Kết quả 21 đến 30 của 148
Chủ đề: Võ thuật
-
13-09-2011, 12:20 AM #21
Bài này thì phải hỏi kymoc và tranbinh xem có chính xác không
Vĩnh Xuân Quyền
Nguồn gốc Vĩnh Xuân Quyền
Tổ sư của Vịnh Xuân, bà Nghiêm Vịnh Xuân (Yim Ving Tsun) , là người Quảng Đông, Trung Quốc. Khi còn trẻ, bà là người thông minh, nhanh nhẹn, quật cường và có khí phách nam nhi. Bà được hứa hôn với Lương Bác Trù (Leung Bok Chau), một người buôn muối ở Phúc Kiến.
Sau đó một thời gian ngắn, mẹ bà qua đời. Cha bà, Nghiêm Nhị (Yim Yee), bị vu tội, chút nữa thì phải đi tù. Do vậy, gia đình phải ly hương, cuối cùng tới sinh sống tại chân núi Đại Lương, vùng biên giữa hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên. Đó là vào thời vua Khang Hy (1662-1722).
Thời đó, võ công của Thiếu Lâm Tự, ở Tung Sơn, Hồ Nam, đã rất cao, khiến triều đình Mãn Thanh lo sợ, nên đưa quân đến tấn công chùa, nhưng thất bại. Chan Man Wai, trạng nguyên năm đó, vì muốn làm vui lòng triều đình, đã lập mưu cùng các nhà sư Thiếu Lâm là Mã Ninh Nhi (Ma Ning Yee) với đồng bọn. Chúng đã phát hỏa đốt chùa khi quân lính tấn công bên ngoài. Thiếu Lâm Tự bị đốt trụi, các nhà sư phải tản mát. Các đại sư Ngũ Mai (Ng Mui), Chí Thiện (Chi Shin), Bạch My (Pak Mei), Phùng Đạo Đức (Fung To Tak), Miêu Hiển (Miu Hin) chạy thoát mỗi người một ngả.
Ngũ Mai ẩn thân tại đền Bạch Hạc, trên núi Đại Lưong. Tại đây, bà quen Nghiêm Nhị, và con gái ông, Nghiêm Vịnh Xuân, vì bà thường mua đậu phụ ở cửa hàng của ông.
Vịnh Xuân lúc đó là một cô gái trẻ, đẹp khiến một tên côn đồ địa phương chú ý. Hắn ép cô cưới hắn. Cô và cha cô rất lo lắng. Ngũ Mai biết chuyện đó và rất thương cô gái. Bà đồng ý dạy võ cho Vịnh Xuân để cô có thể tự bảo vệ. Lúc đó, cô có thể tự mình giải quyết tên côn đồ và cưới Lương Bác Trù, người chồng đã đính hôn của mình. Vịnh Xuân theo Ngũ Mai lên núi và bắt đầu học võ. Cô luyện võ cả đêm lẫn ngày cho đến khi thuần thục. Khi đó, cô đã thách đấu và đánh bại tên côn đồ nọ. Ngũ Mai quyết định lên đường chu du vòng quanh đất nước. Nhưng trước khi lên đường, bà đã bắt Vịnh Xuân thề giữ nghiêm các môn quy, phát triển võ thuật ngay cả sau khi cưới, và phải giúp nhân dân lật đổ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh. Đó là về chuyện Ngũ Mai đã truyền môn Vịnh Xuân như thế nào.
Sau khi cưới, Vịnh Xuân dạy võ cho chồng là Lương Bác Trù. Ông ta lại truyền cho Lương Lan Quế (Leung Lan Kwai). Lương Lan Quế lại truyền cho Hoàng Hoa Bảo (Wong Wah Bo) là diễn viên của một gánh hát trên thuyền, tức Hồng Thuyền. Hoàng Hoa Bảo ở cùng với Lương Nhị Đệ (Leung Yee Tei) tại Hồng Thuyền. Tình cờ, đại sư Chí Thiện, khi trốn khỏi Thiếu Lâm đã giả dạng làm đầu bếp trên Hồng Thuyền. Chí Thiện dạy Lục Điểm Bán Côn cho Lương Nhị Đệ. Hoàng và Lương thân nhau nên nói chuyện về võ thuật với nhau. Họ cùng nhau xem xét, trao đổi và hòan thiện võ thuật. Từ đó, Lục Điểm Bán Côn được nhập vào Vịnh Xuân.
