phòng và đổi sang họ Trần. Ông được ông nội và cha mình truyền dạy võ công từ khi còn nhỏ. Năm 15 tuổi, cơ duyên, ông đã được lãnh hội võ công của một nhà sư người Trung Quốc sang Việt Nam lánh nạn, tên là Lý Giang Nam, quê ở Phúc Kiến, thuộc phái Thiếu Lâm.

5 năm sau đó, ông tiếp tục thụ giáo Nhu thuật và Judo của 2 võ sĩ người Nhật tên là Tanabe và Karachi. Với tinh thần ham học hỏi, ông còn tập cả quyền Anh do võ sĩ người Pháp Lafeur chỉ dạy.

Khi mới ngoài 20 tuổi, võ sư Trần Tiến đã danh nổi như cồn khi giành ngôi vô địch kiếm thuật ở Bắc Kỳ. Bởi bị giặc Pháp săn đuổi vì lý do “kích động kẻ xấu luyện võ gây mất an ninh trật tự” nên cuối năm 1936, võ sư Trần Tiến phải khăn gói vào Nam. Quãng thời gian này, bởi mưu sinh và cũng bởi sự sốc nổi của tuổi trẻ nên võ sư Trần Tiến đã rất nhiều lần thượng đài ở khắp các nước Đông Nam Á với nhiều đối thủ khác nhau và đều giành về mình phần thắng.

Theo võ sư Trần Tiến thì trận thượng đài cuối cùng của ông diễn ra trên đất Singapore. Sau khi loại hàng loạt các đấu thủ, trận “chung kết” ông gặp một đối thủ là võ sĩ người bản địa có biệt hiệu là Tiểu Lâm Xung.

Tiểu Lâm Xung là võ sĩ có thân hình cao lớn, rắn chắc. Trước đó, nhiều trận đấu, Tiểu Lâm Xung để đối thủ thoải mái tung quyền, cước vào người mà chẳng hề hấn gì. Khi đã thấm mệt, chỉ một đòn là Tiểu Lâm Xung hạ nốc ao đối thủ. Trước trận đấu căng thẳng ấy, trong lần tổ chức họp báo, Tiểu Lâm Xung đã thề sẽ đánh gục võ sĩ người Việt để “rửa hận” cho những “chiến hữu” đã bị ông triệt hạ. Thời gian ấy, võ sư Trần Tiến đang là nhân vật để một hãng giày nổi tiếng thực hiện quảng bá hình ảnh. Bởi thế, sự quan tâm của công chúng tới trận đấu “sinh tử” của ông là cơ hội tuyệt vời để hãng giày đó khuếch trương thương hiệu của mình. Do vậy, trước trận đấu, ông đã nhận được “tối hậu thư” của “đơn vị tài trợ”, buộc ông phải thắng.

Lên đài, với “bàn tay sắt” của mình, như để thị uy, doạ nạt đối phương, Tiểu Lâm Xung đã tung những cú đấm sấm sét của mình vào những tấm gỗ dày đến 5 cm khiến chúng vỡ tan. Trước đòn phủ đầu ấy, ông vẫn không hề nao núng. Cậy sức, Tiểu Lâm Xung ra đòn tới tấp, nhưng với thân thủ nhanh nhẹn, võ sư Trần Tiến đã khéo léo tránh, né, đỡ đòn. Già nửa thời gian của trận đấu trôi qua, tuy chưa bị dính đòn nào nhưng phần thắng đã có vẻ nghiêng hẳn về võ sĩ người bản địa vì lợi thế tấn công nhiều hơn. Trong lúc say máu tấn công, Tiểu Lâm Xung đã bộc lộ nhiều sơ hở. Và, trong một tích tắc “ham công bỏ thủ” ấy, võ sư Trần Tiến đã nhanh chóng áp sát. Hạ thấp tấn, bằng một thế xà quyền, ông đã đánh thốc vào hạ bộ đối phương. Chỉ một đòn ấy, Tiểu Lâm Xung đã đổ đánh huỵch xuống sàn, không tài nào gượng dậy được. Vậy là, phần thắng đã thuộc về võ sư người Việt.

Thế nhưng, trong phút giây vinh quang ấy, thấy Tiểu Lâm Xung nằm bất động trên sàn, ông bỗng thấy ăn năn, day dứt. Thật ra, đòn ấy, với võ đài thi đấu kiểu tự do như trên thì chẳng có gì là sai luật, nay với tinh thần võ đạo, cú đánh ấy lại là cấm kỵ bởi tính sát thủ kinh hồn. Vậy nên ông tự nhận mình là người thua cuộc. Sau trận đấu ấy, ông đã tránh xa “kiếp sống võ đài”.

Năm 1945, ra Hà Nội, được Việt Minh giác ngộ, lão võ sư Trần Tiến tham gia cách mạng. Vào quân ngũ, với khả năng quyền thuật siêu phàm của mình, ông đã được tổ chức phân công huấn luyện bộ đội tinh nhuệ (lực lượng đặc công sau này).

Năm 1978, ông rời quân ngũ nhưng vẫn tự nguyện tham gia dạy võ thuật cho một số sĩ quan quân đội Campuchia suốt hơn chục năm trời. “Về hưu” nhưng với nghiệp võ thì ông vẫn miệt mài theo đuổi.

Chắt lọc, đúc kết những tinh hoa võ học mà mình cả đời tích luỹ, lão võ sư Trần Tiến đã sáng lập võ phái Thiếu lâm nội gia võ thuật đạo Việt Nam. Đến giờ, võ phái của ông đã thu hút cả ngàn môn sinh. Trong số ấy, có rất nhiều môn sinh người Âu, Mỹ, Phi... bởi nghe danh mà lặn lội tìm về theo học. Với một sự nghiệp huy hoàng như trên, theo võ sư Phan Dương Bình, trong số những võ sư Việt Nam hiện đang còn sống và tham gia hoạt động võ thuật, lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được xếp ở ngôi đầu.

Nhất Công nhì Ảnh?

Lão võ sư Trần Hưng Quang (Quang “ốc”, Chưởng môn phái Bình Định Gia) là người vô cùng nghiêm túc trên con đường võ đạo đồng thời rất khắt khe với những nhận xét của mình. Tuy vậy, khi hỏi người đầu tiên mà ông nghĩ tới khi “lập bảng phong thần” thì ông đã trả lời ngay, người ấy là Huyền Công Đạo Trần Công, Chưởng môn phái Không Động.

Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì Huyền Công Đạo là người có đóng góp rất lớn cho võ thuật cổ truyền, đặc biệt là làng võ thủ đô Hà Nội. Huyền Công Đạo được biết tới như một người có nội công, khí công siêu phàm đồng thời là “cha đẻ” của rất nhiều binh khí đặc dị. Trong số ấy, độc môn ám khí của lão võ sư đã danh trấn giang hồ, không ai bì kịp. Làng võ Việt Nam, rất nhiều những võ sư nổi tiếng đều đã tìm đến lão võ sư để nhờ người chỉ giáo.

Nhận xét trên của lão võ sư Trần Hưng Quang cũng trùng với ý kiến của nhiều người. Bắc Phong Chân nhân Băng Sơn, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia cũng đồng quan điểm ấy. Có một giai thoại do võ sư Băng Sơn kể lại, năm 1991, khi Đại hội võ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội, một số võ sư đã tiến hành “bình bầu” xem ai là đệ nhất cao thủ võ Việt. Và theo như kết quả của cuộc “bầu chọn” ấy, lão võ sư Trần Công đã ở ngôi đầu, kế đến là Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh.

Khi chúng tôi gặp để xác minh thông tin này, thì viện lý do tuổi cao, lão võ sư Trần Công bảo ông không còn nhớ gì đến chi tiết này nữa. Và, nếu điều này thực sự... đã diễn ra thì ông cám ơn mọi người đã tỏ lòng mến mộ.

Còn với riêng Huyền Công Đạo, vị võ sư mà ông nể phục phải là người vẹn đức vẹn tài. Theo đại sư Trần Công, võ lâm Việt Nam đương đại, người ấy chính là hai lão võ sư Trần Tiến và Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh. Theo Huyền Công Đạo, tuy chỉ gặp gỡ một vài lần hiếm hoi nhưng tính cách, khả năng chuyên môn của hai đồng đạo trên đã khiến ông cảm phục. Giống như lão võ sư Trần Công, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo cũng vô cùng hâm mộ nghiệp võ của hai lão võ sư trên, đặc biệt là với quyền sư Đoàn Tâm Ảnh. Theo võ sư Văn Thắng thì danh tiếng, khả năng siêu phàm của lão võ sư giờ đã 107 tuổi ấy (Đoàn Tâm Ảnh) không chỉ người trong nước biết tới mà nhiều môn sinh của các môn phái khác trên thế giới đều xuýt xoa, nể phục khi nhắc tới tên. Đoàn Tâm Ảnh chính là một huyền thoại của làng võ Việt Nam.

Những “người kế thừa vĩ đại”

Võ thuật có tính kế thừa và phát triển. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi phong trào võ thuật được khôi phục, trên bầu trời vốn đã nhiều tinh tú ấy lại xuất hiện thêm những ngôi sao sáng chói. Những “ngôi sao” ấy không những kế thừa tinh thần thượng võ - “vốn liếng”, tinh hoa của thế hệ đi trước, mà còn đưa nền võ thuật nước nhà phát dương quang đại.

Võ sư Chu Há thuộc tuýp người khiêm tốn, rất ít khi đưa ra nhận xét về người khác. Tuy thế, khi đề cập đến vấn đề này, quan điểm cá nhân, với “thế hệ kế thừa” hiện nay, ông đã “tiến cử” hai võ sư, một của môn phái Vịnh Xuân, một của môn phái Võ lâm Phật gia.

Môn đồ của Vịnh Xuân, theo võ sư Chu Há, là võ sư Trương Quốc Định, đệ tử của cố võ sư Trần Văn Phùng (một trong 5 học trò ưu tú nhất của võ sư Tế Công). Hiện tại, võ sư Định đang dạy Vịnh Xuân ở làng Ngọc Hà (Hà Nội).

Người thuộc môn phái Võ lâm Phật gia không ai khác là võ sư chưởng môn Băng Sơn (Bắc Phong Chân nhân). Theo võ sư Chu Há, những năm gần đây, môn phái của võ sư Băng Sơn đã “gặt hái” được nhiều thành công rực rỡ, thể hiện qua những tấm huy chương từ các lần “võ lâm đại hội”...

Võ học thâm như Đông Hải...

“Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”, đó là quan điểm của ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn võ thuật cổ truyền và cũng là quan điểm chung của tất cả các võ sư khi nói về anh tài làng võ. Bởi thế, rất khó có thể tìm ra trong số rất nhiều những ngôi sao sáng trên bầu trời võ thuật Việt Nam, ngôi sao nào sáng nhất.

Điều này, càng được khẳng định qua câu nói của sáng tổ Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang, một võ phái nổi tiếng ở Trung Quốc. Câu nói này đã được lão võ sư Nguyễn Tỵ, Chưởng môn phái Nam Hồng Sơn, một môn phái đang thu hút rất đông đệ tử hiện nay ghi nắn nót ngay trên... tường nhà mình: “Võ học thâm như Đông Hải - Siêu quần võ sĩ đa thi sa số hằng hà”. Nghĩa câu nói ấy, theo lão võ sư Nguyễn Tỵ thì võ học thâm sâu chẳng khác gì bể đông, anh tài thì đông đảo chẳng khác gì sao ở trên trời. Bởi thế, trong võ luôn có đạo, người học võ phải biết giữ lấy cái đạo của mình. Trong đạo ấy, thì điều đầu tiên là phải xóa bỏ cái tôi, không tự kiêu, tự phụ, coi thường người khác. Mình tài nhưng bể học bao la, ra ngoài xã hội chắc chắn có người tài giỏi hơn. Bởi thế, theo lão võ sư, viết câu đó lên tường, ngày ngày nhìn thấy thì mọi nơi, mọi lúc ông đều tự điều chỉnh tất cả những hành vi của bản thân mình.

Võ sư Văn Thắng có một kỷ niệm mà đến giờ, ông vẫn chẳng giây phút nào quên. Kỷ niệm ấy đã nhắc nhở ông rằng, trong thiên hạ, người tài là vô số kể. Cách đây cỡ độ chục năm, bởi chưa xây dựng được võ đường qui mô như bây giờ, ông phải dạy môn đồ của mình ở một sân chùa gần nhà. Tối nào cũng vậy, hễ khi những tiếng “hây ha” của buổi tập bắt đầu thì lại có một ông già không biết từ đâu ra khoảng sân ấy thảnh thơi hóng mát.

Một buổi, ngồi nhìn ông đi một bài quyền làm mẫu cho học trò, ông già kỳ lạ ấy đã đến bên nhẹ nhàng... góp ý. Theo ông lão thì võ sư Văn Thắng đi quyền quá chính xác, nhưng về cuối bài quyền, động tác cần mạnh và dứt khoát hơn, có vậy mới lộ rõ uy lực. Đó là những lời hoàn toàn chính xác.

Biết ông lão cũng chẳng phải “người thường”, võ sư Văn Thắng đã mời ông chỉ giáo thêm. Ngay tối đó, trước rất đông môn sinh của Thăng Long võ đạo, ông già kỳ lạ ấy đã đi liên tiếp mấy bài quyền, côn khiến mọi người được một phen... mở mắt. Biểu diễn xong, ông lịch sự cúi chào mọi người rồi vội vã rút lui, không để lại danh tính dù võ sư Văn Thắng đã nằng nặc hỏi. Các tối sau, dù đã cố tình chờ đợi, nhưng chẳng biết bởi lí do gì, ông lão ấy đã không trở lại thêm một lần nào nữa.

Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó là người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” (lời võ sư Trần Công). Từ quan điểm này, thì bất cứ người nào đam mê nghiệp võ, giương cao tinh thần võ đạo và xả thân vì nền võ học nước nhà thì đều xứng đáng được tôn vinh là những đệ nhất anh tài trong rừng võ Việt Nam.

( S/T )

thailawer
15-09-2011, 03:48 PM
Kết thúc thấy... Hoà vốn thì phải! Đọc nhiều bài của Trần Bình, bài nào cũng hay có bài mình khóc nữa (mẹ điên), Lớn tuổi rồi lại còn khóc, ức thật, nay chém phát cho hả giận.

tranbinh
15-09-2011, 04:04 PM
Hạ võ sĩ Nam Hàn, vinh danh làng quyền cổ

- Khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Đám khách không mời đã phải chắp tay: "Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!".

Sáng tổ của làng quyền An Vinh (đất võ Bình Định) là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân.

Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ...

Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo.

Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.

Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.

Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chùy... ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba... ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch. Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ.

Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài, mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.

Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa.

Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.

Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành... nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển.

Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà. Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục.

Ở tuổi tuổi xưa nay hiếm, nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, lại một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ. Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại xắn áo “thượng đài”.

Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mảng vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền "

Congaco_H1R5
15-09-2011, 04:19 PM
Câu chuyện về võ sư Phan Thọ nhận lời thách đâu với võ sự Đệ ngũ đảng huyện đai của quân đội Nam Hàn tồi có đọc qua trên báo Tuổi trẻ chủ nhật (hay báo gì đó đã quền vì lâu rồi) - Chuyện nhiệu dị bản . Lúc thì nghe hai bên thượng đài trên võ đài , lúc thì nghe hai người giao đâu trên 1 bãi đất trông , bây giờ thì lại nghe là đánh nhau ngay trong nhà :D.
...chung qui giao đâu ở đâu thì võ sư Phan Thõ cũng thắng bằng 1 đòn duy nhất .
Vì lạ đòn thế của Taewondo , ông chỉ né tránh chông đỡ không ra đon , sau khi phát hiện sơ hở ông mới phản công 1 đòn là đối phương gục ngay tại chỗ ....

