Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Nguồn gốc tên những thế cờ giang hồ nghệ thuật - Trang 3
Close
Login to Your Account
Trang 3 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123
Kết quả 21 đến 26 của 26
  1. #21
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Đang ở
    Tuy Hoa Town, Phu Yen Province
    Bài viết
    99
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi nhachoaloiviet Xem bài viết
    10.Ngẫu đoạn ti liên :
    "Ngẫu đoạn Ti liên tức là cành sen bị bẻ gẫy nhưng sợi tơ vẫn dính. Quả đúng như vật các bạn mua ngó sen ninh sườn khi bẻ ngó sen ra thì sợi tơ cứ dính vào nhau dù kéo dài ra vẫn không đứt. Đây là một hình ảnh khá đẹp trong câu chuyện nàng Nhược Liên và chàng Đổng Kỳ thời Xuân Thu. Đổng Kỳ là một chàng trai văn võ song toàn và người yêu là nàng Nhược Liên. Cả hai từ nhỏ đã lớn lên bên nhau và yêu thương thắm thiết. Cả hai gia đình đều rất nghèo nên năm đó chàng đôi tám quyết định lên kinh thành tìm kiếm tước hầu nhờ tài văn võ của mình. Khi chia tay Nhược Liên khóc sướt mướt và hỏi người yêu chàng đi lên kinh đô biết bao giờ mới trở về, lên đó liệu công thành danh toại rồi có nhớ đến thiếp không. Đổng Kỳ liền ngắt một cành sen bẻ gẫy rồi nói với người yêu: hai chúng ta chia tay hôm nay như cành sen bẻ gãy đây nhưng lòng ta như sợi tơ này. Hẹn nàng ba năm ta sẽ trở về cưới nàng làm vợ.
    Quả nhiên sau 3 năm Đổng Kỳ áo mũ trở về cưới người yêu như lời nguyện ước cành sen kia.Từ đó có câu thành ngữ Ngẫu đoạn Ti liên
    Chắc đó là điển tích mà đại thi hào Nguyễn Du đưa vào: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" (Truyện Kiều), "ngó ý" là ngó sen.

  2. #22
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    322
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thế cờ: Bát tiên quá hải
    (Đỏ đi trước hòa)


    Bát tiên là: Hà Tiên Cô, Tào Quốc Cửu, Lam Thái Hoà, Trương Quả Lão, Hán Chung Ly, Lý Thiết Quải, Lữ Động Tân và Hàn Tương Tư.

    Hà Tiên Cô vốn là người con gái đất Linh lăng đời Đường, tên là Quỳnh, sống tại khe suối Vân Mẫu. Năm 14-15 tuổi nằm mơ thấy người thần dạy cho ăn bột vân mẫu, lại gặp dị nhân cho trái đào mà ăn nên không bao giờ biết đói. Thường lui tới đỉnh núi, dáng đi như bay; có thể biết trước việc người. Đến niên hiệu Cảnh Long (707-710) đời Đường Trung Tông thì đi mất, người đời truyền tụng nàng là 1 trong 8 vị tiên.
    Tào Quốc Cữu là em của Tào Thái Hậu nhà Tống- vì thế mới gọi là quốc cữu- đã tầm sư học đạo ở miền núi non hiểm trở. gặp Chung Lý Quyền, Lữ Động Tân cho nhập bọn.

    Lam (thường đọc trại là Lâm) Thái Hoà là một ẩn sĩ đời nhà Đường, thường ăn mặc rách rưới, mùa hạ thì chằm thêm sơ bông, mùa đông thì lại ngồi trên đống tuyết. Thường hát bài Đạp đạp ca ngoài chợ thành Tràng An, lời ca thường phảng phất phong vị thần tiên. Sau uống rượu say ở Hào Lương rồi cỡi Hạc bay đi, người đời truyền tụng là một trong bát tiên.

    Trương Quả Lão là một phương sĩ đời Đường, ẩn cư tại núi Trung Điểu, thường tự cho là sanh thời vua Nghiêu. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường Huyền Tông được vua sai rước về kinh đô, được ban Ngân thanh quang lục đại phu, lấy hiệu là Thông Huyền tiên sinh. Huyền Tông cho xây Tê Hà quán, tức là chỗ ở để tu trên núi Tê Hà. Người đời truyển tụng là một trong 8 vị bát tiên.
    Hán Chung Ly tức Chung Ly Quyền, là người Hàm Dương, hiệu là Hoà Cốc Tử, lại có hiệu là Chính Dương Tử và Vân Phòng. Râu đẹp, mắt sắc, thâm cao tám thước. Trãi qua quan chức dưới 3 triều Hán, Nguỵ, Tấn. Tu luyện tại động Chính Dương rồi thành tiên.

    Lý Thiết Quải (thường gọi trại là Lý Thiết Quài), đúng ra là Thiết Quải Lý (người họ Lý có cây gậy sắt), là người hình chất khôi ngô, còn nhỏ đã biết nghe theo đạo, tu tiên nơi hang núi vắng. Một đi gặo Lý Lão Quân (Lão Tử) theo hẹn tại núi Hoa Sơn, mới dặn học trò: "Xác của ta ở tại đây, nếu ta đi ngao du 7 ngày mà chưa về thì mới được hoá xác ta". Người học trò này vì mẹ bệnh nặng phải về nhà gấp nên mới ngày thứ 6 đã hoá xác của Thiết Quải. Đúng ngày Thiết Quải trỡ về chẳng còn xác để nhập vào nên phải nhập vào xác của một kẻ chết đói mà đứng dậy. Do đó hình dạng mới xấu xí, chân thọt.