Lương Nhị Đệ truyền cho Lương Tán, một danh y tại Phật Sơn. Lương Tán đã ngộ được những bí quyết của Vịnh Xuân và đạt được tuyệt đỉnh võ học. Nhiều võ sư đến thách đấu với ông nhưng đều thua. Lương Tán trở nên rất nổi tiếng. Sau này, ông truyền cho Trần Hoa Thuận (Chan Wah Shan), ông đã thu nhận tôi làm môn sinh cách đây nhiều thập kỷ. Tôi đã luyện võ cùng các huynh đệ như Ngô Tiểu Lỗ (Ng Siu Lo), Ngô Trọng Tố (Ng Chung So), Trần Nhữ Miên (Chan Yu Min) và Lôi Nhữ Tế (Lui Yu Jai). Vịnh Xuân đã được truyền đến chúng ta như vậy, và chúng ta vĩnh viễn biết ơn các Tổ sư và Sư phụ. Chúng ta sẽ luôn nhớ và tôn trọng nguồn gốc của chúng ta, tình cảm chung đó luôn đoàn kết môn phái chúng ta. Chính vì vậy, tại sao tôi lại tổ chức “Vịnh Xuân Đồng Môn” (Chú thích: Tổ chức này không được thành lập, thay vào đó, Liên đoàn Vịnh Xuân Hồng Kông được thành lập) mà tôi hy vọng các anh em đồng môn ủng hộ. Điều này rất quan trọng để thúc đẩy môn phái.
Diệp VấnBà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
13-09-2011, 12:26 AM #22
Cám ơn Lão Khoai đã sưu tầm thông tin về VX
Tuy nhiên ngoài thông tin trên thì hiện nay cũng còn rất nhiều thông tin khác nhau về nguồn gốc VX, bản thân nội bộ VX Việt Nam hiện nay cũng còn chưa có sự thống nhất do đó theo em chúng ta chỉ nên tham khảo để biết và không nên bình luận gì thêm, người trong nhà còn đang cãi nhau huống hồ chúng ta là người ngoài.Lần sửa cuối bởi 6789, ngày 01-10-2012 lúc 04:27 AM.
-
13-09-2011, 03:00 AM #23
Bác Kymoc biết nhiều về Vịnh Xuân, vậy có biết vợ chồng cô Vân nhà trên đê Yên Phụ ko? Nghe nói đã mất cách đây vài năm, ngày xưa nghe cô nói chuyện thì vai vế còn trên cả Lý Tiểu Long.
-
13-09-2011, 08:20 AM #24
VÔ CỰC LUẬN
Chưởng Môn
Lý Hồng Thái
Tặng bác kymoc ,người lầu thông tám quẻ
Kinh Dịch gồm 64 quẻ hay 64 mô thức tiêu biểu diễn tả tất cả hiện tượng, trạng thái tinh thần lẫn vật chất của mọi sự vật trên thế gian trong tiến trình sinh hóa của chúng. Từ những vật thật nhỏ như cấu trúc các hạt nguyên tử, 64 (DNA-), cho đến các vũ trụ, thái dương hệ, hố đen (black hole), cũng như những giai đoạn thăng trầm hưng thịnh của một đời người, một tổ chức, một quốc gia, 64 quẻ Dịch còn là 64 Ðạo hướng dẫn cách thức tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, trên đủ mọi lãnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị, quân sự, y học,...
Nói một cách vắn tắt, 64 quẻ Dịch bao hàm tất cả các định luật của vũ trụ chi phối vạn vật. Như vậy thì 64 quẻ Dịch từ đâu mà ra? Ta truy về gốc của nó qua những câu vấn đáp sau:
-64 quẻ Dịch gốc ở đâu?... 64 quẻ Dịch gốc ở Bát Quái.
-Bát Quái gốc ở đâu?... Bát Quái gốc ở Tứ Tượng/Ngũ Hành.
-Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở đâu?... Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở Lưỡng Nghi (Âm,Dương).