Năm Phan Thọ 29 tuổi, một tên sỹ quan chế độ Sài Gòn - huyền đai ngũ đẳng Teakondo, hống hách đến thách đấu với ông. Từ chối mãi mà không được, ông đành phải ra tay làm vừa ý hắn. Trận đấu diễn ra trên một bãi đất trống, dân làng kéo tới xem rất đông, nhưng tất cả phải đứng bên ngoài một hàng rào thiết lập bằng lính cảnh vệ với súng ống tua tủa. Chúng làm như thế nhằm thị uy ông.
Nhưng Phan Thọ vẫn lạnh lùng như không có điều gì xảy ra, ông biết ông sắp chiến đấu không chỉ vì danh dự cá nhân ông, mà còn bảo vệ danh dự của một dân tộc đang chịu cảnh lầm than, oai danh của võ Tây Sơn- Bình Định.
Vào trận, tên sỹ quan có lợi thế về tầm vóc, tung cước tấn công ào ạt, các thế cước của hắn vừa nhanh, vừa mạnh, vừa hiểm độc. Hăn muốn chóng vánh hạ Phan Thọ cũng là một cách để làm giảm uy tín võ Tây Sơn. Nhiều lúc rơi vào tình thế hết sức khó khăn, do từ trước đến giờ ông chưa hề nghiên cứu các đòn thế của Teakondo, nên có phần bị động. Nhưng không vì thế mà phan Thọ nao núng. Với bộ pháp lẹ làng, ông né tránh, hoá giải được hầu hết các đòn thế của tên sỹ quan. Đánh mãi mà không hạ được Phan Thọ, tên sỹ quan càng điên tiết tấn công dữ dội. Tuy nhiên thế chủ động giờ đây lại thuộc về phía Phan Thọ. Rồi! Điều gì đến cũng phải đến, trong một pha tấn công, Phan Thọ giả bộ để lộ tử huyệt- bên ngực trái. Thấy ngon ăn, tên sỹ quan liền nhằm vào ngực ông, lấy hết sức bình sinh, tung ra một cuớc. Chỉ chờ có thế, Phan Thọ đảo bộ, nghiêng người vô hiệu đòn đánh của đối phương. Đồng thời đưa tay phải lên bắt lấy và tì người vào chân hắn. Tay trái gõ vào mu bàn chân hắn làm hắn giật bắn người. Đoạn, ông xoay người nương theo chân của hắn, tay trái lại cắm một chỏ trời giáng vào đùi hắn. Xong vẫn là tay trái, ông dực một chỏ nửa vào tim hắn, tất cả diễn ra trong tích tắc. Đến đây, thì tên sỹ quan rũ người ra, Phan Thọ nhẹ nhàng đẩy hắn nằm sóng soài trên mặt đất trong sự hoan hô vang trời của dân làng.

kymoc
15-09-2011, 05:13 PM
...Những “người kế thừa vĩ đại”

Võ thuật có tính kế thừa và phát triển. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi phong trào võ thuật được khôi phục, trên bầu trời vốn đã nhiều tinh tú ấy lại xuất hiện thêm những ngôi sao sáng chói. Những “ngôi sao” ấy không những kế thừa tinh thần thượng võ - “vốn liếng”, tinh hoa của thế hệ đi trước, mà còn đưa nền võ thuật nước nhà phát dương quang đại.

Võ sư Chu Há thuộc tuýp người khiêm tốn, rất ít khi đưa ra nhận xét về người khác. Tuy thế, khi đề cập đến vấn đề này, quan điểm cá nhân, với “thế hệ kế thừa” hiện nay, ông đã “tiến cử” hai võ sư, một của môn phái Vịnh Xuân, một của môn phái Võ lâm Phật gia.

Môn đồ của Vịnh Xuân, theo võ sư Chu Há, là võ sư Trương Quốc Định, đệ tử của cố võ sư Trần Văn Phùng (một trong 5 học trò ưu tú nhất của võ sư Tế Công). Hiện tại, võ sư Định đang dạy Vịnh Xuân ở làng Ngọc Hà (Hà Nội).

Người thuộc môn phái Võ lâm Phật gia không ai khác là võ sư chưởng môn Băng Sơn (Bắc Phong Chân nhân). Theo võ sư Chu Há, những năm gần đây, môn phái của võ sư Băng Sơn đã “gặt hái” được nhiều thành công rực rỡ, thể hiện qua những tấm huy chương từ các lần “võ lâm đại hội”...



Khà! khà! khà! Có tên Sư phụ của sư phụ mình.Nhưng xin sửa lại họ của Thầy là Võ sư : Trịnh Quốc Định.Thật tự hào:>

thi_mich
15-09-2011, 06:31 PM
Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"


Lần thứ hai “rút ruột” sư phụ

Từ dạo đó, ngày nào cũng vậy, võ sư Băng Sơn được Đại sư trực tiếp truyền thụ võ công. Đại sư là người rất nghiêm khắc trong việc dạy học trò. Còn nhớ, khi mới vào, tiếp xúc với một số đồ đệ của đại sư, ai cũng bảo: “Ổng khó tính lắm! Lôi thôi là ổng uýnh liền à!”. Và, võ sư Băng Sơn cũng không ngoại lệ.
Tuy chưa bị “uýnh liền” nhưng Thanh Hư Chân nhân đã ra với ông một điều kiện, các bài mà thầy dạy ngày hôm trước, hôm sau phải tinh thông cho kỳ được. Nếu không làm được như thế thì đại sư sẽ không dạy nữa và coi như duyên số giữa hai thầy trò đã đến ngày cạn phai.
Chỉ ít lâu theo đại sư Đoàn Tâm Ảnh, ông đã lãnh hội được toàn bộ Thập bát chưởng công - võ công cơ bản của Côn Luân Bắc phái. Võ công của Côn Luân thiên về việc tu thân luyện sức, toát lên tinh thần nhân ái, các môn sinh thích sống cuộc đời ẩn dật, không phô trương. Bởi thế, võ lâm giang hồ bảo, võ của Côn Luân là Võ tiên.
Bởi còn công việc ngoài Bắc, nên khi đã thấm nhuần cái đạo của Võ tiên, thầy trò đành phải nói lời giã biệt. Mãi đến năm 1991, nhân Đại hội Võ thuật toàn quốc lần thứ nhất, Thanh Hư Chân nhân mới ra Hà Nội. Tái ngộ nhau, hai thầy trò mừng mừng tủi tủi. Võ sư Băng Tâm kể, lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy, đại sư đã trao cho ông cuốn Cẩm nang bí kíp. Đây là cuốn sách ghi lại đầy đủ những bí kíp võ công của môn phái Côn Luân, do đại sư tự tay chép lại. Về cuốn sách đặc biệt này, võ lâm giang hồ xem như báu vật.
Có giai thoại rằng, trước đó, đã có rất nhiều nhà xuất bản đến nài nỉ xin mua lại bản thảo với số tiền khổng lồ. Riêng nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn đã trả cho đại sư 200 cây vàng nhưng ông vẫn không chịu bán. Tiếp những nhà xuất bản ấy, đại sư chỉ bảo: “Sách quý, không bán được! Nhưng gặp ai, thấy thích tôi sẽ tặng ngay!”.
Cũng trong lần gặp ấy, đại sư đã bảo ông rằng: “Ta 18 năm lang bạt học võ thì đến giờ đã truyền cho con được 9 năm rồi. Khi nào vào đó (Sài Gòn) ta sẽ truyền nốt 9 năm còn lại cho con!”. Nghe lời dạy của đại sư, thu xếp ổn thỏa công việc, năm 1995, ông lại khăn gói vào Sài Gòn “rút ruột” tinh hoa võ thuật của sư phụ mình. Và, chuyến đi này, khả năng hấp thụ võ công của ông đã khiến Thanh Hư Chân nhân vô cùng mãn nguyện.

Nguồn Gia đình . Net.VN
( còn tiếp )

Lão Khoai
15-09-2011, 08:54 PM
Những cây bút như tranbinh , thimich , kymoc kiến thức mênh mông ,thẩm mỹ tinh tế ,chọn bài nào là đáng đọc bài ấy .Thật hay quá ! mấy hôm nay rất thú vị đuợc hiểu biết thêm nhiều điều .Cám ơn các bạn

HoangDau
15-09-2011, 10:50 PM
Em cao 1m77 nặng 56kg thì học dc võ j các bác nhỉ? :D em hậm mộ cả cờ tướng lẫn võ thuật mà chưa học hành dc j mấy

Lão Khoai
15-09-2011, 10:59 PM
Chẳng gì qua đuợc duyên ,trùng trùng duyên khởi .Học đến tuyệt nghệ phải do duyên ,duyên chưa đủ tất bị chuớng ngại .xin post một bài nói về Hư trúc ,nhờ duyên mà thành cao thủ .

Hư Trúc là người có võ công và nội lực cao nhất Thiên Long. Chú tu hành từ thưở mới lọt lòng mẹ tại Chuà Thiếu Lâm, chú vào sân khấu Thiên Long với số tuổi mười sáu, mười bẩy nên chú không còn là chú tiểu song chú vẫn chưa phải là Sư bác, Sư ông. Ta gọi chú là Sư chú.

Hư Trúc trạc tuổi Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Du Thản Chi. Chú chỉ muốn tu hành suốt đời và tuy tu trong chuà Thiếu Lâm, nơi ai cũng võ nghệ cùng mình, võ từ Phương Trượng Đại sư đến ông bếp già quanh năm và cả đời chỉ đánh lộn với đám nồi niêu, soong chảo; Sư chú Hư Trúc hoàn toàn không có chút síu võ công nào cả. Như đã nói chú chỉ muốn tu thành chánh quả, chú không muốn học võ.

Hư Trúc được đi theo hầu hạ Sư phụ, một cao tăng chùa Thiếu Lâm đi vân du. Khi ấy trên giang hồ có tin Tổng Đàn Vô Vi Phái ở Hồ Nam mở cuộc tuyển lựa người làm Chưởng Môn Nhân. Sư phụ của Hư Trúc đến đó chứng kiến cuộc tuyển người. Vì uyên nguyên ấy Sư chú Hư Trúc cũng đến Tổng Đàn Vô Vi Phái ở Hồ Nam.

Vô Vi Phái có thủ tục lạ kỳ: không tuyển người trong phái làm Chưởng môn nhân mà lại tuyển người ngoài. Cách tuyển người cũng không giống ai: một bàn cờ đã sắp sẵn được đặt ra, ai phá được thế cờ, thắng được ván cờ sẽ được Vô Vi Phái nhận làm Chưởng môn nhân.

Tô Tinh Hà, một nhân vật cao cấp trong Vô Vi Phái, chủ trì bàn cờ. Nơi đấu cờ được tổ chức trên bãi cỏ rộng lưng đồi, trước một căn nhà gỗ, bên hàng thông xanh. Được tin biểu huynh của nàng là Mộ Dung Công Tử sẽ đến dự cuộc tuyển lựa, Vương Ngọc Yếùn đến Tổng Đàn Vô Vi Phái. Đoàn Dự đi theo nàng nên Đoàn Dự cũng đến Tổng Đàn Vô Vi Phái.

Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh đến dự tuyển. Lão ngồi vào bàn cờ trước nhất. Lão rất cao cờ — cờ này là Cờ Vi, không phải Cờ Tướng — nhưng thế cờ bí hiểm làm lão đầu váng, mắt hoa, kinh mạch đảo lộn. lão đành chịu thua. Đoàn Dự rồi Mộ Dung Công Tử được Tô Tinh Hà long trọng mời vào bàn cờ. Tô Tinh Hà rất muốn một trong hai chàng trẻ tuổi đẹp trai, hào hoa phong nhã Đoàn Dự, Mộ Dung Phục giải được thế cờ, làm Chưởng môn Tinh Tú phái.

Đoàn Dự không thích võ công, cũng chẳng ham làm Chưởng môn bất cứ bang phái nào trên cõi đời này. Chàng đến đây chỉ vì chàng đi theo Vương Ngọc Yến. Và chàng xây sẩm mặt mày khi nhìn thấy tình yêu của Vương Ngọc Yến với biểu huynh của nàng, chàng còn tinh thần đâu mà cờ với quạt. Chàng ngồi vào bàn cờ vì được Tô Tinh Hà trịnh trọng mời.

Đây là lần thứ nhất Mộ Dung Công Tử xuất hiện bằng xương, bằng thịt trên sân khấu Thiên Long. Trước đó Kim Dung toàn diễn tả chàng qua lời những nhân vật Thiên Long nói đến chàng và bản lãnh gọi là ” Đẩu chuyển, tinh di” của nhà Mộ Dung.

Kim Dung cho Mộ Dung Phục xuất hiện đẹp như rồng, như phượng. Chàng đứng trên đỉnh hàng thông xanh gần đó tự lúc nào không ai hay. Từ xa một chiếc lá bay tới lơ lửng trên bàn cờ rồi rơi xuống một ô cờ. Mọi người quanh bàn cờ ồ lên một tiếng kinh ngạc và thán phục. Nước cờ quá hay. Người vừa đi nước cờ tuyệt diệu ấy phải là một Vô Địch Kỳ Vương.

Vương Ngọc Yến kêu lên:

– Biểu huynh của ta đến.. Biểu huynh của ta là Mộ Dung Công Tử.. Biểu huynh của ta chắc sẽ giải đuợc thế cờ này…

Quần hùng biết người vừa ném chiếc lá là Mộ Dung Công Tử, và Công Tử sắp đến. Công Tử đến thật. Công Tử thần thái hào hoa, phong nhã, ung dung ngồi vào bàn cờ. Công Tử còn điển trai hơn cả Đoàn Vương tử nước Đại Lý. Mọi người nín thở. Tô Tinh Hà bồi hồi chỉ mong Công Tử phá được thế cờ.

Nhưng sau vài nước cờ có vẻ sáng sủa, thế cờ của Công Tử lập tức đi vào ngõ bí. Mộ Dung ngồi lặng trước bàn cờ. Chàng thấy thế cờ giống như tình trạng mộng ước khôi phục ngai vàng Yên quốc của gia đình chàng. Chàng chỉ còn một nhúm tàn quân bị quân địch bao vây kín mít. Chàng tiến lên là chết, lùi lại cũng chết, sang phải chết, sang trái cũng chết, ở yên cũng chết. Biết làm sao đây? Sự suy nghĩ và tuyệt vọng làm Mộ Dung Phục mắt hoa, đầu váng, máu tươi ứa ra trong miệng chàng.

Đến lượt Sư chú Hư Trúc ngồi vào bàn cờ. Chú không có ý định ngồi vào bàn cờ vì chú mù tịt về cờ quạt. Chú ngồi vào bàn cờ vì chú nghe có tiếng người bảo chú ngồi vào. Chú tưởng người ra lệnh cho chú là Sư phụ của chú. Nhưng người ra lệnh cho chú là Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Lão dùng phép “truyền âm nhập mật” nói vào tai Hư Trúc. Truyền âm nhập mật là phép người nói không nói ra tiếng, và người nói muốn nói với ai thì chỉ người được cho nghe mới nghe được tiếng.

Lão Ác Ma đã thua cuộc, ra đứng chầu rìa, nhưng lão còn cay cú. Lão cho nhà sư trẻ vào cuộc để phá chơi cho bõ ghét. Lão, vẫn dùng phép truyền âm nhập mật, chỉ cho Hư Trúc đánh bậy, đánh bạ. Mọi người lại ồ lên ngạc nhiên khi thấy nhà sư trẻ đi một nước cờ.

Đây là nước cờ tự sát: đẩy quân mình vào chỗ chết. Không ai, kể cả những tay cờ cao đến đít vịt , lại đi nước cờ ngu ngốc này.

Tô Tinh Hà giận dữ quát lên:

– Đây không phải là nơi mấy người đến rỡn chơi..

Lão đánh một chưởng lên tảng đá gần bên. Tảng đá vỡ làm nhiều mảnh…

Hư Trúc ngồi chết trân. Chú muốn xin lỗi nhưng chú chưa mở miệng ra nói được. Thái độ mọi người bỗng trở thành khác lạ. Người ta thấy nhà sư trẻ vừa đi một nước cờ tuyệt diệu. Cờ lâm thế bí, phải hy sinh một số quân mới có thể thoát được trùng vi, mới có đường thoát ra trung thổ để tranh thắng, tranh hùng. Mà đúng như vậy. Sau nước cờ thí quân, thế cờ bí của Hư Trúc bắt đầu được giải. Từ nước này trở đi là dễ rồi. Đoàn Diên Khánh dùng truyền âm nhập mật chỉ tiếp, Hư Trúc thắng ván cờ.

Nhà sư trẻ không muốn được tuyển làm bất cứ chức tước gì trên cõi đời này, định mệnh an bài cho chú thành Chưởng Môn Vi Vô Phái. Chú được Tô Tinh Hà đưa đến trước căn nhà gỗ. Chú ngẩn ngơ:

– Nhà không có cửa! Làm sao vào..?

Tô Tinh Hà nói lớn:

– Không có cửa thì phá vách mà vào…

Lão đẩy mạnh Hư Trúc. Nhà sư trẻ lao vào vách gỗ. Vách bể, nhà sư ngã vào trong căn nhà.

Khi ngồi lên được Hư Trúc nhìn quanh. Trong nhà tối mờ. Chú sợ hãi khi thấy bóng người lơ lửng giữa chừng. Chú tưởng là ma. Sau đó chú nhìn kỹ mới biết đó là một người được treo vào sợi dây buộc lên mái nhà. Người được treo xếp vòng tròn, chân ở trên, đầu ở dưới.