    Lữ (Lã) Động Tân là người đất Kinh Triệu đời Nhà Đường, tên là Nham (Động Tân là tự), hiệu là Thuần Dương Tử. Đời Đường Vũ Tông, hai lần thi tiến sĩ không đỗ mà tuổi đã 64. Trong khi gaing hồ lãng du, gặp Chung Ly Quyền, học được phép thuật kéo dài tuổi thọ. Ban đầu ở núi Chung Nam, sau được Chung Ly Quyền đưa đến núi Hạc Lĩnh mà truyền nốt cho bí quyết trên. Động Tân đắc đạo rồi bèn đi qua các miền Giang, Hoài, Tương, Đàm, Nhạc, Ngạc và Lưỡng Chiết, người khác không thể biết, tự xưng là Hồi Đạo Nhân. Người đời gọi là Lữ Tố.

    Hàn Tương Tử chính tên là Hàn Tương. Tục truyền đã tu tiên đắc đạo và là cháu của nhà thơ Hàn Dũ. Ông của Tương tên là Trọng Khanh, cha tên là Hội. Học đạo từ thuở nhỏ rồi được Lữ Động Tân độ cho lên tiên. Tương lại muốn độ cho chú là Dũ. Nhân lúc Dũ được phong chức Hình bộ thị lang, mở tiệc mừng với bạn bè, đồng liêu, Tương cũng đến dự, khuyên Dũ bỏ quan, học đạo, trao cho Dũ một bài thơ trong đó có 2 câu: "Giải tạo thuân tuần tửu, Năng khai khoảng khắc hoa" (Ta biết làm rượu "rót mãi còn hoài" và có thể làm cho nở hoa "phút chốc"). Dũ chỉ trích cho là dị đoan, không thèm theo. Tương bèn lấy hồ lô đường kính một tấc rót rượu cho khắc lượt khách dự tiệc, rồi lại lấy chậu đựng lửa trồng sen, trong phút chốc đã nở hoa. Trên hoa lại có câu đối :"Vân Hoành Tần Lĩnh gia hà tại ? Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền" (Mây giăng Tần Lĩnh, nhà đâu tá ? Tuyết lấp Lam Quan ngựa khó lên). Dũ không hiểu ra, Tương bèn chia tay mà ra đi. Sau Hà Dũ vì can gián việc rước xá lợi của Phật nên bị biếm đổi đi Triều Châu. Bèn từ biệt gia đình đi nhậm chức mới. Đi qua Lam Quan (ải Lam), gặp tuyết rơi dày, ngựa đuối sức giữa đường thì Hàn Tương chợt đến. Dũ bây giờ mới hiểu ra hàm ý đôi câu đối ngày trước, bèn thốt rằng "Thầy nói linh nghiệm thay". Nhưng lòng vẫn hướng về vua nên không nỡ theo Tương học đạo.

    Tám vị tiên trên đây họp thành nhóm bát tiên, nhân đi dự hội bàn đào của Tây Vương Mẫu, vượt biển Đông Hải, bấy giờ không có thuyền, Lã Động tân liền đề nghị mỗi người cứ cưỡi báu vật của mình mà vượt qua biển; mọi người đồng ý. Thế là Lã Động Tân thả chiếc khèn của mình xuống biển, Thiết Quải Lý thả cái gậy xuống, Hà Tương Tử thả cái giỏ hoa xuống, Lam Thái Hoà thả tấm gỗ bách xuống, Hán Chung Ly thả chiếc trống, Tương Quả Lão cưỡi con lừa giấy, Tào Quốc Cữu thả tấm giấy ngọc bản, Hà Tiên Cô thả cái lờ tre xuống biển. Các vị thần đứng trên các bảo vật vượt qua Đông Hải bình an.
    Cần phải biết rất nhiều để có thể biết nghi ngờ
    V. Hochinski

  3. #23
    Ngày tham gia
    Aug 2009
    Bài viết
    40
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hay đấy,Còn tiếp nữa không bác Nhạc hoa
    'A tout Le Monde

  4. #24
    Ngày tham gia
    Jul 2010
    Bài viết
    26
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hay ghê, mình biết thế cờ Từ Mẫu Hồi Xa,nguồn gốc thế này từ đâu vậy bạn?

  5. #25
    Ngày tham gia
    Jul 2015
    Bài viết
    3
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    AE cho hỏi nguồn gốc tên KHỔNG MINH TÁ TIỄN

  6. #26
    Ngày tham gia
    Nov 2012
    Bài viết
    58
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trong Tam Quốc Diễn nghĩa có tích Khổng Minh nhận lời với Chu Du làm 10 vạn tên, nhưng không được Đông Ngô cung cấp vật liệu để làm.Nhân khi trời mù sương, ông sai quân dùng thuyền nhẹ để các bó cỏ chèo sang gần nơi quân Tào Tháo đóng quân, rồi sai quân lính khua chiêng trống; quân Tào không nhìn thấy gì cứ thế bắn tên ra ào ào, các bó cỏ thu được thừa số tên về cho Ngô !

Nguồn gốc tên những thế cờ giang hồ nghệ thuật
Trang 3 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68