-Lưỡng Nghi gốc ở đâu?... Lưỡng Nghi gốc ở Thái Cực.
-Thái Cực gốc ở đâu?... Thái Cực gốc ở Vô Cực.
"Cực" nghĩa là tận cùng, "Vô" nghĩa là không, "Vô Cực" nghĩa đen là không có sự giới hạn, tận cùng. Ðã nói Vô Cực là không có sự giới hạn thì không thể định nghĩa nó được. Tuy vậy, theo Tiên gia, ta có thể miễn cưỡng miêu tả Vô Cực như sau: Vô Cực chính là Ðạo, nó hằng có, vô thuỷ vô chung, trống rỗng, tịch lặng, không hình không tướng, một khối mờ mịt, hỗn độn, đặc biệt là nó đơn giản vô cùng, vượt ra ngoài cả sự nghĩ bàn của lý trí. Và mọi vật, tuy thiên hình vạn trạng, cũng đều cũng đều từ gốc Vô Cực mà ra.
Bể võ học mênh mông, môn phái như rừng, bài bản vô số; hành giả có khổ luyện hay góp nhặt đến mãn đời cũng không thể học hết, trong khi tâm trạng vẫn thấy thiếu thốn không đủ. Mang tiếng là võ sĩ, khi lâm trận vẫn không tránh được tình trạng phân tâm loạn trí, bao nhiêu bài bản chiêu thức không sữ dụng được, rốt cuộc lại xông vào đánh đấm túi bụi như những kẻ mới tập võ, không giải quyết được trận đấu. Bậc trí giả không thể không suy tư về vấn đề này.
Khi ở ngọn cành lá với muôn hình dạng phức tạp dễ làm ta hoang mang rối trí. Nhưng ở gốc thì chỉ có một, mọi thứ trở nên đơn giản, đồng thời nắm được gốc tức là nắm được ngọn, nắm được vạn vật. Bởi vậy môn Vô Cực Công đề xướng một giải pháp là đi lùi về gốc, về Vô Cực. Trở về gốc hay quy nguyên, tức tìm về căn nguyên cội nguồn của ta cũng như của vũ trụ, hầu nắm lấy nguyên lý của bản thể, để dù có ở đâu chăng nữa cũng sẽ không bị bối rối lung lạc. Chẳng những vậy, khi cầm chìa khóa Vô Cực trong tay, ta sẽ khai mở được nét đặc thù của bất cứ môn phái nào.
Các môn võ học ở cấp 'trung học' giảng dạy cho ta một kiến thức tổng quát về Bát Quái, Tứ Tượng, Ngũ Hành, để chuẩn bị cho ta vào 'đại học'. Bát Quái (Càn, Ðoài, Ly, Chấn, Tốn, Khãm, Cấn, Khôn) là tám lực căn bản trong vũ trụ, còn gọi là tám hướng, hay tám cửa. Ta sẽ có khái niệm về sự động biến của đối phương từ quẻ nào sang quẻ nào, cũng như ta nên động qua quẻ nào,...về các cửa để biết mình đang ở đâu, cửa nào đang mở cho mình đi, dồn đối phương vào các cửa nào,...vv...Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm,Thiếu Dương) giúp ta hiểu thế nào là cương nhu lưỡng hợp - trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Thí dụ ta trụ tấn thao diển chiêu thức, từ eo trở xuống thì tịnh (Thái Âm) nhưng lại xiết cứng (Thiếu Dương), trong khi phần trên lại động (Thái Dương) nhưng lõng mềm (Thiếu Âm). Ngũ Hành (Long/Kim, Xà/Thủy, Hổ/Thổ, Báo/Mộc, Hạc/Hỏa) phân tích sở trường của mỗi hành, sự sinh khắc biến hóa của chúng ta ra sao, hành nào đang vượng, trị nó ra sao, v.v...
Lớp Thái Cực ở trình độ 'đại học' nhấn mạnh đến nguyên lý Âm Dương, cùng với nguyên tắc "xả kỹ tùng nhân" (bỏ mình theo người) mà hòa nhập với đối phương. Thí dụ địch tiến thì ta lùi, địch lùi thì ta tiến; nghe nặng bên phải thì ta nhả bên phải, nghe nặng bên trái thì ta nhả bên trái...Ta học thêm các yếu quyết về cách thức xử dụng châu thân, sự động tịnh, tâm thân khí kình thần,v.v...