Chú nghe tiếng người đó gọi:

– Tiểu tử.. Lại đây…

Chú lại gần. Người treo lơ lửng là một ông già đẹp lão, sắc mặt hồng hào, ánh mắt sáng long lanh. Ông này là Vô Nhai Tử, Chưởng Môn Vô Vi Phái. Thời trẻ ông rất đẹp trai. Ông sắp từ trần, ông chỉ còn sống để chờ truyền nhân. Một lần nữa người đọc thấy điểm độc đáo của Vô Vi Phái: muốn Chưởng Môn nhân là người đẹp trai. Vô Nhai Tử nhìn truyền nhân của ông, thấy Hư Trúc xí trai quá, thất vọng ông thở dài:

– Sao ngươi lại có thể xấu đến thế được?

Hư Trúc mắt trố, mũi huyếch, răng hô, bị chê nên tự ái dồn dập, chú nói:

– Tôi không muốn vào đây. Nếu tiền bối không thích, tôi xin kiếu…

Chú định quay ra. Vô Nhai Tử dơ một ngón tay. Hư Trúc không bước đi được. Vô Nhai Tử nhìn Hư Trúc kỹ hơn. Ông lại thở dài:

– Mười việc ở đời có đến chín việc không được như ý. Ngươi vào được đây là ngươi có uyên nguyên với ta. Đành vậy. Tiểu tử.. Lại đây…

Hư Trúc bị một sức mạnh kéo tới chỗ Vô Nhai Tử. Ông già tung người lên, đặt đỉnh đầu ông lên đỉnh đầu Hư Trúc. Nhà sư bị đè xuống ngồi trên sàn. Bằng cách đặt đỉnh đầu mình lên đỉnh đầu Hư Trúc, Vô Nhai Tử truyền công lực gọi là Bắc Minh Chân khí cho Hư Trúc.

Hư Trúc mê người trong thời gian được truyền công lực không biết là bao lâu. Khi tỉnh lại, chú thấy ông già Vô Nhai Tử ngồi trước mặt chú. Thần sắc ông thay đổi khác hẳn, da ông răn reo, khô héo, mắt ông lạc thần. Ông khẽ nói:

– Con đã nhận công lực tám mươi năm tu dưỡng của ta. Từ nay con là Chưởng Môn Vi Vô Phái. Ta là Sư phụ của con. Con lậy ta đi…

Hư Trúc chỉ nhận Sư phụ Thiếu Lâm của chú là sư phụ, nhưng lòng dạ chú thương người. Người sắp chết có ước muốn cuối cùng được chú gọi là Sư phụ, thấy việc đó cũng chẳng có gì quan trọng, chú quỳ gối lậy ông và gọi ông ba tiếng:

– Sư phụ..

Hài lòng, Vô Nhai Tử thở hơi cuối cùng.(ST)

thi_mich
16-09-2011, 09:11 AM
Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"


Thọ giáo “Vương kiếm” Huyền Công Đạo

Ra Bắc, vừa tập trung sức lực gây dựng môn phái, võ sư Băng Sơn còn được “Vương kiếm” - "vua ám khí" Huyền Công Đạo Trần Công quý mến chỉ giáo thêm. Nhờ sự tận tình ấy, ông đã lãnh hội được ở đại sư nhiều môn binh khí đặc dị và những bí pháp có một không hai. Và chuyện võ sư Băng Sơn diện kiến Huyền Công Đạo Trần Công đến giờ vẫn được giới võ thuật truyền tai nhau như một giai thoại đẹp.
Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng tăm của cụ Trần Công đã lâu, đặc biệt là khả năng khí công siêu phàm của cụ, đã nhiều lần ông muốn thử. Thế nhưng, ngại mình là bậc hậu sinh, lại thêm phần Huyền Công Đạo nổi tiếng kỹ tính nên loay hoay mãi mà ông chẳng biết chọn cách nào. Cho đến một buổi, sau hôm gặp đại võ sư ở Hội võ thuật Hà Nội, ông đã quyết định “diện kiến” sự cao thâm của bậc danh nhân làng võ ấy. Ông lấy côn và tự đánh một đòn rất nặng vào tay trái của mình.
Cú “tự xử” ấy khiến khuỷu tay ông bầm tím, sưng vù. Ôm cánh tay đau đớn ấy, ông đã gõ cửa nhà Huyền Công Đạo. Võ sư Băng Sơn kể, hôm ấy ông đã được mấy phen kinh ngạc. Thấy bộ dạng của ông, Huyền Công Đạo như đã biết tỏng sự việc, nhưng ông vẫn vui vẻ mời ông vào và nói: “Ông muốn ta phóng khí chữa vết thương phải không, được rồi, ông cứ ngồi nguyên đó, ta sẽ chữa cho!”.
Nghe đại sư nói thế, biết là “âm mưu” của mình đã bị đại sư “bắt vị”, nhưng ông vẫn ngồi xuống và toan cởi bỏ hết áo rét để xem bậc trưởng lão... phóng khí chữa bệnh thế nào. Thế nhưng, việc ấy đã bị Huyền Công Đạo ngăn lại: “Không cần, ông cứ ngồi nguyên đó!”. Lời của đại sư khiến ông rất kinh ngạc, bởi hôm đó trời rét như cắt da cắt thịt nên ông đã ních vào người rất nhiều áo rét. Ngoài 2 chiếc áo len, ông còn khoác thêm cả chiếc áo Na- tô dày ở ngoài.
Bởi ăn vận như vậy nên ông không thể tin lão võ sư có thể truyền khí xuyên qua ngần ấy áo để mà chữa thương cho mình. Thế nhưng, lạ kỳ thay, sau khi vận khí, tay đại lão võ sư để cách vết thương của ông đến cả gang tay. Vậy mà, chỉ trong tích tắc, ông đã cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt ở ngay tại nơi “mình tự làm mình khổ” ấy. Tay ông lúc thì nóng ran, lúc thì lạnh toát.
Chừng 3 phút sau, Huyền Công Đạo kết thúc công việc của mình. Và thật bất ngờ, ông thấy tay mình tuyệt nhiên không còn đau đớn nữa. Vết thương thì chỉ qua đêm đó đã lành lại như chưa hề bị va đập.

kymoc
16-09-2011, 09:24 AM
Cám ơn thi mich đã sưu tầm cho anh em thưởng thức.Như thế mới biết cao thủ võ thuật ở Nước Việt không phải là ít...Những giai thoại đó tuy có nét gì đó hơi tiểu thuyết...nhưng thực sự nó phải là vậy khi mà con người ta sống chân tình với đời.

Congaco_H1R5
16-09-2011, 09:25 AM
@thi_mich : bạn sửa lại bài 1 chút nhé, Có 1 đoạn bị trùng lặp khoảng 10 lần rồi
Từ " cam khó ....đến ....cuộc rượu định mệnh"

kymoc
16-09-2011, 09:34 AM
Trong tám quẻ bát quái(Tiên thiên) bao gồm:
1 Càn
2 Đoài
3 Ly
4 Chấn
5 Tốn
6 Khảm
7 Cấn
8 Khôn
Thì mỗi quẻ chủ sự cho một dạng của sự kiện, nhưng nếu chồng hai quẻ lên nhau và tìm được hào động thì nó lại như một thước phim ghi lại toàn bộ quá trình sẽ hoặc đã diễn ra của một sự kiện. Sự kiện hiện diên rõ hay không thì phần quyết định nằm ở dụng thần, dụng thần tốt thì sự kiện đủ thông tin....dụng thần kém thì sự kiện manh mún, dễ nảy sinh sự nhận xét bừa bãi.

thi_mich
16-09-2011, 09:42 AM
@thi_mich : bạn sửa lại bài 1 chút nhé, Có 1 đoạn bị trùng lặp khoảng 10 lần rồi
Từ " cam khó ....đến ....cuộc rượu định mệnh"

Muội đang làm mừ , sao Huynh đọc được ? Hihi Cám ơn Huynh nha

thi_mich
16-09-2011, 09:49 AM
Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"


Cuộc rượu định mệnh


Năm 1985, sau khi đi bộ đội về, võ sư Băng Sơn mở võ đường ở Hà Nội. Ông kể, cái thủa ban đầu cam khó ấy, để võ đường tồn tại được, ông đã phải nhiều lần đích thân đứng ra thi thố võ nghệ để giữ vững uy danh của võ đường. Trong số những đối thủ, có cả những kẻ cố tình phá đám, dẫm đạp lên tinh thần võ đạo.
Thế nhưng, từ sau trận đấu với một võ sư ở quận Hoàn Kiếm, ông đã rất ăn năn, tự hứa với mình không bao giờ ra tay nếu thật sự thấy không cần thiết. Nghe tiếng ông đã từng thọ giáo nhiều bậc đại sư tiếng tăm lừng lẫy và biết ông là đệ tử chân truyền của Chưởng môn Lý Chấn Hòa, một võ sư ở quận Hoàn Kiếm – Hà Nội (cũng theo học một thầy Tàu), đã nhiều lần gửi lời thách đấu. Vị võ sư ấy lực lưỡng, sức mạnh thì kinh hồn, mỗi cú thôi sơn có sức nặng ngàn cân.
Để biểu diễn sức mạnh của mình trước võ lâm đồng đạo, vị võ sư ấy từng dùng tay trần đấm tróc vỏ cây già. Khiêu chiến mãi không được, vị võ sư đó đành qua một người quen của ông, mời ông tới nhà uống rượu. Nghĩ đó là sự ân tình, ông đã vui vẻ nhận lời mà không ngờ nó trở thành cuộc rượu định mệnh của vị võ sư kia.
Võ sư Băng Sơn kể, ban đầu cuộc rượu đó diễn ra rất vui vẻ, thế nhưng, rượu vào thì lời ra, chủ đề võ thuật lại được chủ nhà nhắc tới. Và ông ta có những lời miệt thị, xúc xiểm đến việc mấy lần ông từ chối lời thách đấu. Cùng với sự chế nhạo đó, ông ta khoe những thế võ độc của mình.
Rượu cũng đã ngà ngà, trước sự khoe khoang vô lối của đối phương, võ sư Băng Sơn bảo, những thế võ đó, ông có thể hóa giải được. Và, ngay trong cuộc rượu đó, ông đã “diễn thuyết” cách thức phá chiêu của mình. Bị bóc mẽ trước đám đệ tử của mình, gia chủ đã vô uất ức. Ông ta bảo, Băng Sơn chỉ giỏi... võ mồm, còn quyền cước thì chẳng đến đâu.

Một lần xuất chiêu cả đời day dứt


Vẫn bằng cái giọng khiêu khích, hợm hĩnh, ông ta thách người ngồi đối diện với mình ra sân thi đấu. Trước thái độ quá quắt ấy, hơi men trong người đã làm võ sư Băng Sơn tức giận. Ông đứng phắt dậy, ra sân. Nhưng, với “thói quen” vốn có khi thi đấu của mình, võ sư Băng Sơn kể, ông vẫn nhường cho đối thủ tấn công trước 3 đòn.
Và đúng như đã nói ở trong mâm rượu, hai đòn đầu, khi đối phương tung chiêu độc, ông đã lần lượt hóa giải và nhứ đòn vào những chỗ hiểm của đối phương. Đòn thứ ba cũng vậy, như mãnh thú say mồi, đối phương hùng hục lao tới, nhưng ông cũng nhanh chóng vô hiệu hóa chiêu thức ấy.
Đã quy ước trước, khi hai bên giao đấu, không được cố tình đánh vào những tử huyệt của nhau như yết hầu, mắt, hạ bộ... Sau đòn thứ 3, đáng ra vị võ sư kia phải dừng lại và coi như cuộc đấu đã phân biệt rõ kẻ thắng người thua. Vậy mà, khi ông đã dừng đòn, gia chủ vẫn bất thình lình chơi ngay đòn hiểm, xỉa thẳng tay vào mắt đối phương. Không đề phòng nên trước cú đánh bẩn ấy, ông chỉ kịp ngửa mặt tránh. Tuy thế, ngón tay của đối phương vẫn cầy rách mí mắt trái của ông.Sau cú đánh đó, tiện tay, gia chủ tung ngay một đòn như trời giáng vào vai trái khiến ông loạng choạng. Biết đối phương quyết hạ độc thủ, hết đường lùi, ông quyết định phản đòn. Khi đối phương chưa kịp thu tay về thì đã bị ông túm lấy giật mạnh về phía trước...
Võ sư Băng Sơn kể, khi đối phương lỡ chớn, lao theo cú giật đó thì ngay lập tức, ông lách sang bên rồi giáng luôn một đòn vào mang tai đối phương và tiếp theo là một đòn vào phần gáy. Đồng thời với sê-ri đó là một cú gối thốc ngược lên phản đà đổ xuống của đối thủ. Dính 3 đòn liên tiếp, vị võ sư cao to ấy bật ngược ra phía sau và nằm bất động.
Võ sư Băng Sơn kể, vài tuần sau, có người đến tìm ông báo tin, vị võ sư ở Hoàn Kiếm đó sau lần tỉ thí với ông đã nằm liệt giường, không thể nào đi lại được nữa. Tin ấy làm ông giật mình, kinh hãi. Có lẽ tại bởi uống rượu, bởi tức giận nên hôm đó ông đã xuống tay quá nặng và những cú đòn đó đã làm kinh mạch của đối phương bị tổn thương, sinh ra bại liệt.
Hối hận, ông đã vội vàng đường sữa lên thăm. Gặp ông, vị võ sư đó buồn bã bảo: “Lỗi này do tôi, ông không phải bận tâm gì. Suốt mấy tuần qua, nằm suy nghĩ, tôi biết, với tính khí ấy của mình thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ gặp cảnh này!”.

thi_mich
16-09-2011, 10:07 AM
Ôi , muội muội -huynh huynh - thích chết được @};-

Hầydà đừng có thít nha ,cẩm nã thủ của Muội có chứng chỉ đấy ?! @-)@-)

Lão Khoai
16-09-2011, 10:08 AM
.dụng thần kém thì sự kiện manh mún, dễ nảy sinh sự nhận xét bừa bãi.