Thái Cực và Âm Dương (Lưỡng Nghi) dễ bị lẫn lộn với nhau. Thái Cực không phải là Âm Dương, mà nó là mẹ của Âm Dương. Nhưng môn Thái Cực chú trọng ở Âm Dương với mục đích trang bị cho ta sự hiểu biết rốt ráo về cõi nhị nguyên. Và Âm Dương ở mức cùng tột của nó chính là Thái Cực, điểm giao tiếp với Vô Cực. Trên lý thuyết, Thái Cực và Vô Cực cách nhau chỉ khoãng đường tơ kẽ tóc.
Hành giả cần hội đủ Cương Nhu Dũng Trí Tịnh trên đường hành võ đạo. Song ít ai có thể tận dụng toàn bộ cả năm đức trên. Thông thường ta bị vướng mắc trong Cương và nhất là Trí. Mặc dù lý trí là người bạn đắc lực dẫn ta đi một quảng đường dài đến Thái Cực, nhưng rồi chính nó lại là chướng ngại vật cản trở bước tiến của ta ở giai đoạn cuối cùng.
Hai lực Âm Dương luôn luôn trồi xụt hoán chuyển gây sự đối đãi ảnh hưởng đến lý trí nên tâm ta sinh phân biệt. Vì tâm sinh phân biệt nên ta chấp vào ngã (cái tôi), trụ vào pháp. Có cái tôi xen vào nên tâm sinh vọng động. Do tâm vọng động nên sự vật ta cảm nhận đều bị bóp méo, cũng như mặt hồ gợn sóng làm ta không thể thấy rõ đáy hồ, cho nên mọi quyết định dựa trên lý trí sẽ dễ bị sai lạc. Hiểu rõ nhược điểm này, một cách mà đối phương có thể khai thác là lừa cho lý trí ta tính toán, khóa vào một mục tiêu nào đó, gây ra các điểm mù để hắn đánh vào. Một khuyết điểm nữa là sự tính toán chậm chạp của trí não. Trong lúc giao thủ, chỉ trong khoảnh khắc là bao biến chuyển đã có thể xảy ra mà nó không thể tính toán kịp, lúc đó bài bản chiêu thức có hay, có nhiều cũng vô ích.
Tâm động nên ta cảm thấy bất an, vì vậy lý trí góp nhặt cả vật chất lẫn kiến thức để cảm thấy được an ổn. Nhưng không khác gì trường hợp các học giả, số kiến thức họ tích lũy để dựa vào sẽ là cái khuôn giam cứng họ lại. Vả lại tâm đã bất an mà lại đi ôm đồm nhiều thêm, ta sẽ càng bị hoang mang rối loạn. Lão Tử đã vạch rõ lổi lầm này qua câu "càng học càng đi xa Ðạo"[một]. Vậy muốn cho tâm phẳng lặng không vọng động ta phải vượt lên trên Âm Dương, gạt bỏ lý trí ra ngoài, và dẹp luôn cả mớ kiến thức đã thâu lượm bấy lâu nay.
Lớp Thái Cực chỉ nhấn mạnh đến Âm Dương mà không đả động gì đến Bát Quái, Ngũ Hành. Như vậy môn Thái Cực đã lược giãn nhiều thứ rườm rà và bắt đầu hướng chúng ta về gốc, về Vô Cực. Lên đến lớp Vô Cực này là trình độ 'Tiến Sĩ', những gì ta đã học qua đều phải quên bỏ. Quên bỏ hết để trở về gốc tức là đơn giản dần cho tới khi trống rỗng, tịch lặng, không còn gì vướng bận, không còn trụ vào đâu nữa, "giãm thiểu rồi lại giãm thiểu cho đến chổ vô vi". Trở về với Vô Cực Ðạo là đi ngược với lẽ thông thường, thay vì tích trử, ta xã bỏ.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
13-09-2011, 08:22 AM #25
Kinh Dịch đã phân tích tường tạn và hướng dẫn một cách cặn kẽ hành trình quay về cõi Ðạo qua các quẻ:
Bắc, số 23,
Phục, số 24,
Vô vọng, số 25.