Cái này mới là chỗ cao thấp đây bác kymoc ạ , quẻ còn tù mù hỗn mang chi sơ mà đã quyết rành mạch thì ngoài học thuật ra vẫn còn chút gì đó như là nhất điểm thiên tài
Trung cuộc mờ ảo ưu khuyết khó phân , quyết một nuớc cờ mang đến thắng lợi tất là bậc cao thủ

thi_mich
16-09-2011, 10:32 AM
Lịch sử võ thuật Việt Nam


Kể từ bình minh của lịch sử, dân tộc Việt đã luôn phải chinh phục thiên nhiên hoang dã để mở cõi và đấu tranh chống ngoại xâm, nhất là những đạo quân từ phương Bắc tràn xuống. Những vũ khí bằng đồng của tổ tiên được tìm thấy, có niên đại từ thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên, như dao găm, giáo, rìu, gươm là những vũ khí đánh gần. Việc sử dụng chúng đòi hỏi phải có sự can đảm, khéo léo kỹ thuật thành thạo. Chính những yếu tố đó lại rất cần thiết để phát triển các hình thức chiến dấu nhằm tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả của vũ khí. Tuy nhiên, các sử gia đã không thể tìm thấy bất cứ bằng chứng nào minh chứng cho sự tồn tại của những kỹ pháp võ thuật, hiểu theo nghĩa hiện đại, trong nền văn hóa buổi đầu của lịch sử dân tộc.
Những sự kiện lịch sử trong suốt hai thiên niên kỷ tiếp theo đã thúc đẩy dần sự hình thành không chỉ binh pháp mà cả những kỹ thuật sử dụng binh khí: đại phá quân Nam Hán trên Bạch Đằng giang năm 938, phá Tống năm 981 và 1077, chống Nguyên Mông năm 1258, 1285 và 1288, khởi nghĩa chống đô hộ của nhà Minh những năm 1418 đến 1428, chiến thắng nhà Thanh năm 1789.
Trong suốt hai thời kỳ nhà Lý và nhà Trần từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14, Phật giáo trở thành quốc giáo. Những phương thức nghiêm ngặt nhằm tự kiểm soát, hoàn thiện mình và rèn luyện những bí kíp về thần, khí, ý, lực đã giúp các nhà sư không chỉ am tường tôn giáo mà còn rất giỏi võ. Thời Lý, các nhà sư thường tổ chức lễ hội ở chùa chiền và đền miếu, nơi có những hoạt động mang đậm tinh thần thượng võ như đấu vật và tỉ thí võ nghệ tay không hoặc có binh khí.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, võ Việt Nam tồn tại ở hai dạng: bình dân (tại các lễ hội) và triều đình (chương trình chuyên rèn luyện và thi võ). Các hoạt động võ thuật bình dân được tổ tổ chức rộng rãi trong dân chúng, thường tại các lò võ và các lễ hội truyền thống, để giải trí, gia tăng tinh thần thượng võ, nâng cao kỷ luật và tự vệ. Nổi tiếng trong các lễ hội này là các hình thức võ vật, đặc biệt là vật Liễu Đôi ở Nam Định. Những đô vật tài giỏi được dân gian phong là "trạng Vật". Nhiều người trong số họ sau này trở thành những lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, như Phùng Hưng, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Cừ, Lê Lợi, Tây Sơn tam kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) và các đô đốc tài ba của họ v.v.
Trong khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra do những bậc công thần treo ấn từ quan để thể hiện sự phản đối của mình với chính sách của triều Nguyễn. Suốt thời kỳ này võ thuật phổ biến rộng rãi. Thậm chí khi phong trào chống Pháp suy yếu thì các lò võ vẫn âm thầm hoạt động và các võ sư vẫn bí mật truyền thụ võ thuật cho học trò, tạo nên những chương trình luyện tập võ nghệ của quần chúng tồn tại song song với võ kinh của triều đình. Tuy nhiên, đương đầu với những hỏa khí (súng, đại bác) hiện đại từ Tây phương, bạch khí (gươm, giáo, mác) tỏ rõ sự hạn chế. Trong quân sự, võ thuật đột nhiên không còn đóng vai trò quyết định trong các cuộc chiến. Dưới thời thuộc Pháp, triều đình ngừng việc đào tạo võ nghệ và trong dân chúng, các môn thể dục thể thao phương Tây dần ngự trị. Tuy nhiên, rèn luyện võ thuật nhằm phát dương quang đại tinh thần thượng võ, kỹ thuật tự vệ, vẫn âm thầm nở rộ trong dân chúng, hình thành các trung tâm võ thuật với nhiều lò võ lừng danh ở Thăng Long - Hà Nội (miền Bắc), Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định (miền Trung), Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (miền Nam).
Cũng từ cuối thế kỷ 19 đến hết thế kỷ 20, nhiều trường phái võ thuật khác nhau đến từ các nước châu Á khác du nhập dần vào Việt Nam như Judo, Aikido, Karate (Nhật Bản), Wushu, Thiếu Lâm phái, Võ Đang phái, Nga Mi phái, Thái Cực quyền (Trung Quốc); Pencak silat (Indonesia ), Taekwondo (Triều Tiên), quyền Anh (châu Âu) v.v. Người Việt đã tiếp nhận, chuyển hóa, kết hợp với võ thuật bản địa, làm phong phú thêm kỹ thuật tự vệ của võ học dân tộc. Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam được thành lập năm 1991 với tinh thần gìn giữ và phát huy tinh hoa võ thuật của tổ tiên, giới thiệu quảng đại đến bè bạn năm châu một phần vốn liếng di sản văn hóa được tích lũy qua nhiều thế hệ người Việt. Liên đoàn cũng đang hướng tới mục tiêu xây dựng một môn quốc võ[, mà trọng tâm là sự đầu tư cho các võ phái như Bình Định [ cũng như các hệ phái võ thuật cổ truyền khác như, Nam Hồng Sơn Thăng Long võ đạo Tân Khánh Bà Trà v.v.


Rèn luyện và khảo thí võ tại triều đình


Trước thế kỷ 16, các vua chúa bổ dụng các võ tướng trong triều dựa trên những cống hiến, công trạng hoặc gia thế của họ chứ không qua thi tuyển. Do đó, đa số các võ tướng cao cấp trong triều là người của hoàng gia.
Năm 1253 triều Trần cho lập Giảng Võ đường, một trường rèn luyện võ dành cho hoàng thân quốc thích là các võ tướng. Cũng trong khoảng thời gian này Trần Quốc Tuấn đã soạn Binh thư yếu lược, một cuốn sách nhằm chỉ dạy tướng sĩ rèn luyện binh pháp, võ nghệ. Nhờ dạy và học võ một cách bài bản, triều Trần đã có nhiều tướng lĩnh nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão v.v., góp phần to lớn vào chiến thắng chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Năm 1721 dưới thời Lê Dụ Tông, trường đào tạo võ đầu tiên cho quảng đại quần chúng được mở tại Thăng Long mang tên Võ Học sở, đồng thời bổ nhiệm một vị quan chịu trách nhiệm giảng dạy binh pháp. Chúa Trịnh Cương rất lưu tâm đến việc đào tạo tướng lĩnh, ông cũng là người biên soạn những quy định và thể chế thi tuyển võ học. Các kỳ thi ở cấp hương thôn, gọi là "sở cử" được tổ chức ba năm một lần vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Kỳ thi Hội (bác cử) diễn ra tại Thăng Long vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Mỗi kỳ thi gồm ba phần: thứ nhất là kiểm tra kiến thức binh pháp cổ, thứ hai là kiểm tra công phu võ học (cưỡi ngựa, bắn cung, kiếm thuật, côn thuật), thứ ba là chiến thuật và chiến lược quân sự.
Năm 1731, chúa Trịnh Giang tiếp tục soạn thêm những quy định về võ thí sau khi nhận ra có nhiều võ sinh xuất sắc đã trượt ở phần thi viết luận về chiến lược dùng binh. Theo những quy định do nhà chúa sửa đổi, công phu võ học được nhấn mạnh hơn là kiến thức về chiến lược quân sự. Tới năm 1740, nhà Lê đã xây dựng Võ Miếu để tôn thờ các binh gia nổi tiếng của Trung Quốc và Việt Nam như Tôn Tử, Quản Tử và Trần Quốc Tuấn. Trong suốt thời vua Lê chúa Trịnh (1428-1788) có 19 cuộc thi võ được tổ chức và lấy đỗ 200 võ sinh. Các cuộc thi võ tại triều đình này chỉ ngưng một thời gian ngắn khi Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc Hà "phò Lê, diệt Trịnh", và được tái tổ chức sau đó dưới thời Tây Sơn.
Các vua nhà Nguyễn cố gắng mở cõi về phương Nam nên rất chú trọng việc tuyển chọn và rèn luyện quan võ. Năm 1836, Minh Mạng ban đạo dụ nói rõ: để cai trị đất nước cần chú ý cả văn trị và võ công. Nhà vua còn đặt ra những chế định cho các kỳ thi võ hai cấp: thi Hương và thi Hội, trong đó thi Hương tổ chức vào các năm Dần, Thân, Tị, Hợi; thi Hội tổ chức vào năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Các cuộc thi võ ở Huế thường tổ chức vào tháng bảy âm lịch, với những hạng mục như xách tạ, chiến đấu tay không, sử dụng vũ khí (côn, đao, khiên, thương), đặc biệt là sử dụng thiết côn nặng gần 20 kg để đấu đối kháng và thương dài 3,3 mét để đâm các hình nộm. Trong vòng thi thứ ba các thí sinh được kiểm tra kỹ năng bắn súng. Những thí sinh trúng tuyển lại phải trải qua một vòng khảo thí về "võ kinh thất thư" (bảy bộ sách kinh điển về võ học) [4], đồng thời thi đấu tự chọn một trong 18 môn loại võ khí thuộc thập bát ban võ nghệ.
Từ 1802 đến 1884 nhà Nguyễn tổ chức 74 kỳ thi ở các cấp và tổng số có 3893 thí sinh vượt qua được cả kỳ thi văn và thi võ. Các thí sinh trúng tuyển qua các kỳ thi với thành tích cao được phong tiến sĩ võ.
Nhìn chung, các kỳ thi võ tại triều đình phong kiến Việt Nam rất khác với thí võ theo nghĩa hiện đại, trọng tâm nhấn mạnh tính tập thể, trải nghiệm của võ sinh trong chiến trận qua sự vận dụng binh pháp, kỹ thuật chiến tranh và tương đối ít đề cao cá nhân tính, ít nhấn mạnh những sở học võ công của riêng một người. Do đó Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử không có truyền thống võ học kiểu Trung Hoa với các đại môn phái, các bang hội, các chưởng môn nhân lừng danh và những hiệp sĩ hành hiệp giang hồ.
Các kỳ thi võ tại triều đình phong kiến Việt Nam chấm dứt vào năm 1880 khi người Pháp bắt đầu tăng cường nền cai trị của họ tại Việt Nam. ( S/T )

Congaco_H1R5
16-09-2011, 11:00 AM
Hầydà đừng có thít nha ,cẩm nã thủ của Muội có chứng chỉ đấy ?! @-)@-)

Vâng , huynh biết mà , ngón Cầm nã thủ (http://lamnguyenthao.blogspot.com/2010/06/cam-na-thu.html) danh chấn giang hồ này không không ngại mới là lạ :D , nhưng mà vẫn ..."thít"

thi_mich
16-09-2011, 11:14 AM
vJTem8Atwyo

6789
16-09-2011, 11:31 AM
Vâng , huynh biết mà , ngón Cầm nã thủ (http://lamnguyenthao.blogspot.com/2010/06/cam-na-thu.html) danh chấn giang hồ này không không ngại mới là lạ :D , nhưng mà vẫn ..."thít"

Em không bao giờ tin thị Mịch có võ, nếu biết thì sợ gì lão Hách? :)

kymoc
16-09-2011, 11:35 AM
Kymoc và một số Sư huynh VX Hà Nội đã một lần đến gặp giao lưu và nói chuyện với Mr.Trịnh Thắng ở Võ đường 305 Bùi Xương Trạch.Cảm giác chung thì Mr.Trịnh Thắng là người cởi mở, học thức rất rộng.Cám ơn thi mich đã gửi video clip.

hung vi
16-09-2011, 12:07 PM
Rất cám ơn Hungvi.Để Kymoc thông báo với các Sư phụ VX ngoài Bắc, chắc chắn mọi người sẽ rất vui.Đúng là: cứ xa thì tìm tít mù khơi không thấy dấu, mà thực thì lại gần ngay trước mắt. Có lẽ là duyên chăng.

Phật Học và Võ Học là vô bờ, đúng là phải có duyên...Kymoc và các Sư phụ hãy Thành Tâm lên núi tìm gặp Thiền Sư..Nếu có duyên kỳ ngộ,đó là may mắn của Môn Phái Vĩnh Xuân...Chúc Môn Phái Vĩnh Xuân đạt được ý nguyện..

6789
16-09-2011, 12:21 PM
1tzrO_FOurI

6789
16-09-2011, 12:25 PM
To thì dễ trúng thôi :D

1iNWN2QCivE&NR=1

OWxlZ52O0rI&feature=related

kymoc
16-09-2011, 01:22 PM
Xem cái clip cuối cùng thấy tội cho Chú Bự thật.To xác chưa chắc đã thắng.Cám ơn ̣̉̃́̉̉̉̉̉̉̉6789.

thi_mich
16-09-2011, 03:28 PM
Em không bao giờ tin thị Mịch có võ, nếu biết thì sợ gì lão Hách? :)

Hầydà...Cái Lỉ piết một mà không piêt hai à ..võ công với bản ngã Lỉ lói cái lào hơn à...??!! :)):))

thi_mich
16-09-2011, 04:03 PM
Túy quyền và những truyền nhân tại Việt Nam

- Trận ác đấu diễn ra vô cùng gay cấn. Chàng trai đại diện cho chính nghĩa bị đối phương tấn công bằng những chiêu thức công phu hủy diệt, sinh mạng như đèn dầu leo lét. Thế nhưng, trong cơn nguy khốn ấy, đại hiệp may mắn được viện trợ khẩn cấp bằng một..."món quà" đặc biệt, ấy là rượu.Nốc ừng ực cả vò rượu lớn, chàng trai rơi vào trạng thái say mèm, chân lảo đảo, mắt lờ đờ. Đối thủ thấy vậy bèn nhào tới tung đòn quyết định.Thế nhưng, lạ thay, quyền cước của hắn chỉ tung vào không khí. Tránh né tài tình, đại hiệp vừa kịp tung ra những chiêu thức hạ gục đối thủ... Đòn thế mà đại hiệp kia sử dụng là gì mà quỷ khốc thần sầu, chuyển nguy thành an như vậy?

Đi tìm "cha đẻ" võ say

Đó là Tuý quyền, cũng là bài võ thường thấy trên phim ảnh của Trung Quốc (khán giả Việt Nam từng biết đến bài quyền này qua bộ phim Hoàng Phi Hồng do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai). Và, cũng chính bởi sự hấp dẫn bài võ này... trên phim mà bấy lâu Túy quyền đã trở thành "đặc sản" của võ học Đại lục, với các lời đồn đoán nửa hư, nửa thực.
Trong quá trình đi tìm chân tuớng bài quyền trứ danh này, điều vô cùng kinh ngạc là ngay tại Việt Nam cũng có Tuý quyền, hiện nó nằm trong tay một vài cao thủ của làng võ Việt Nam.
Tìm hiểu về bài võ độc đáo này, người đầu tiên tôi nghĩ đến là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, bởi có lần tôi thấy ông biểu diễn quyền thuật rất dẻo, có những nét giống những chiêu thức trác tuyệt của Tuý quyền. Thế nhưng, cao thủ Hoa quyền này bảo, môn phái của ông tuy nổi danh với rất nhiều những bài võ có chọn lọc, chỉnh biên từ võ Tàu, nhưng túy quyền thì không.
Rất may là võ sư Tín cũng khẳng định, ở Việt Nam có Túy quyền, nhưng rất ít môn phái sở hữu nó, những cao thủ thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Võ sư giới thiệu cho tôi hai môn phái mà bấy lâu, Túy quyền của họ đã được làng võ Việt Nam thừa nhận.
Theo sự giới thiệu ấy, tôi tìm đến võ sư Băng Sơn, hiệu là Bắc Phong chân nhân, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia. Như nhiều người đã biết, võ sư Băng Sơn ngay từ nhỏ đã theo sư phụ Lý Chấn Hòa, người Trung Quốc, sống tại Việt Nam, Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái Thiếu lâm Phật gia luyện võ. Sau khi Lý sư phụ về nước, ông lại vào Nam bái Thiện Tâm thiền sư Đoàn Tâm Ảnh, môn phái Côn Luân làm thầy. Kế đến, ra Bắc, ông tiếp tục tôi rèn võ công cùng lão võ sư Trần Công, hiệu là Huyền Công Đạo, môn phái Không Động.
Mấy chục năm lăn lộn trên giang hồ, được tiếp cận với nhiều bí kíp, tinh hoa võ học nhưng võ sư Băng Sơn bảo, thứ mà ông thích thú nhất, đó là được học Túy quyền với Lý sư phụ từ khi còn nhỏ. Sau này, cùng với sự tìm tòi nghiên cứu, võ sư Băng Sơn đã nâng tầm Túy quyền của mình lên một cảnh giới cao hơn.

Thế "Bá vương kính tửu"


Thế "Bạch hạc phi thân"



Thế "Thái Bạch túy tửu"


Thế "Ngưỡng thân ẩm tửu"

Võ sư Băng Sơn cho biết, hiện tại ngay cả Trung Quốc vẫn chưa biết ai là người sáng tạo ra Túy quyền. Theo truyền thuyết thì bài võ này bắt nguồn từ trận hỗn chiến của 8 vị tiên trong thần thoại Trung Hoa, bởi thế nó còn có tên là Túy Bát tiên.
Tương truyền, sau khi tu luyện đạt đến trình độ thượng thừa, bát tiên (gồm Chung Ly Quyền, Lam Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Lữ Động Tân, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quải) được Ngọc Hoàng Thượng đế giao cho nhiệm vụ diệt quái trừ yêu, bảo vệ lương dân. Một lần, vượt biển trừ yêu, bởi sóng to nên thuyền của bát tiên bị đánh đắm khiến cả tám vị chìm nghỉm ở giữa biển khơi.
Kính trọng bát tiên, long cung mở tiệc ăn mừng nhân chuyến hội ngộ kỳ duyên đó. Rượu say bí tỉ, với bản tính thích giỡn đùa, quậy phá, bát tiên đã đánh lộn với binh tôm tướng cá, gây náo loạn long cung. Kịch chiến trong lúc say, nhưng với võ công siêu đẳng, bát tiên vẫn thi triển những chiêu thực võ thuật vô cùng đẹp mắt. Sau cùng không muốn màn "siêu quậy" của bát tiên thêm nữa, Long Vương đành phải để bát tiên đi.
Thế nhưng, bởi đó là trận chiến long trời nở đất, nên hình ảnh tám vị tiên say đánh lộn đã in bóng lên trời. Thấy hình ảnh 8 vị tiên đi quyền đẹp mắt, người hạ giới cứ ngó mà học theo. Túy quyền xuất hiện từ dạo đó.
Theo võ sư Băng Sơn, đến bây giờ, tranh, tượng mô phỏng hình ảnh "Bát tiên quá hải" vẫn còn được treo, thờ trong nhiều gia đình Trung Quốc. Trong những bức tranh hay tượng ấy, mỗi vị tiên thể hiện một thế đứng đặc biệt của mình, tượng trưng cho một thế võ của Túy quyền.
Ngoài Bát tiên, trong đời sống văn học, nghệ thuật của Trung Hoa cũng xuất hiên nhiều nhân vật mà cuộc đời đã thành một biểu tượng cho tinh thần trượng nghĩa, lấy chính trực, quân tử để chiến thắng bạo tàn, dối trá. Theo võ sư chưởng môn Võ lâm Phật gia thì họ đều có bí kíp... võ say và cách thức thi triển công phu độc đáo của họ đã thành tên của một số bài Tuý quyền sau này.
Người đam mê văn học, võ thuật không thể không biết tới những trận say nghiêng ngả của hành giả Võ Tòng, một nhân vật giàu cá tính trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am. Những trận say quên trời đất của vị hành giả ấy đã là nguồn cảm hứng để võ lâm sáng tạo một loạt những chiêu thức tuý quyền có tên là Võ Tòng tuý tửu. Trong số ấy tiêu biểu có trận đả hổ tại đồi Cảnh Dương, say đả Tưởng Môn Thần, đại náo Phi Vân phố...
Cũng trong tiểu thuyết lừng danh ấy, một "ông tổ" của tuý quyền đã được Thi Nại Am, sau này là phim ảnh Trung Quốc mô tả vô cùng rõ nét, đó là nhà sư tính tính lỗ mãng nhưng rất đáng yêu Lỗ Trí Thâm. Thật hiếm khi thấy nhân vật này xuất hiện mà không có nậm rượu bên mình. Bởi luôn sống trong tình trạng... say xỉn nên hoà thượng này đã để lại nhiều trận đánh kinh hồn bạt vía. Trong số những trận đánh bởi ma men điều khiển ấy hẳn nhiều người không thể nào quên trận "tuý đả sơn môn", say giao đấu với cả trăm vị hoà thượng tại chùa trên Ngũ Đài Sơn.
Khi nhắc đến môn võ độc đáo này, theo võ sư Băng Sơn thì không thể không nhắc tới một "ông tổ" nữa đó là... Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Với trận say nghiêng ngả này, lão Tôn đã một mình đại náo thiên đình bằng những động tác võ thuật vô cùng uy lực. Bởi trận chiến làm thiên binh thiên tướng thất điên bát đảo này, chúa tể của Hoa Quả sơn đã là nguồn cảm hứng để làng võ sáng tác ra những chiêu thức ảo diệu trong Tuý hầu quyền.

Tuyệt kỹ của đệ tử... Lưu Linh?

Trên phim ảnh, thường thì những người thi triển tuý quyền đều ở trạng thái say bí tỉ, không phân biệt thế nào là thật giả, đúng sai. Mắt thì lờ đờ, điệu bộ thì liêu xiêu, ngật ngưỡng. Rượu càng nhiều thì võ càng thăng hoa, uy lực.
Phải chăng, muốn sử dụng được Tuý quyền thì người luyện võ phải luyện thêm cho mình khả năng... uống rượu?
Trao đổi điều này với võ sư Băng Sơn, ông khẳng định: Không có chuyện rượu vào... võ ra như trên phim. Cốt lõi của tuý quyền là hình say chứ ý không say, bước say chứ tâm hoàn toàn tỉnh táo. Cụ thể hơn, Tuý quyền là bài võ có quyền pháp bắt chước hình ảnh của người say chứ không phải thực say. Hình ảnh người say trên phim ảnh đó chỉ có tính chất nghệ thuật, hư cấu, những nhà làm phim muốn khắc họa một cách ẩn ý triết lý cốt lõi của bài võ độc đáo này.

Triết lý đó là dù thân thể có say đến mấy thì tâm người luyện võ vẫn phải tỉnh táo. Còn thực tế, rượu đã say mèm, đứng còn không vững thì đừng nói chuyện... đánh đấm.

Tuý quyền tiềm ẩn sức mạnh trong các thế đứng và vồ. Khi chiến đấu, người võ sĩ phải vận dụng, phối hợp nhuần nhuyễn nhãn pháp (mắt), thủ pháp (đòn tay), cước pháp (đòn chân) và thân pháp (di chuyển, thân người võ sĩ luôn ở trạng thái khật khưỡng, hoặc uốn từ đông sang tây, vươn ngẩng về phía trước, hay ngửa gập ra phía sau).

Túy quyền kết hợp nhiều động tác tay nhưng ấn tượng và đặc trưng nhất vẫn là động tác nâng chén rượu mời. Còn thân pháp thì chú trọng đến thế ngã, lăn lộn, tung người. Trong tất các các thế này đều chứa đựng cả thế công và thủ. Cước pháp thì đặc trưng là những "cú đá người què" như đá móc, nằm đá...

Tuý quyền "madein Việt Nam"

Cũng nhờ sự giới thiệu của võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng Hoa quyền mà tôi đã được tận mắt chiêm ngưỡng nét hoa mĩ, hài hước ở những chiêu thức Túy quyền do chính tác giả của bài võ ấy, lão võ sư Trần Hưng Quang, Chưởng môn phái Bình Định Gia, biểu diễn
Lão võ sư Trần Hưng Quang (từng đóng vai Ốc trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) tuổi đã ngoại bát tuần nhưng còn minh mẫn lắm. Quê gốc ở đất võ Bình Định, sớm được các danh sư nổi tiếng truyền thụ võ công nên khi ra Hà Nội, ông đã làm rạng danh võ phái Bình Định Gia của mình.

Hoà cùng các bài võ đã đi vào truyền thống của Bình Định, mới đây, lão võ sư còn "trình làng" những chiêu thức võ công mới, do ông tự sáng tác có tên chung là Tuý quyền, được làng võ vô cùng hâm mộ.

Lão võ sư cho biết, các chiêu thức trong Tuý quyền của môn phái ông không phỏng theo bất cứ môn phái nào, đó là kết quả của cả đời lăn lộn, nghiên cứu, nghiền ngẫm, đúc kết của riêng cá nhân ông. Bởi tuổi đã cao, chân tay đã yếu nên các động tác quăng quật, tung người, lăn lộn của lão võ sư không còn lanh lẹ nữa, nhưng khuôn mặt, điệu bộ say thì lão võ sư "diễn" đạt vô cùng.

Lão võ sư cho biết, tập Tuý quyền đã vô cùng khó, đạt tới đỉnh giới cao nhất của Tuý quyền lại càng khó hơn. Dù Tuý quyền đã chính thức là "tài sản" của môn phái nhưng cho đến giờ chỉ có 2 môn đồ của võ sư có thể biểu diễn được ở trình độ cao.

Trong hai môn đệ ấy, người từng biểu diễn Tuý quyền và dành huy chương vàng ở Hội diễn võ thuật cổ truyền Hà Nội, do sức khoẻ yếu đã từ giã con đường võ thuật. Thế nên, theo lão võ sư, Tuý quyền của Bình Định Gia vẫn chưa tìm thấy một truyền nhân thực thụ.

Tuý quyền của Bình Định Gia có 50 thế đánh, nhưng để bắt đầu luyện tập thì người luyện võ phải có cơ bản là 3 năm tôi rèn võ thuật trước đó. Bài đầu tiên của Tuý quyền là tập mắt, bởi ánh mắt là "mồi nhử", khiến đối phương tưởng địch thủ của mình... say thật. Cứ đứng trước gương mà luyện, luyện đến khi nào ánh mắt lờ đờ, nhìn như không nhìn, liếc như không liếc, xéo như không xéo mới đạt.

Tiếp đến là tập nét mặt. Sắc mặt người say có nhiều điểm khác so với người tỉnh táo. Lão võ sư bảo, chỉ nhìn sắc mặt là có thể đoán ngay kẻ đối diện mình say hay tỉnh, quắc cần câu hay chỉ mới lây phây. Kế đến là... âm thanh. (Chi tiết này có lẽ chỉ có Tuý quyền của Bình Định Gia mới có). Đó là những tiếng ợ, nấc, thậm chí cả tiếng... "cho chó ăn chè".

Bởi là bài võ dựa vào địa hình, địa vật để chiến đấu nên sau những bài tập về thần thái là những bài tập nhào lộn, quăng quật. Để thuần thục bài tập này, người luyện võ phải chấp nhận những vết bầm dập bởi những cú va chạm do... ngã. Bài tập này chỉ hoàn thành khi người luyện ngã chơi mà như ngã thật, nhào lộn, bật, bốc thân nhẹ nhàng tựa lá vàng bay.

Sau những bài tập nền tảng trên thì chiêu thức Tuý quyền mới được lão võ sư truyền dạy. Lão võ sư bảo, nếu có cơ bản võ thuật, học Tuý quyền thì chỉ mất vài tháng, thế nhưng, để thành cao thủ có lẽ phải là người có cơ duyên. Bằng chứng là nhiều môn đệ của lão võ sư dù hấp thụ rất nhanh những bài võ khác nhưng Tuý quyền tập mãi và vẫn chẳng thành.

Phái Võ lâm Phật gia của võ sư Băng Sơn cũng chung "cảnh ngộ" như võ phái của lão võ sư Trần Hưng Quang. Dù võ say (Tuý quyền vân du) đã là bảo vật của môn phái, đã được nhiều người luyện võ ngưỡng mộ, nhưng đến giờ, những người học được tuý quyền vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Tuý quyền lợi hại như... phim?

Theo võ sư Băng Sơn, làng võ Việt Nam, ngoài môn phái của ông và Bình Định Gia thì võ say còn xuất hiện ở các môn phái như Thiếu lâm Châu gia ở TP.HCM với những bài như Tuý hầu quyền, Tuý hầu côn. Võ phái Hồng Gia quyền ở Đà Nẵng với bài Bát tiên tuý tửu và dòng Phan gia võ học ở Quảng Nam với bài Tuý quyền, Tuý nhân kiếm...

Tuy thế, theo võ sư Băng Sơn, từ khi xuất hiện, võ say chưa thực sự được "thử lửa" bởi làng võ chưa từng chứng kiến cuộc thư hùng nào của những cao thủ. Sở dĩ như vậy là bởi võ say chỉ được sử dụng khi những cao thủ uyên thông bài võ này gặp những đối thủ dưới tầm, vừa đánh vừa... trêu. Còn khi đối đầu với những đối phương ngang tầm chẳng ai sử dụng võ say cả, bởi có nhiều lối đánh khác giải quyết trận chiến nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Và, theo võ sư Băng Sơn, nếu có phải vận dụng đến bài võ ảo diệu này thì người ta cũng chỉ vận dụng chiêu thức, đòn thế để tấn công đối thủ trong chớp nhoáng. Các động tác dật dờ, liêu xiêu, bước thấp bước cao của người say cũng sẽ bị lược bỏ cho... đỡ mất thời giờ.

Tuy thế, đã vài lần thử dùng võ say trong các cuộc đánh giao lưu với đồng đạo võ lâm, võ sư Băng Sơn thấy uy lực của võ say là vô cùng lợi hại, rất phù hợp cho những trận đánh ở tư thế gần.

Vui xuân, nhiều người quá chén. Thế nhưng, khi ấy đừng ai có dại mà biểu diễn "võ say" bởi "võ" ấy chỉ nhận cho mình phần họa mà thôi ( S/T )

6789
16-09-2011, 04:09 PM
Hầydà...Cái Lỉ piết một mà không piêt hai à ..võ công với bản ngã Lỉ lói cái lào hơn à...??!! :)):))

Hóa ra là lỉ cố tình, hây dà, pây giờ ngổ mới pít à ~X( :))

6789
16-09-2011, 04:35 PM
V8ud1sAfFKQ

kymoc
17-09-2011, 09:32 AM
Ý tưởng của Kịch bản không cũ, nhưng vẫn làm cho mình cười lăn.Không biết diễn viên nghiệp dư này là ai.

6789
17-09-2011, 09:52 AM
Không biết gặp gỡ thật sự với Lí Tiểu Long và Lí Liên Kiệt thằng này còn răng mà ăn táo không nữa =))

thi_mich
17-09-2011, 10:02 AM
,Côn Tam Khúc,Song Xích,Võ Đường Bình Định Gia-Bắc Ninh,Gala Ngôi Sao Võ Thuật



H2uw1f99X8E

thi_mich
17-09-2011, 10:15 AM
UIWSlsBnqCg

thi_mich
17-09-2011, 10:45 AM
Túy Quyền


c8uvCpkMn04

thi_mich
17-09-2011, 10:57 AM
Bạch Hạc Quyền


t-ykn8U2-Gc

thi_mich
17-09-2011, 11:05 AM
Đường Lang Quyền (Bọ Ngựa )

SF47b77twdE

thi_mich
17-09-2011, 11:11 AM
Tuyêt kỹ


2XoXT9H7fNk

thi_mich
17-09-2011, 11:23 AM
58Y-Ma-_IuA

6789
17-09-2011, 11:29 AM
Quả chạy trên mặt nước hay quá =D>, còn quả người bay kia thì bịp bợm 100%, lúc trước cũng xem 1 clip ông sư ngồi cao tít, hóa ra cái cọc ở bên cạnh là mấu chốt vấn đề (thằng cò mồi kia còn cố tình làm hàng làm họ sợ quá ;)))

6789
17-09-2011, 01:28 PM
Đây rồi, mời các bác xem link này :D :

Video: Có hay không chuyện người đàn ông ngồi trên... không (http://www.eva.vn/clip-eva/video-co-hay-khong-chuyen-nguoi-dan-ong-ngoi-tren-khong-khi-c157a50071.html)

kymoc
17-09-2011, 03:31 PM
Nói tóm lại là cũng vì cơm áo gạo tiền nên nhiều người tìm đủ mọi cách để lòe thiên hạ, nhưng xem ra thế cũng còn lịch sự chán.

tranbinh
18-09-2011, 09:53 AM
HỔ QUYỀN

(Nhân lục thập hoa giáp, thân tặng Những Con Cọp Canh Dần 1950)
Võ sư Trương Văn Bảo
Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam

Tượng hình quyền là nội dung trác tuyệt tạo nên nét đẹp văn hoá võ thuật cổ truyền. Những bậc chân sư tiền bối qua nhiều thế hệ đã dày công nghiên cứu các thế tấn công, phòng thủ, phản công, khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh sinh tồn của nhiều loài động vật mà tạo thành những bài võ truyền thống nổi tiếng, trong đó có Hổ quyền.
Theo nghiên cứu về động vật, Hổ là loài thú quý hiếm, có tên khoa học là Panthera Tigris, thuộc họ mèo (Felidae), đầu lớn, tròn, cổ ngắn, tai nhỏ, bốn chân to khoẻ, móng sắc và nhọn, nhanh nhẹn, có sức mạnh. Một con hổ trung bình nặng 150 - 200kg, đặc biệt có thể nặng đến 300kg, thân dài khoảng 1,5 - 2m, đưôi dài khoảng 1m. Đuôi hổ giữ vai trò quan trọng trong các động tác vồ, nhảy qua trái hoặc phải, xoay trở trước, sau.... Da lưng hổ màu vàng, có vằn đen, phía bụng và trong chân có lông màu trắng.
Hổ thường sống một mình ở rừng già và những vùng rừng núi có nhiều cỏ tranh. Chỗ ở của hổ không cố định, ban ngày nằm phục ở một chỗ, ban đêm mới hoạt động săn mồi. Tại các miền rừng núi Việt Nam không mấy nơi không có hổ nhưng nổi tiếng có hổ Hoà Bình, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên và vùng rừng núi Trường Sơn Trung bộ. Mỗi lứa hổ sinh từ 2 - 4 con, con sống với mẹ 1 - 2 năm. Hổ còn có tên gọi khác là cọp, hùm…
Hổ quyền là tượng hình quyền và là một võ kỳ của Võ thuật cổ truyền, yếu chỉ quyền pháp nhằm luyện gân cốt, chỉ lực cùng sự vững chãi, nhanh nhẹn, phát huy nội lực, để có sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt khi phát kình nội lực, lúc phát nổi ngoại công. Hổ quyền mô phỏng động tác, tư thế tấn công, phòng thủ của loài hổ trong đời sống rừng xanh hoang dã. Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm bởi tính cách uy nghi, hùng dũng. Hổ chỉ tấn công trong trường hợp tự vệ và khả năng chiến đấu của hổ rất cao, đặc biệt là hổ trảo.