Trở về với Vô Cực tức là thi hành đạo Phục. Tuy nhiên, trước khi có thể "phản phục kỳ Ðạo", kinh Dịch nhắc nhở ta bằng cách trãi qua đạo Bác. Bác nghĩa là bóc, lột. Sự tương quan giữa hai quẻ Bác và Phục có thể ví như trái cây khi chín rụng, cần phải khô đi, rồi vỏ nó rời ra (Bác) để các hạt bên trong có cơ hội nẩy mầm đâm rễ, bắt đầu một chu kỳ mới (Phục). Ta cắt xén cho hết những gì dư thừa để bước qua đạo Phục. Cái dư thừa phải lột bỏ là những cái hay giỏi, thói quen chống trả, cùng với những khuôn khổ học thức mà chúng ta tự giam hãm ở trong bấy lâu nay. Nhờ đó hạt nhân Vô Cực mới có chổ để nẩy nở phát triển.
Sau khi "cải tà qui chánh", hoàn tất đạo Phục, tâm ta trống rỗng ở trạng thái Vô Cực, tức là trở về trạng thái hồn nhiên của trẻ thơ. Kinh Dịch nói đến sự trong trắng ngây thơ ở quẻ "vô vọng". Vô Vọng nghĩa là không vọng động, không làm việc càn bậy, Ðộng theo ý trời, đúng với qui tắc "vô ý sinh" không có cái TÔI tính toán lý luận.
Ðặc tính của trẻ con cần được suy xét sâu xa vì thánh nhân đã không tiếc lời ca tụng. Một đặc điểm của đứa bé sơ sinh là tâm vô tư, không phân biệt xấu đẹp, thiện ác, một kẻ trộm hay người thân bước vào nhà nó đều coi như nhau, vì không phân biệt nên nó không vọng động. Ðặc điểm nữa là nó có khả năng xã bỏ rất nhanh. Ðang để hết tâm trí chơi nghịch đồ chơi đắc ý nhất của nó, chỉ một giây sau nó có thể ném bỏ không thương tiếc. Nó sống trong giây phút hiện tại, không hề vướng bận chuyện quá khứ hay lo lắng việc tương lai. Nó có một đức tin phi thường, hoàn toàn tin tưởng ở sự chăm sóc của cha mẹ nên nó không cần dùng trí thông minh để xử thế. Thật ra, nó lại dựa vào sự non nớt yếu đuối để diễn đạt những ý muốn của nó. Ðiều này được nhắc đến ở câu "giống như đứa bé sơ sinh chưa biết cười... không như người đời, ta ngu xuẩn dốt nát...nhưng ta dựa vào người Mẹ chăm sóc nuôi dưỡng ta"[một]. Dĩ nhiên đây là người Mẹ Vô Cực. Ðặc điểm mềm dẽo của đứa bé về phương diện thể chất cũng được đề cao, "người có đức sâu dày có thể ví như đứa bé sơ sinh, xương yếu gân mềm, nhưng cái mềm của nó chắc", hay "cứng mạnh là kẻ đồng hành với sự chết, mềm mại yếu đuối là bằng hữu của sự sống."
Ta học hỏi ở đứa trẻ thơ để có khái niệm về Vô Cực. Ta đã thấy vì chưa phân biệt vọng động nên chưa có cái TÔI hình thành ở đứa bé thành thử trẻ thơ rất gần với Vô Cực, hay đúng ra nó phản ảnh trạng thái Vô Cực. Cứ việc "ngu si hưởng thái bình" là ở chổ này, đặt niềm tin ở Mẹ Vô Cực, tức pháp Vô Cực dẫn dắt và ta không cần phải lao tâm nhọc trí.