Có nhiều chiêu thức chiến đấu tượng hình đặc thù mang tên loài hổ để diễn tả các thế đánh trong Võ thuật cổ truyền ở các bài quyền truyền thống: Hiện long tàng hổ, Nhị hổ tiềm tung, Mãnh hổ xuất sơn, Hồi đầu hổ vĩ, Bạch hổ khởi động, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm, Hổ bằng báo lang, Mãnh hổ phục địa, Ngạ hổ tha dương, Sơn trung cầm hổ, Lãn hổ thân yêu, Lão hổ thượng sơn, Bạch hổ xuất động…
Theo quan niệm dân gian Á Đông, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc, hổ là một hình ảnh uy nghi, đầy ấn tượng. Hổ tượng trưng cho sức mạnh và dân gian cũng đã thần thánh hóa hổ, cho hổ một sứ mạng thiêng liêng có khả năng diệt trừ được ma qủy. Có hình hổ trấn giữ ở cửa thì tà ma không dám thâm nhập. Bởi vậy hình tượng hổ đã trở thành phổ biến trong đời sống văn học, nghệ thuật dân gian, đặc biệt hổ đã được vẽ thành tranh và tạc thành tượng để thờ ở các đền, đình, miếu, điện...

Hổ có vị trí chủ đạo trong Võ thuật cổ truyền, có nhiều bài quyền về hổ. Trong Ngũ hình quyền thì hổ ở vị trí thứ hai: Long, Hổ, Xà, Hạc, Báo. Bài Ngũ Hổ Cứ Sơn tả về 5 con hổ. Ngũ hổ là Hắc hổ, Thanh hổ, Xích hổ, Hoàng hổ, Bạch hổ. Màu sắc và phương vị trấn giữ của Ngũ hổ cũng theo ngũ hành mà sắp đặt: Hắc Hổ tướng quân màu đen, trấn nhậm ở phương Bắc, thuộc Thuỷ. Thanh Hổ tướng quân màu xanh, trấn nhậm ở phương Đông, thuộc Mộc. Xích Hổ tướng quân màu đỏ, trấn nhậm ở phương Nam, thuộc Hoả. Hoàng Hổ tướng quân màu vàng, trấn nhậm ở Trung Ương Tứ Quý, thuộc Thổ. Bạch Hổ tướng quân màu trắng, trấn nhậm ở phương Tây, thuộc Kim.
Hổ gần gũi với đời sống con người nên có nhiều danh từ, thành ngữ mang tên hổ: Tướng giỏi gọi là Hổ tướng; ấn tín của quan võ gọi là Hổ phù; nơi ở và làm việc của quan võ chỉ huy quân sự ngày xưa có treo bức trướng thêu hình hổ gọi là Hổ trướng; một số loài rắn độc qúy hiếm có tên hổ như rắn Hổ trâu, Hổ lửa, Hổ mang… Các thành ngữ: Hổ phụ sinh hổ tử; Hổ dữ chẳng cắn con; Hổ chết về da, người ta chết về tiếng…
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Hổ Quyền là tên gọi một đấu trường, trong quần thể di tích cố đô Huế, tọa lạc tại thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế, là chuồng nuôi hổ và cũng là đấu trường độc đáo mà có thể không hề có ở bất cứ nơi đâu trên thế giới.
Dưới triều Nguyễn, chính nơi đây đã diễn ra những cuộc tử chiến vô cùng ác liệt giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí, tiêu khiển cho vua, quan và dân chúng. Trong cuộc quyết đấu đầu tiên giữa voi và hổ năm 1750 tại cồn Dã Viên trên sông Hương, 40 con voi đã giết chết 18 con hổ trước sự chứng kiến của chúa Nguyễn Phúc Khoát và triều thần ngồi xem trên 12 chiếc thuyền. Đây có lẽ là trận đấu kinh hoàng, khủng khiếp và đẫm máu nhất trong lịch sử. Những trận tử chiến giữa voi và hổ thường mỗi năm tổ chức một lần. Trước mỗi trận đấu, hổ đều bị cắt nanh, bẻ vuốt, và buộc chặt vào cột cho nên voi luôn giết chết và chà nát hổ, tuy nhiên tai nạn đôi khi vẫn xảy ra vì hổ chiến đấu vô cùng dũng mãnh.
Sau này, để bảo đảm an toàn, năm Canh Dần 1830, vua Minh Mạng đã hạ chiếu cho xây dựng một đấu trường lớn gần đồi Long Thọ phía Tây kinh thành Huế lấy tên là “Hổ quyền”.
Con người thích bày trò huyết chiến để tiêu khiển, có nhẫn tâm chăng? Voi hổ tử chiến để làm vật tế thần và mua vui cho nhân thế; trước trận đấu hổ bị cắt nanh, bẻ vuốt, buộc vào cột; như vậy là bức tử, có bất công chăng?

hung vi
18-09-2011, 10:15 AM
Bài viết về Hổ Quyền rất hay...@};-
Sao ko có tư liệu về Sư Tử quyền nhỉ!!
Chỉ nghe nói có môn võ Sư Tử Hống,nếu ai biết cho thông tin nhé...ok~o)~o)~o)

kymoc
18-09-2011, 10:21 AM
Hệ thống ngũ hình quyền của các dòng phái Vịnh Xuân Quyền Việt Nam bao gồm 6 bài:

Ngũ hình quyền tổng hợp: bài được chia thành 5 phần tách biệt ứng với 5 con thú thiêng, bắt đầu từ các chiêu thức tay xà, tiến tới tay long, hổ, báo và kết thúc là tay hạc. Các thế tấn và bộ pháp trong bài hỗ trợ cho thủ pháp. Đây là bài quyền đặc biệt phong phú về chiêu thức, động tác. Phong thái kết hợp cả nhu nhuyễn, chậm rãi đến tốc lực, dương cương.
Long hình quyền: Long quyền thuộc thổ, lấy tỳ làm chủ, luyện thần. đặc trưng bởi những thế chộp, vồ (cầm nã thủ), sử dụng bàn tay với các ngón tay xòe mở rộng trong những chiêu thức nhấn mạnh nguyên lý vòng tròn, các chiêu thức thường được diễn thế lặp lại 3 lần.
Hổ hình quyền: Hổ quyền thuộc kim, chủ phế, dùng để luyện cơ bắp. Bài không có đòn chân (cước pháp). Chủ luyện đòn đấm thẳng dẫn đạo (tay hổ), đòn đánh bằng lưng bàn tay kết hợp với bật chỏ ngang. Các đòn thế thường đi theo đường thẳng, với tốc độ cao và uy lực cương mãnh không thích hợp cho nữ giới.
Báo hình quyền: Báo quyền hành mộc, chủ can, luyện gân. Bài sử dụng tấn pháp linh hoạt, nhanh nhẹn phối hợp với những đòn tấn công chớp nhoáng bằng các khớp xương giữa của đốt ngón tay gọi là Báo Chùy (tay báo) dùng để chặn đòn đối phương hay đánh bật vào huyệt thái dương, thường sử dụng hai tay tấn công đồng thời kết hợp với cước pháp.
Xà hình quyền: Xà quyền thuộc hành thủy, chủ thận, luyện khí (tiên thiên). Rắn không chân nên bài Xà quyền không có đòn cước. Bài chủ luyện sự nhu nhuyễn, linh hoạt của những ngón tay (tay xà) uốn éo với nguyên tắc dùng eo xoay để phát lực, thường áp dụng những thế tấn rất thấp và có những thế đánh dạng hồi mã thương rất độc thủ. Bài còn được luyện quỳ ngồi nằm trên mặt đất để trở thành bài Xà địa quyền.
Hạc hình quyền: Hạc quyền thuộc hành hỏa, chủ tâm, dùng để luyện tinh. Bài sử dụng những đòn đánh bằng cạnh tay (tay hạc) và cổ tay gọi là Hạc Đỉnh thủ và Hạc Câu thủ hoặc mỏ hạc gọi là Hạc Trủy thủ trong những tư thế dang mở rộng cánh với những đòn đánh chỏ kết hợp với tấn chéo, tấn một chân (hạc tấn). Nhiều môn đồ Vịnh Xuân quyền đánh giá đây là bài quyền có phong cách hào sảng và đẹp nhất trong các bài ngũ hình quyền.

tranbinh
18-09-2011, 10:29 AM
Tặng Hung vi

Fo5lM0iyuKg

tranbinh
18-09-2011, 11:31 AM
Nguyễn Lữ sáng lập Hùng Kê quyền như thế nào?


- Năm 2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hùng Kê quyền tạo nên một tiếng vang lớn trước sự chứng kiến và tham dự của hơn 70 môn phái võ thuật trên khắp thế giới. Người có công lớn nhất trong việc giữ gìn, truyền bá môn võ truyền thống độc đáo này chính là lão võ sư Ngô Bông (Quảng Ngãi) - người được giới võ học công nhận là truyền nhân chính hiệu của bài quyền...

Hùng Kê quyền (nói nôm na là võ gà), bài quyền với những chiêu thức được hình thành từ thế giới gà chọi. Tương truyền rằng người sáng lập nên Hùng Kê quyền chính là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, người em út trong nhóm Tây Sơn Tam Kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ)...

Sư tổ Hùng Kê quyền

Theo sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao: "Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, tính nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông theo học văn nhiều hơn võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên đề môn miên quyền... Nguyễn Lữ được thầy giáo Hiến (thầy Trương Văn Hiến, một bậc trượng phu văn võ song toàn, từ xứ Nghệ An lưu lạc vào đất An Thái, nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, Bình Định) chân truyền cho môn miên quyền...

Đất nước có chiến tranh thì việc tu luyện võ học, nâng cao khả năng phòng vệ để bảo vệ biên cương luôn là nhu cầu bức thiết và được đề cao. Theo yêu cầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lúc bấy giờ, phải làm sao trong thời gian ngắn huấn luyện cho các nghĩa quân Tây Sơn tinh thông võ nghệ theo phương châm: Yếu có thể đánh mạnh/Thấp có thể đánh cao/Nhỏ có thể đánh lớn/Ít có thể đánh nhiều. Và yêu cầu bức thiết đó đã khiến Nguyễn Lữ không thể thờ ơ.
Chuyện kể rằng, khi 3 anh em nhà Tây Sơn bí mật chiêu mộ anh hùng hào kiệt về tụ nghĩa, một lần nọ lúc xem 2 chú gà chọi nhau vào dịp Tết, trong đó có một con nhỏ hơn đối thủ nhưng biết vận dụng yếu thế "nhỏ con" của mình để triệt hạ đối phương.

Bằng thiên tư võ thuật của mình, Nguyễn Lữ đã thị sát, nghiền ngẫm, nghiên cứu các thế đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cái thế chống đỡ của con gà nhỏ thường chui luồn, xỏ vỉa để rồi tạo ra các thế lặn hụp, tránh né đến phản công. Cuối cùng ông đã chắt lọc, sáng tạo ra bài quyền mang tên Hùng Kê quyền.

Cùng thời gian này, người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ vang danh với môn Nghiêm thương, Tứ Môn kiếm, Tứ Môn côn - những môn võ sử dụng binh khí rất đặc thù. Còn nữ tướng Bùi Thị Xuân lại nổi tiếng với bộ Tuyết Hoa Song kiếm và Song Phượng kiếm...

Oai phong võ gà

Ngay sau khi ra đời, Hùng Kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu quả của nó. Sự lợi hại của Hùng Kê quyền đã được các anh hùng hào kiệt trong giới võ lâm đương thời nể phục. Tương truyền, một võ sư Thiếu Lâm muốn khảo chừng uy lực của Hùng Kê quyền đã tìm đến Tổ sư bài quyền này khích bác: Đến như hổ báo kia đã hùng chưa mà kê dám xưng hùng?
Khi ấy Nguyễn Nhạc vốn đang chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà có rất nhiều hào kiệt, không muốn mất hòa khí đang gây dựng nên bảo em (Nguyễn Lữ) cố ý tránh né, nhưng vị võ sư nọ vẫn một mực muốn so tài. Cực chẳng đã, cuối cùng Nguyễn Lữ đành nhận lời giao đấu.

Vào trận, trường quyền của vị võ sư như giông bão liên hồi phủ xuống nhưng Nguyễn Lữ vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại nhanh nhẹn trước một con gà lớn hung hãn nhưng chậm chạp.

Suốt 1 canh giờ, quyền của vị võ sư không đụng được vào áo của Nguyễn Lữ. Vào khoảnh khắc khi đối thủ lộ sơ hở, Nguyễn Lữ với một chiêu duy nhất, ông đã làm cho đối phương bị "nốc ao". Đến lúc đó, kẻ thách đấu mới hoàn toàn tâm phục, khẩu phục...

Cuối tháng 9/2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống tổ chức tại Chungji (Hàn Quốc), danh trấn giang hồ của Hùng Kê quyền một lần nữa lại được khẳng định qua sự biểu diễn điêu luyện của lão võ sư Ngô Bông - lúc ấy đã 76 tuổi - trước sự tham dự và chứng kiến của hơn 70 môn phái võ thuật toàn cầu ( S/T )

tranbinh
18-09-2011, 11:35 AM
>> Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"

Người có khuôn mặt của một võ tướng

Vài năm trước, trên một tờ báo của ngành Công an có đăng câu chuyện về một võ sư dũng cảm, dùng võ thuật khống chế một tên côn đồ nguy hiểm khi hắn hung hãn dùng dao tấn công dân lành.

Bài báo viết: “Hôm ấy, khi ông đang ngồi trò chuyện với một người bạn ở trước của nhà, thì không biết từ đâu một tên du đãng bất ngờ xuất hiện. Không biết có mối thù hận từ trước hay do nhầm lẫn mà tên này đã thình lình túm ngay tóc người bạn, giật ngược ra phía sau rồi như thú hoang, dùng dao nhắm vào cổ nạn nhân chém tới. Trước diễn biến bất ngờ ấy, vị võ sư ngồi đối diện đã bật dậy và bằng một động tác võ thuật điêu luyện, ông đánh văng hung khí trên tay của tên sát nhân, đồng thời, nhanh chóng khống chế, bắt giữ kẻ manh động ấy”.

Người hùng năm đó chính là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, đệ tử chân truyền của lão võ sư nổi tiếng Hoàng Thanh Vân (Chưởng môn đời thứ 2 của Hoa quyền).
ũ Quang Tín (sinh năm 1952) mắt sắc, mày rậm, tóc búi củ hành, bộ râu thì vô cùng ấn tượng: Rậm và được tỉa tót công phu như để tôn khuôn mặt thêm phần... dữ dằn, chẳng khác nào một võ tướng thời Trung cổ. Tuy thế, khi tiếp xúc lại thấy ông khác hẳn với “phong thái” bề ngoài: Gần gũi, thân thiện, thậm chí có phần e dè, khiêm tốn.

Thế nhưng, sự kín kẽ trong cách ăn nói ấy vẫn chẳng làm cuộc nói chuyện giữa tôi và ông trong căn gác nhỏ ở khu Thanh Nhàn - Hà Nội, vốn đông đúc dân cư, kém phần hấp dẫn. Võ thuật, dường như với ông, đó là lẽ sống duy nhất của mình. Ông bảo: May mắn lớn nhất của đời mình là được bái võ sư Hoàng Thanh Vân làm sư phụ.

Cuộc bái sư kỳ lạ

Ông kể, nghe tiếng tăm của lão võ sư, chưa một lần giáp mặt nên ông cứ nghĩ, lão võ sư là một người to lớn, khuôn mặt thì tinh anh, phong thái thì vô cùng ung dung, thanh thoát, khác xa với những kẻ... “phàm trần”. Thế nhưng, buổi đầu tiên diện kiến, thì thần tượng trong đầu ấy của ông đã... thay đổi hoàn toàn.

Lão võ sư Hoàng Thanh Vân là người nhỏ bé và trông bộ dạng thì rất... cù lần. Tuy thế, đã đến nơi thì ông vẫn ngỏ lời xin theo học. Đồng ý nhận ông làm đệ tử, nhưng trong năm đầu tiên, về võ thuật, sư phụ Hoàng Thanh Vân tuyệt nhiên không đả động gì đến ông.