Môn Vô Cực Công sẽ dẫn ta trở về trạng thái mềm dẽo của đứa trẻ, dáng cách buông lõng của bộ xương, lúc chưa có lý trí xen vào, mọi động tác đều do "vô ý sinh". Nghĩa là không có ý tạo tác, sự việc xảy ra một cách tự nhiên trong khi đầu óc thoải mái không có gì vuớng bận. Ðó là thái độ khoan thai thư thái mà Quyền phổ Vô Cực Công có nhắc đến qua các câu như "Nhất kình thư bộ", chẳng hạn như ta đang nhồi bột, bất chợt có người nhờ lấy cái khăn, ta tự động với tay rút khăn một cách nhẹ nhàng khéo léo mà tâm trí hoàn toàn không để ý gì cả.
Ý niệm "vô ý sinh" có điểm tương đồng với thuyết Vô Vi, Vô Vi có hai định nghĩa, làm nhưng không phải là làm, và không làm nhưng mọi việc đều xong. Người đạt đến mức Vô Cực tuy vẫn thấy những động tác đánh đở, nhưng phải hiểu là họ không có chủ ý đánh đở, họ không còn cái tôi hay lý trí bảo tay chân phãi đở gạt thế này thế nọ. Họ có thể ví như giãi Ngân Hà, tự động xoay chuyển khi đối phương dấy động. Bỡi vậy, làm nhưng không phải là làm, không làm nhưng khi giãi Ngân Hà đi hết một chu kỳ, trở về trạng thái tự nhiên của nó thì mọi việc sẽ hoàn tất. Bởi vậy, không làm nhưng mọi việc đều xong.
Thập Nhị Huyền Công là bài quyền trọng yếu của Vô Cực Công. Các chiêu thức trong bài giải thích tiến trình sinh hóa của vạn hữu, giúp ta có khái niệm vế sự ứng hiện của Vô CựcBà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
13-09-2011, 09:26 AM #26
Lão khoai quả là người uyên thông về dịch lý...Kymoc rất vui được hầu chuyện cùng Lãokhoai về Dịch kinh, Mai Hoa...bởi căn bản của VX hay một số môn võ thuật khác đều không ít thì nhiều cũng lấy từ kho tàng triết học phương đông đó là Kinh Dịch.Đặc biệt nhất phải kể đến: Vô cực công, Bát quái cực, Thái cực quyền, Vĩnh Xuân.Đây là những môn lấy nguyên lý cân bằng của Âm Dương để làm tiêu chí rèn luyện.
-
13-09-2011, 09:39 AM #27
Hệ thống Vĩnh(Vịnh) Xuân của Việt Nam được bắt nguồn từ cụ Tế Công, Còn hệ thống Vĩnh(Vịnh) Xuân của Hồng Kông được Cụ Diệp Vấn đưa vào.Hai nhánh của Cụ Diệp và Cụ Tế là hai nhánh xa nhau. Tuy cùng bắt nguồn từ Hai trong ba đệ tử đầu tiên của Vĩnh Xuân Trung Hoa (Lương Nhị Đệ,Hoàng Hoa Bảo,Đại Hoa Diện Cẩm).Dòng cụ Diệp bắt nguồn từ Đại sư Lương Nhị Đệ,dòng cụ Tế bắt nguồn từ Đại sư Đại Hoa Diện Cẩm.
Qua đó có thể khẳng định vợ chồng cô Vân không ngang hàng, không hàng trên hay hàng dưới với Lý Tiểu Long,bởi họ không cùng một nhánh trực tiếp.Bởi từ đời cụ Diệp cụ Tế đến đời chung nhánh đầu tiên đã trải qua hơn 3 đời rồi.
Vấn đề thứ nữa là tuy Lý Tiểu Long có được học VX từ Cụ Diệp Vấn nhưng kỳ thực Lý Tiểu Long hoàn toàn không lĩnh hội được gì nhiều từ hệ thống quyền pháp Vĩnh Xuân của Cụ Diệp.Bản thân Lý Tiểu Long sau này khi thành danh có quay lại xin cụ Diệp chỉ dạy cho bài Mộc Nhân, nhưng cụ Diệp đã từ chối.Bản thân VX Hồng Kông bây giờ cũng chưa bao giờ coi Lý Tiểu Long là người am hiểu và giỏi Vĩnh Xuân.Lý Tiểu Long là bậc kỳ tài võ học nhưng tiếc là anh theo học VX của cụ Diệp trong thời gian quá ngắn nên không thể lĩnh hội được nhiều.