Tới võ đường, lão võ sư chỉ dạy ông cách thức bốc thuốc chữa bệnh và thực hành ngay việc đó - chữa bệnh cho mọi người quanh vùng. Trong khi ấy, các sư huynh thì được lão võ sư tận tình chỉ bảo khiến ông rất đỗi tủi thân. Thi thoảng rảnh việc, thấy ông ngồi một mình tư lự, lão võ sư vời ông đến nhưng không phải để dạy võ công mà... đọc thơ cho ông nghe!

Buồn. Chán. Nản. Thấy biểu hiện ấy của ông, lão võ sư chỉ liếc mắt, rồi mủm mỉm cười. Mãi hơn 1 năm sau, một sớm, đến võ đường, đang chực bốc thuốc chữa bệnh thì ông bất ngờ được lão võ sư gọi lại và bảo: “Con theo ta cũng đã lâu, ta biết, con là người kiên định! Đức ấy, học võ thì quý vô cùng. Từ nay ta sẽ đích thân dạy võ cho con!”.

Nghe sư phụ mình nói vậy, ông mừng vui khôn xiết. Thế nhưng, nỗi niềm rạng rỡ ấy bỗng chốc hoá thành sự lo lắng khi sư phụ ông tiếp lời: “Ta để con vào lớp của các sư huynh của con. Con phải cố mà theo kịp họ. Nhược bằng không thì ta cũng chẳng biết phải giáo dưỡng con cách nào cho phải nữa?!”.

Nhắm mắt... vẫn nhìn thấy sự chuyển động của đối thủ

Bắt đầu từ hôm đó, ông đã có những tháng ngày theo đuổi nghiệp võ vô cùng khắc nghiệt. Các sư huynh ông đa phần là những người đã theo thầy rèn luyện được vài năm và ai cũng như hộ pháp. Bởi thế, sau mỗi buổi tập, về nhà là ông thấy toàn thân mình đầy vết bầm dập bởi bị... dính đòn.

Hoa quyền có phần cơ bản là công phu rèn luyện thập hình gồm thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần. Các môn sinh của môn phái chỉ được tiếp cận đến quyền thuật khi đã “chín” ở giai đoạn “đào tạo cơ bản”. Giai đoạn này, môn sinh phải khổ luyện mất những 3 năm, thậm chí lâu hơn. Khi đã thông thạo thập hình, môn sinh mới được truyền thụ 18 bài Hoa quyền cùng các loại binh khí như kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, thiết phiến, song phủ, song chuỳ...

Thời gian thấm thoắt trôi, với sự lanh lẹ vốn có, khả năng hấp thụ công phu của ông đã khiến Hoàng sư phụ vô cùng mãn nguyện. Võ sư Vũ Quang Tín bảo, người tập Hoa quyền được gọi là thành công chỉ khi phối hợp được đồng nhất Thân, Thủ, Bộ. Khi ấy, người luyện võ dường như rơi vào “trạng thái” tự do, có thể thích ứng linh hoạt từng tình huống chiến đấu cụ thể. Và, mỗi hình thức thích ứng ấy đều là những đòn thế vô cùng lợi hại, có thể hạ gục đối phương ngay lần “tiếp xúc” đầu tiên.

Theo Hoàng sư phụ được hơn 20 năm, khi công phu đã đạt tới trình độ xuất kỳ bất ý (đòn đánh ra như ý muốn, có thể nhắm mắt, nghe được chuyển động của đối phương). Năm 1993, hai thầy trò phải tạm chia tay. Hoàng sư phụ sang Nga dạy võ. Sống ở xứ lạnh lâu ngày thành quen, lão võ sư Hoàng Thanh Vân đã định cư luôn ở đó.


Võ sư Vũ Quang Tín

Một đòn... “chết bảy”

Có lẽ, trong số các võ sư mà tôi đã gặp, thì võ sư Vũ Quang Tín là người phải “cọ xát” quyền thuật nhiều nhất trong hành trình lập nghiệp của mình. Điều này đã được võ lâm đồng đạo xác nhận.

Lần ấy, ông đến thăm một anh bạn cũng luyện võ ở trên phố Trần Quốc Toản. Bởi cuộc viếng thăm không báo trước nên khi vào nhà, ông bất ngờ khi thấy nhà bạn mình lố nhố kẻ đứng, người ngồi. Thì ra, hôm đó, có một toán võ sĩ học công phu ở nước ngoài về, muốn vào so tài cao thấp cùng bạn ông.

Thấy một người đàn ông thấp bé xuất hiện, một gã trong đám bảo, ông nên ngồi vào góc giường, nếu không muốn vạ lây bởi sắp có đánh nhau to. Điệu bộ hống hách của đám võ sĩ ấy khiến ông khó chịu, nhưng nghĩ chẳng phải chuyện của mình, ông đành... ngoan ngoãn ngồi vào nơi mà họ đã “tận tình” chỉ bảo.

Tuy cuộc đấu chưa diễn ra nhưng quan sát, thấy sắc mặt của bạn mình... không được tốt, ông đoán biết, bạn mình đã có phần e ngại. Không tự tin thì khi thử tài chắc chắn chuốc lấy thất bại nên ông đã đứng dậy tham gia: “Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên trao đổi võ thuật thôi. Như vậy thì cũng đủ để rạch ròi cao thấp!”. “Không đánh hết lực thì làm sao phân biệt được! Phải đánh thẳng tay!”. Một gã trong toán “khách mời” quả quyết và cả bọn đã đồng thanh hưởng ứng theo như muốn “ăn tươi nuốt sống” chủ nhà.

Trước tình thế ấy, với sự nao núng hiển hiện trên mặt bạn, nghĩ bạn mình không phải là đối thủ của toán người lực lưỡng trên, ông đã quyết định đứng ra tỉ thí thay bạn. Trước quyết định của ông, toán người trên chỉ cười khẩy nhưng họ vẫn gật đầu chấp thuận. Có lẽ, họ đã nghĩ, tạng người như ông thì chẳng được mấy hiệp. Thế nhưng, phòng trường hợp “ngoạ hổ tàng long”, họ vẫn cử một người cao to nhất ra ứng đấu.

Chẳng cần nhiều, chỉ một lần vào đòn, kẻ kiêu ngạo đã bị người đàn ông thấp bé đánh bật ra góc sân, phải hồi lâu mới loay hoay gượng dậy. Sau cú đòn ấy, gã ta đã chắp tay xin thua rồi đứng dạt ra phía sau. Vẫn đứng nguyên vị trí đó, ông ra hiệu cho người khác vào sới.

Thế nhưng, chứng kiến đòn đánh của ông “dành cho” đồng đội mình, toán người ấy đứng như trời trồng, không ai nhúc nhích chân tay “xung trận” nữa. Chờ một hồi không thấy ai vào, ông mới chắp tay, từ tốn bảo: “Làng võ Việt Nam nhiều người tài giỏi hơn tôi gấp mấy trăm lần. Các cậu còn trẻ, học võ mà quên mất đạo thì thành tài sao được! Thôi, về học thêm đi. Khi nào thấy đủ, cứ tìm tôi mà thử!”.

Học võ của danh sư “bát quái thần côn”

Võ sư Chu Há không uống rượu, thế nhưng nhà ông lúc nào cũng đông đúc bạn bè, quây quần chén thù chén tạc, rồi say mê luận chuyện võ công.

Võ sư Chu Há sinh năm 1947, quê gốc ở huyện Đầm Hà, Quảng Ninh. Bởi mưu sinh, nên ngay từ khi còn bé, ông đã theo cha mẹ rời lên Hà Nội. Cha ông là người mê võ nên ngay từ tấm bé, ông đã được cha mình truyền thụ những kỹ năng cơ bản của võ thuật.

Năm 1963, khi 16 tuổi, ông đã được người quen giới thiệu đến danh sư Tô Tử Quang, Sáng tổ môn phái Hồng gia quyền ở Việt Nam bái sư, học võ. Thầy Tô Tử Quang khi ấy ở phố Nguyễn Công Trứ, không mở võ đường mà chỉ dạy võ cho những người thân thiết. Võ sư Chu Há là một người như thế.


Võ sư Chu Há thời trẻ

Theo võ sư Chu Há, cụ Sú Tàu (tên thân mật của Tô sư phụ) là người Trung Quốc. Ông sinh năm 1910, ở huyện Long Châu, Quảng Tây trong một gia đình 8 đời theo nghiệp võ. Ngay từ nhỏ, Tô sư phụ đã được cha mình là võ sư nổi tiếng Tô Cao Lân truyền dạy công phu Hồng gia quyền. Có giai thoại rằng, năm lên 7 tuổi, Tô sư phụ đã được Hoàng Phi Hồng, cũng một danh sư của Hồng gia chỉ bảo thêm về quyền thuật. Với năng khiếu bẩm sinh, năm 18 tuổi, trong một cuộc thi võ hàng năm ở Quảng Tây, ông đã giành giải nhì và được mệnh danh là “Thần đồng võ thuật”.

Sau khi thành danh ở Quảng Tây, như bao thanh niên khác, Tô Tử Quang tìm về Thượng Hải. Chốn nhiễu nhương ấy, bằng khả năng công phu của mình, ông đã được một đại thương gia trọng dụng khi một lần, dùng công phu giải cứu cô con gái rượu của vị thương gia ấy thoát khỏi tay bọn bắt cóc, tống tiền.

Thế nhưng, bởi mến mộ tài năng, khí phách của chàng trai trẻ, cô tiểu thư ấy đã đem lòng yêu mến. Mối tình không hộ đối, môn đăng ấy đương nhiên vướng phải sự cấm đoán cay nghiệt từ phía nhà cô gái. Vậy là, để mọi chuyện được yên bề, Tô sư phụ đành phải hi sinh tình yêu của mình. Ông lại tiếp tục lên đường phiêu bạt. Và Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng trong chặng đường giang hồ ấy.

Được biết, trong quãng thời gian ở Thượng Hải, Tô Tử Quang đã hai lần đoạt giải quán quân quyền thuật. Và, cũng chính ở đất này, ông đã được võ lâm giang hồ tôn sùng là “Bát quái thần côn” bởi khả năng siêu đẳng khi sử dụng binh khí này.

Công phu làm hài lòng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Theo võ sư Chu Há, Tô sư phụ đến Hà Nội từ năm 1954. Ông làm việc tại Nhà máy in Tiến bộ. Mãi đến năm 1963, ông mới chính thức phổ biến Hồng gia quyền cho mọi người. Thế nhưng, việc truyền thụ ấy cũng chỉ ở phạm vi rất hẹp, đa phần môn đồ chỉ là những người gốc Hoa. Cùng với võ sư Làm Ốn Và, Voòng Sìu Khoóng, Chu Há là một trong ba đại đệ tử của thầy Tô (những đệ tử này được Tô sư phụ đặt hiệu riêng là Và Cố, Khoóng Cố, Há Cố).

Là người có tư chất võ thuật nên theo Tô sư phụ được ít lâu, võ sư Chu Há đã lĩnh hội xuất sắc những kỹ năng công phu mà sư phụ mình truyền dạy. Điều ấy đã được minh chứng bằng việc năm 1965, trong lễ hội Hoa Liên do Hoa kiều tổ chức ở Hà Nội, võ sư Chu Há đã vinh dự được Tô sư phụ chọn để biểu diễn quyền thuật cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bác sĩ Trần Duy Hưng thưởng thức. Sau buổi biểu diễn đó, võ đường của Tô sư phụ đã được Thủ tướng gửi gắm nhiều lời khen ngợi.

Tuyệt kỹ cho người thích… la cà quán xá

Năm 1982, Chu Há tham gia Hội võ thuật cổ truyền Hà Nội và đứng ra thành lập võ đường riêng.

Võ sư Chu Há là người đam mê sáng tạo. Với võ thuật cũng vậy. Với những tinh hoa học được từ sư phụ mình, ông đã góp phần làm rạng danh Hồng gia quyền với nhiều bài võ do tự mình phóng tác. Với các bài võ ấy thì các môn sinh của võ đường Chu Há đã giành được rất nhiều huy chương vàng ở các hội diễn, liên hoan võ thuật.


Võ sư Chu Há bây giờ

Đặc biệt, khi sáng tạo, võ sư Chu Há luôn hướng về những thứ “binh khí” gần gũi, giản đơn gắn liền với đời sống của con người. Mễ, điếu cày, ba toong... là những thứ thường thấy trong những bài võ do ông ngẫu hứng sáng tạo. Nói về lối tư duy lạ lùng ấy của mình, ông cười bảo, quán nước trà lá thường là nơi dễ bị... ăn đòn nhất. Bởi thế, với mễ để ngồi, điếu cày hút thuốc lào trong tay thì những người học bài võ này sẽ an tâm tuyệt đối khi... lê la quán nước!

Tên tuổi võ đường Hồng Gia cùng võ sư Chu Há ngày một nổi tiếng qua mỗi lần “võ lâm đại hội”. Điều đó đã được thể hiện qua các tấm huy chương mà môn sinh của võ đường giành được sau những kỳ ứng võ thi tài. Sự nổi tiếng ấy không chỉ ở trong nước, mà nhiều môn sinh ở nước ngoài cũng vô cùng mến mộ ông.

Năm 1990, võ sư Chu Há được Sở Thể dục thể thao Hà Nội cử sang Nga, Tiệp Khắc (cũ) biểu diễn. Ông kể, ở những nước này, người dân rất đam mê quyền thuật phương Đông. Bởi thế, mỗi đêm biểu diễn, có đến 7- 8 vạn khán giả tới xem, cổ vũ. Cũng tại chuyến biểu diễn ấy, ông đã được mời ở lại để dạy công phu cho những võ sinh mến mộ mình.

Vậy là, suốt một năm trời, ông miệt mài truyền bá Hồng gia quyền tại Nga. Có lần, việc gia đình, ông phải về nước. Thế nhưng, về chưa đầy tuần thì học trò ông đã điện thoại tới tấp vì thấy ông đi... lâu quá! Theo võ sư Chu Há, hiện tại, ở Nga, những môn đệ năm nào của ông vẫn đang tiếp tục khuếch trương Hồng gia quyền và cũng thu hút được đông đảo môn sinh ( S/t )

tranbinh
18-09-2011, 11:38 AM
Vệt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"


- Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể: suốt cả đời luyện võ nhưng chỉ có hai lần "cực chẳng đã" ông phải dùng công phu thượng thừa "giải quyết" chuyện đời. Đến giờ ông vẫn còn thấy day dứt

Mỗi một bài quyền hay những môn công phu đặc dị đều là sự khổ luyện, giờ nghĩ lại, nhiều lúc võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo lừng danh, cũng thấy nổi da gà.

Thiết xa chưởng là một ví dụ. Cha ông đưa cho ông 12 cây đũa thẳng tắp, được ông tự vót từ thân tre già. Tháng đầu tiên, bằng tay không, một chưởng, ông phải cắm ngập chiếc đũa đó xuống nền đất cứng. Sợ hãi nhất là tháng đầu tiên. Nếu vận khí không tốt thì chiếc đũa không những không cắm xuống đất mà còn xuyên ngược vào tay mình.

Tháng thứ hai, vẫn một chưởng nhưng phải cắm liền lúc 2 chiếc đũa. Tháng thứ ba là 3 chiếc, đến tháng 12 thì cả 12 chiếc phải cắm được ngập thân trong lòng đất.

Thiết xa chưởng của võ sư Thắng bây giờ có lẽ chẳng ai bì kịp. Đã rất nhiều lần ông kê bàn tay của mình trên nền nhà để mọi người thẳng tay cầm vồ gỗ mà nện thoả sức chẳng khác nào đưa tay vào cối để giã, trong khi ông vẫn đang tươi cười nói chuyện. Từ trước đến giờ, làng võ vẫn thừa nhận, khẩu lợi công của Thăng Long võ đạo là thiên hạ vô song. Võ sư Thắng bảo, chính bởi luyện môn công phu đặc dị này mà hàm răng trên của ông đã mòn vẹt, thành hình vòng cung trông rất khác người.

Theo võ sư Thắng, luyện khẩu lợi công đòi hỏi người tập luyện phải có lòng kiên nhẫn, và một quyết tâm bền bỉ, sắt đá. Ban đầu, người học chỉ tập mỗi động tác... ngáp. Một ngày cứ thế ngồi ngáp đến cả vạn lần. Sau tập ngáp là tập nghiến răng. Tư thế nào thì cũng chỉ chú tâm vào việc... day “bộ gặm nhấm” ấy.

Sau động tác đó, người luyện chuyển sang ngậm sỏi, nhá sỏi. Khi răng, hàm đã cứng, đã có lực thì chuyển sang nâng, nhấc, kéo những vật nặng. Ban đầu thì nhấc những túi cát nặng chừng 10 kg, sau đó tăng dần... thành chiếc cối đá nặng đến nửa tạ.

Trước đây, năm 1989, Liên hoan Võ thuật cổ truyền toàn quốc, võ sư Thắng khi đó nặng chỉ 52 kg nhưng đã dùng khẩu lợi công nhấc cả chiếc bàn với đỉnh đồng, nến, hạc, kiếm, ảnh Đạt Ma Sư tổ... nặng đến xấp xỉ 80 kg.

Sau mấy chục năm tu luyện, bây giờ, khẩu lợi công của võ sư Thắng đã đạt tới mức thượng thừa. Ông bảo, với hàm răng thép của mình, ông có thể nhai vỡ liền lúc mấy trăm chiếc cốc thuỷ tinh ( Còn tiếp. )

tranbinh
18-09-2011, 11:42 AM
Bởi là môn phái có những công phu dị thường nên rất nhiều lần Thăng Long võ đạo được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội mời đi biểu diễn giao lưu với các đơn vị khác.

Võ sư Thắng bảo, đến giờ ông vẫn còn ấn tượng với lần lên Hoà Bình biểu diễn khí công cho các công nhân của Nhà máy Thuỷ điện sông Đà xem. Sở dĩ ông nhớ lần trổ tài kinh hồn ấy là bởi, khi về, ông đã bị họ hàng mắng cho một trận te tua. Ai cũng bảo, ông học lắm rửng mỡ, đùa với chính mạng sống của mình.

Ông kể, lần ấy, bởi được báo hơi muộn, chưa kịp chuẩn bị tiết mục gì lạ nên ông đành chọn môn khí công chịu lực. Vật dụng để biểu diễn là khối bê tông nặng gần 3 tạ, ông mượn tạm từ bể nước của khu tập thể gần nhà mình.Tại công trường, khi các công nhân đã quây quần đông đủ, sau khi phô diễn những bài quyền cước đẹp tựa phượng múa, rồng bay thì tiết mục khí công chịu lực mở màn. Vị võ sư thân thể gầy nhẳng như que củi vận khí nằm im trên nền gạch. Khối bê tông 3 tạ được cần trục đưa tới, từ từ đặt nên người ông. Mọi người nín thở sợ hãi. Khi khối bê tông đã yên vị thì hai lực sĩ hai bên, mím môi mím lợi dùng búa tạ, nhè khối bê tông mà quai thật lực. Quai sã cánh tay mà khối bê tông không chịu vỡ, người võ sĩ bên dưới vẫn cứ nằm im thin thít, chẳng chút chau mày.

Không tin vào mắt mình, hai chuyên gia Liên Xô lực lưỡng nhảy vào, giằng lấy búa, đập tiếp. Lại một thôi một hồi những tiếng búa chan chát vang lên, nhưng khối bê tông vẫn trơ trơ. Người nằm dưới thì vẫn nét mặt thản nhiên như đang ngẫm nghĩ điều gì mông lung lắm. Mỏi tay, hai chuyên gia đành buông búa, trầm trồ thán phục.

Khi khối bê tông được nhấc ra, mọi người đã ùa vào sờ sờ nắn nắn khắp người vị võ sư tài giỏi. Họ ngạc nhiên bởi không hiểu thân hình vị võ sư được “kết cấu” bằng gì!? ( Còn tiếp )

tranbinh
18-09-2011, 11:44 AM
Xuất chiêu vì... chiếc săm xe đạp

Trong suốt cả đời luyện võ, chỉ có hai lần ông cực chẳng đã phải đại phá... “xã hội đen”.

Lần thứ nhất xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Chiều ấy, bởi vợ đang mang bầu, sắp sinh, ông đạp xe lên mạn hồ Hoàn Kiếm đón. Qua ngã tư Tràng Tiền, chẳng hiểu thế nào xe của vợ chồng ông bị xịt lốp. Thấy thế, toán sửa xe (toàn những tay thanh niên, mặt mày bặm trợn) ở gần đó đã lôi xềnh xệch xe của ông vào đòi sửa.

Thử săm, một gã bảo, bị thủng 3 lỗ lớn, phải vá thì mới đi được. Vá xong, trả tiền, ông giật mình khi gã đó phát giá bằng đúng nửa tháng lương bác sĩ của mình. Biết đã gặp bọn xấu bắt chẹt khách nhưng ông từ tốn xin chúng giảm giá, nhưng dù trình bày thế nào thì chúng cũng chẳng chịu nghe, thậm chí, còn hùng hổ đe dọa.

Cực chẳng đã ông đành bảo vợ ở lại, để mình chạy bộ về nhà lấy tiền. Rửa tay nhờ chậu nước thử săm xe, ông đã tá hoả khi phát hiện, trong chậu nước đục ngầu có một miếng cao su, được cắm những chiếc đinh nhọn hoắt. Thảo nào, khi nãy, xe của ông bị hết hơi rất chậm mà khi thử đã có đến ba nốt thủng. Cầm miếng cao su cắm đinh ấy, ông quyết định vạch mặt quân gian trá. Bị lật mặt, đám thợ sửa xe sửng cồ, chúng đè ngửa xe ông ra, tháo lấy săm và cắt nát tươm. “Xử lý” song cái săm, thằng cầm búa, đứa cầm kéo đòi tính sổ “vợ chồng thằng nhiều chuyện”. Uất ức, ông quyết định dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Nói thầm với vợ tạm lánh sang bên kia đường, ông ra tay.

Lúc này, dân đi đường túm lại rất đông, ai cũng lo cho chàng thanh niên mảnh khảnh, nhưng sợ nên chẳng ai dám can ngăn. Thấy vợ đã ra khỏi “vùng nguy hiểm”, ông xuất chiêu luôn. Bốn năm tên đồng loạt lao vào nhưng chỉ trong chớp mắt, đứa thì ngã sõng xoài dưới cống, đứa thì lộn lên hè kêu la thảm thiết.

Thấy chiến hữu đều bị hạ đo ván một cách khó hiểu, có tên từ phía sau, chực vung búa lên đánh lén. Thấy mọi người chỉ, ông quay phắt lại. Gặp ánh mắt sắc lẹm của ông, tên này chân tay bủn rủn. Buông “vũ khí” trên tay, hắn co cẳng chạy. Thấy ông ra tay ngoạn mục, dân bên đường đồng loạt vỗ tay thán thưởng. Sau này, những người dân quanh đó nói bọn chúng đều là những phần tử “thương tích đầy mình”. ( Còn tiếp )

tranbinh
18-09-2011, 12:19 PM
3 trận chiến - 1 kẻ thù

Lần ra tay thứ hai, ông bảo, đó là cuộc chiến dai dẳng, khó chịu. Mở lớp dạy võ tại nhà (phố Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), ông luôn bị đám đầu gấu ở quanh khu vực đó quấy nhiễu. Môn đệ của ông liên tục bị chặn đường xin đểu, lúc thì lại bị mất đồ xe máy.

Một hôm, có môn sinh báo mất cốp xe, bực mình ông liền đi gặp mấy tên lưu manh ấy để “làm cho ra nhẽ”. Gặp nhau ở quán nước, hỏi thì thằng nào thằng ấy đều chối đây đẩy. Biết có hỏi nữa cũng chẳng được gì, thất vọng, ông đứng dậy ra về. Để răn đe chúng, khi đứng dậy, tiện tay, ông đã vỗ luôn một chưởng vào bức tường rào gần ấy. Cú đòn răn đe ấy đã làm bức tường sụt một mảng lớn.

Sau đấy vài hôm, đám lưu manh bị công an bắt. Tại cơ quan công an, chúng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, trong đó có cả việc “nhảy đồ” ở lò võ của võ sư Thắng. Bị phạt tù, chúng uất ức cho rằng chính vị võ sư là người tố giác hành vi phạm tội của mình. Chúng nung nấu ý định trả thù.Năm 1987, sau khi thụ án 2 năm, mấy tên trong băng nhóm đó mãn hạn. Về nhà, chúng tuyên bố, việc đầu tiên để “làm lại cuộc đời” là tìm “gã” võ sư đáng ghét để rửa hận. Võ sư Thắng kể, sáng ấy, đang ngồi ăn phở ở đầu phố thì thấy chúng chừng 7, 8 tên, lăm lăm trên tay “hàng lạnh”, hùng hổ kéo nhau vào quán.

Biết chúng kiếm mình gây sự, ông chuyển lại tư thế ngồi, quay lưng vào tường và vẫn đủng đỉnh ăn như không có chuyện gì. Liếc thấy có tên lao vào, ông đứng phắt dậy, tay trái gạt chiếc chai hắn đang nện tới, tay phải dùng đũa dứ ngay trước mặt. Có lẽ biết nếu ông xuống tay thì đôi mắt của mình coi như hỏng, tên này sợ hãi đẩy đồng bọn lùi ra. Ông cũng thủ thế từ từ bước ra ngoài. Biết không thể đánh trực diện ông, chúng cũng nháy nhau giải tán.

Đêm ấy, kéo thêm cả chục tên lưu manh nữa, chúng đến thẳng cửa nhà ông chửi bới om sòm. Không thể lảng tránh, một mình ông xách kiếm mở cửa bước ra. Thanh kiếm sáng loáng trên tay, ông cứ thế múa vun vút. Nhìn sắc mặt, nghĩ là ông không doạ nên chẳng đứa nào dám xông vào ẩu đả. Công an ập đến, tất thảy được đưa về phường. Tưởng sau lần ấy, chúng thôi giở thói du côn, ỷ đông hiếp yếu, nào ngờ, chúng vẫn tuyên bố, gặp ông ở đâu là đánh chết luôn ở đó. Và, đã vài lần chúng dao búa phục ông ở cổng bệnh viện nhưng được mọi người báo, ông đều lánh mặt an toàn.

Thấy không đánh thì không yên nên một buổi đi làm về, ông quyết định ra đòn. Hôm ấy, biết chúng tụ tập phục mình ở cổng bệnh viện, ông gửi lại xe và chiếc cặp da trên tay, ông thủng thẳng rảo bộ về nhà. Thế nhưng, vừa ra đến cổng, đám lưu manh trên đã ập tới.

Chẳng nói thêm gì nữa, ông xuất đòn luôn. Như con thiêu thân, lần lượt cả 4 tên đều bị ông hạ đo ván. Sau trận ấy thì ông đã "bình yên vô sự". Sau này, gặp lại ông, chúng vẫn rối rít gọi ông là “đại ca”, còn cảm ơn vì hôm ấy, ông đã nương tay, ra đòn chưa hết sức!

Nội công bí kíp của Thăng Long võ đạo bây giờ đã nổi như cồn. Các võ sinh đến theo học ngày một đông. Võ sư Thắng bảo, bây giờ, môn phái ông đã có trên 2.000 môn sinh. Bởi là một bác sĩ, nên ông muốn dùng chính nội công lừng danh của môn phái vào việc cứu người. Khí công trị liệu, ấy là một sở trường của Thăng Long võ đạo, hiện đang được rất nhiều bệnh nhân ở Hà Nội theo học để tự cứu mình. ( S/T )

6789
18-09-2011, 12:44 PM
Bài viết về Hổ Quyền rất hay...@};-
Sao ko có tư liệu về Sư Tử quyền nhỉ!!
Chỉ nghe nói có môn võ Sư Tử Hống,nếu ai biết cho thông tin nhé...ok~o)~o)~o)

Sư Tử Quyền đây bác hungvi :((

VrKYQEaUbus

tranbinh
18-09-2011, 03:28 PM
Hùng Kê Quyền


rgl4EjXvVjE

tranbinh
18-09-2011, 04:53 PM
Túy Quyền


8G5N35G1LtY

kymoc
19-09-2011, 12:37 AM
Có một số bạn thắc mắc rằng nên gọi là Vĩnh xuân hay Vịnh Xuân, Ky moc xin đưa một bài giải thích của một cao thủ VX bên trang web VX:
"...Trên thế giới đa phần gọi Vịnh Xuân và phiên âm sang tiếng Anh là wingchun. Tuy nhiên cũng có nơi ngoài Việt Nam gọi Vĩnh Xuân, phiên âm tiếng Anh là wengchun. Xét về phả hệ còn đặc biệt nữa là dòng từ Phùng Tiểu Thanh xuống Phùng Tỉnh và Dong Jik xuống tiếp đến Wei Wan, Tang Yik ... gọi môn của họ là Chí Thiện Vĩnh Xuân quyền sau lại gọi Thiếu lâm Vĩnh Xuân ( không có bộ ngôn đằng trước) Mà Phùng Tiểu Thanh cũng là sư phụ của Nguyễn Tế Công (Sư tổ của VX Việt Nam). Vì thế các cụ học từ cụ Tế Công gọi môn họ học là Vĩnh Xuân..."

tranbinh
19-09-2011, 11:22 AM
TmrVxoqTpd8

tranbinh
19-09-2011, 11:28 AM
kvMjZUi1ULc

tranbinh
19-09-2011, 11:39 AM
OZQKkvXZpCc

kymoc
19-09-2011, 02:44 PM
Karate hay Karate-Do là một môn võ thuật truyền thống của vùng Okinawa (Nhật Bản). Karate có tiếng là nghệ thuật chiến đấu với các đòn đặc trưng như đấm, đá, cú đánh cùi chỏ, đầu gối và các kỹ thuật đánh bằng bàn tay mở. Trong Karate còn có các kỹ thuật đấm móc, các kỹ thuật đấm đá liên hoàn, các đòn khóa, chặn, né, quật ngã và những miếng đánh vào chỗ hiểm. Để tăng sức cho các động tác tấn đỡ, Karate sử dụng kỹ thuật xoay hông hay kỹ thuật kime, để tập trung lực năng lượng toàn cơ thể vào thời điểm tác động của cú đánh.
Trước đây, khi mới chỉ giới hạn ở Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ ở đây, và được viết là 唐手 (tangsho, Đường thủ, tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa). Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết này. Tuy nhiên, do 唐手 thường bị hiểu không đúng là "võ Tàu", cộng thêm việc môn võ này thường chỉ dùng tay không để chiến đấu, nên người Nhật bắt đầu từ thay thế chữ 唐 bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa "KHÔNG", đó là 空. Tên gọi Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo ...), karate được gắn thêm vĩ tố "Đạo", phát âm trong tiếng Nhật là "DO" (viết là 道). Vì thế, có tên Karate-Do.
Lịch sử hình thành

Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các các phương thức chiến đấu của người Ryukyu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốc nhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ này. Người ta chỉ có thể đưa ra được những giả thiết về nguồn gốc của Karate.

Xuất phát từ các điệu múa vùng nông thôn Lưu Cầu, một môn võ (người Ryukyu gọi là dei và viết bằng chữ Hán 手) hình thành và phát triển thành Todei (唐手). Đây là giả thiết do Asato Anko đưa ra.
Do tập đoàn người Hoa từ Phúc Kiến di cư sang Okinawa và định cư tại thôn Kuninda ở Naha và truyền các môn võ thuật Trung Quốc tới đây. Vì thế mà có tên gọi là tote (唐手) với chữ to (唐 - Đường) chỉ Trung Quốc, còn t (手 - Thủ) nghĩa là "võ".
Theo con đường thương mại tới Okinawa. Vương quốc Lưu Cầu xưa có quan hệ thương mại rộng rãi với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Các môn võ thuật có thể từ các miền đất này theo các thuyền buôn và truyền tới Okinawa.
Bắt nguồn từ môn vật của Okinawa có tên là shima.

kymoc
20-09-2011, 01:09 AM
Các bạn có biết, nhà thơ Lê Kim Giao còn là một cao thủ Vĩnh Xuân không?
Một trong ngũ hổ tướng của dòng cụ Trần Thúc Tiển (Đệ tử sư tổ Nguyễn Tế Công)
Nhâm, Sinh, Lễ, Giao (Bác Lê Kim Giao), Thi.
Đừng ai hỏi Kymoc Bác Lê Kim Giao là ai nhé?

6789
20-09-2011, 01:44 AM
Các bạn có biết, nhà thơ Lê Kim Giao còn là một cao thủ Vĩnh Xuân không?
Một trong ngũ hổ tướng của dòng cụ Trần Thúc Tiển (Đệ tử sư tổ Nguyễn Tế Công)
Nhâm, Sinh, Lễ, Giao (Bác Lê Kim Giao), Thi.
Đừng ai hỏi Kymoc Bác Lê Kim Giao là ai nhé?

Aí chà, quả đúng là chân nhân bất lộ tướng, cảm ơn kymoc đã cho mọi người biết thông tin này :)

kymoc
10-11-2011, 11:30 AM
http://youtu.be/IUoZVMRUeSs

6789
05-06-2012, 10:33 PM
Trận đấu quyền Thái có 1 không 2

EjjgKowdU7Y