-
13-09-2011, 10:23 AM #28
Khái lược lịch sử Vịnh Xuân Việt Nam
Vĩnh Xuân Quyền vào Việt Nam chủ yếu do công của tôn sư Nguyễn Tế Công - người được đa số các võ sư Vĩnh Xuân hiện nay coi là sư tổ của Vĩnh Xuân Việt Nam. Từ năm 1939 đến 1954, Sư tổ chủ yếu dạy ở ngoài Bắc với các học trò (thế hệ thứ hai) sau này được nhiều người biết tên như các cố võ sư Việt Hương, Trần Văn Phùng, Ngô Sỹ Quí, Vũ Bá Quí, Trần Thúc Tiển, Ngô Phượng Tường, Hồ Hải Long v.v.
Sau năm 1954, sư tổ chuyển vào Nam, tiếp tục dạy các học trò như các cố võ sư Nguyễn Bá Khả, Lục Viễn Khai, Đỗ Bá Vinh, Ngô Phượng Tường, Trần Văn Từ, Huỳnh Ngọc Ẩn(đệ tử của Hồ Hải Long) v.v. cho đến khi mất 1959.
Trong thế hệ thứ ba của Vĩnh Xuân Việt Nam cũng đã có nhiều võ sư mở võ đường, được công chúng biết, đặc biệt ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, và ở một số nước khác như Canada, Pháp và Ukraina. Ngoài ra, còn nhiều võ sư không mở võ đường chính thức, dù vẫn âm thầm truyền dạy và phát triển các công phu của môn phái.
Ngoài những nhánh chính của tôn sư Nguyễn Tế Công, còn có một số ít chi nhánh khác của Vịnh Xuân vẫn được truyền dạy chủ yếu trong cộng đồng người Hoa ở Q5 (Sài Gòn,Chợ Lớn) và rải rác ở các tỉnh Nam Bộ (Vũng Tàu, Biên Hòa, Lái Thiêu, Cần Thơ...)Những chi nhánh này cũng do những người Hoa di cư truyền dạy (cùng thời và sau tôn sư Nguyễn Tế Công), mang tính chất tâm truyền(1-2 người) mục đích bảo tồn tinh hoa nên ít được biết đến.Những chi nhánh này mang nét đặc trưng của Vịnh Xuân truyền thống với 4 bài quyền, 2 bài binh khí. ( S/T )Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 13-09-2011 lúc 10:26 AM.
-
13-09-2011, 10:35 AM #29
Vịnh Xuân quyền Lịch sử và tên gọi của môn phái
Trước đây, không có cơ sở tin cậy để kết luận về nguồn gốc của tên gọi. Một trong các truyền thuyết nói rằng tổ sư của môn võ này là Ngũ Mai Lão Ni, một đệ tử của võ thuật Thiếu Lâm, trưởng môn phái Bạch Hạc Quyền, đúc kết những kinh nghiệm tập luyện và bổ sung thêm những kỹ thuật độc đáo "lấy nhu chế cương" khi quan sát trận giao đấu giữa Hạc và Xà. Cũng theo truyền thuyết, đệ tử đầu tiên của bà là Nghiêm Vĩnh Xuân, người có công phát triển rộng rãi môn võ. Về sau, tên của bà được lấy làm tên môn phái.
Trong các truyền thuyết khác, tên của Chí Thiện Thiền Sư, Miêu Hiển, Phùng Đạo Đức, Trương Ngũ thường được nhắc đến như những người có các đóng góp cho kỹ thuật của môn phái. Các võ sư ở thế hệ sau như Đại Hoa Diện Cẩm, Lương Nhị Đệ, Hoàng Hoa Bảo trong Hồng Hoa Hội, Lương Tán, Hoắc Bảo Toàn, Phùng Thiếu Thanh, Trần Hoa Thuận v.v. là những người đã có công truyền bá và hòan thiện các kỹ thuật Vĩnh Xuân, và được nhắc đến trong hầu hết các phả hệ ở các chi phái. Các bằng chứng về việc Hoắc Bảo Toàn và Phùng Thiều Thanh truyền dạy cho anh em Nguyễn Tế Công và Nguyễn Kỳ Sơn hiện vẫn còn lưu tại Phật Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc.
Môn này đã phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, và được biết đến nhiều nhất qua Lý Tiểu Long, người thể hiện công phu Vĩnh Xuân trên màn bạc. Sư phụ ông - Diệp Vấn, được coi là sư tổ của Vĩnh Xuân Hồng Kông - là người có công đào tạo ra một thế hệ học trò đã truyền bá Vĩnh Xuân rộng rãi trên toàn thế giới.
Hiện nay, theo những nghiên cứu về khảo cổ học của Viện Văn hóa và Khảo cổ Trung quốc, Viện Văn hóa và Khảo cổ tỉnh Phúc kiến, những nghiên cứu về lịch sử, về võ thuật và nghệ thuật kinh kịch Trung quốc cộng với những công trình nghiên cứu của nhiều dòng Vĩnh Xuân khác nhau trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là Viện Bảo tàng Vĩnh Xuân (Ving Tsun museum) của dòng Diệp Vấn, chúng ta có thể rút ra các nét chính về lịch sử môn Vĩnh Xuân như sau:
- Vĩnh Xuân là một môn khoa học chiến đấu được các cao tăng Nam Thiếu Lâm và một vài người còn lại của giới tướng lĩnh quân sự nhà Minh nghiên cứu sáng tạo ra tại Vĩnh Xuân đường, thuộc về chùa Nam Thiếu Lâm ở Bồ Điền (Putian), tỉnh Phúc Kiến.Mục đích của việc sáng tạo ra môn Vĩnh Xuân là để tạo ra một phương pháp chiến đấu hữu hiệu hơn võ thuật Thiếu Lâm truyền thống. Đồng thời, vào thời điểm đó, quân đội Minh triều đã tan rã, nên giới tướng lĩnh quân sự Minh triều và giới lãnh tụ khởi nghĩa cần phải có một phương pháp huấn luyện mới thật hiệu quả, nhanh chóng để trong một thời gian ngắn có thể đào tạo ra một lực lượng chiến đấu đủ sức chống lại quân đội Mãn Thanh thiện chiến.
- Khi chùa Nam Thiếu Lâm này bị vua Khang Hy đốt vào cuối thế kỷ 17, các cao thủ Vĩnh Xuân thoát khỏi vụ hỏa thiêu đã đổi tên môn phái thành Vịnh Xuân, rút vào hoạt động bí mật và phổ biến môn phái ra quần chúng dưới tên gọi Vịnh Xuân. Truyền thuyết về Ngũ Mai lão ni và Nghiêm Vịnh Xuân được đặt ra để che giấu nguồn gốc thực của môn phái. Chữ Nghiêm đặt trước tên Vịnh Xuân để nhắc về lời thề giữ bí mật của Vĩnh Xuân đường.
- Khi đổi tên, họ luôn có ý định khi lật đổ nhà Thanh, phục hồi nhà Minh, sẽ dựng lại chùa Nam Thiếu Lâm và đổi tên môn phái trở lại thành Vĩnh Xuân. Dự định này đã không thành sự thật, vì triều đại nhà Minh không bao giờ được khôi phục. Do đó môn phái mang cả hai tên gọi là Vĩnh Xuân và Vịnh Xuân, tùy theo xuất thân và dòng gốc của người thầy phổ biến nó.
- Bên ngoài Hồng Hoa hội, khi Vịnh Xuân được dạy cho quần chúng, các sư phụ không bao giờ dạy toàn bộ hệ thống như là một Khoa học Chiến đấu hoàn chỉnh được tạo ra từ Vĩnh Xuân đường. Chính vì vậy, nhiều dòng Vịnh Xuân khác nhau đã ra đời, và có nhiều cách hiểu và lý giải công pháp Vịnh Xuân khác nhau.( S/T)Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 13-09-2011 lúc 10:37 AM.
-
13-09-2011, 10:42 AM #30
@tranbinh Huỳnh Ngọc Ẩn có phải là ông làm bài thơ ..Anh đi rừng chưa thay lá ...
.Em có về qua lối cũ
phố phường chừ đã đổi thay
thương em nửa đời hoang phế
thương ta trọn kiếp lưu đầy
Hay là trùng tên hả tiểu muội ?Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
Võ thuật
Đánh dấu