6789
17-11-2011, 11:04 AM
http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTW5SysSNed5j3wdsXdsqZcWNyIFpY-pO8h0CBtSH2ngrR0y2bEhttp://www.anchorplateip.com/uploads/image/wanted-john-dillinger(1).jpg
Cái danh hiệu khá kêu này được đích thân Giám đốc Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) Edgar Hoover đặt cho John Herbert Dillinger - tên tội phạm được coi là liều mạng nhất, khát máu nhất, tàn nhẫn nhất, khôn ngoan nhất, nhanh nhẹn nhất và không thể bắt được trong lịch sử nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX.
Cũng như một số tên cướp nguy hiểm khác như Bonnie Parker và Clyde Burrow, Dillinger chuyên tiến hành những vụ cướp ngân hàng và trong một thời gian ngắn đã trở thành mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Mỹ...
John Dillinger sinh ngày 22/6/1903 tại ngoại ô Oak Hill của Indianapolis. Hồi nhỏ, John là một cậu bé nhanh nhẹn, cởi mở và dễ thương. Nhưng những ngày tháng hạnh phúc của thời thơ ấu vô tư đã nhanh chóng kết thúc: khi mới 3 tuổi, mẹ cậu qua đời. Mọi gánh nặng chăm sóc cậu bé dồn lên vai cô chị 17 tuổi Ordi. Sáu năm sau, cha John đi bước nữa, còn cô chị gái Ordi đi lấy chồng. Đến lúc này, môi trường giáo dục của John chính là... đường phố. Cậu ta thường xuyên bỏ học và dính dáng vào nhiều vụ đánh nhau. Mới 9 tuổi, John đã lập ra một băng nhóm tội phạm nhí chuyên đánh cắp hàng hóa trên các toa tàu.
Năm 16 tuổi, Dillinger từ bỏ luôn cả cha và mẹ kế lẫn trường học để bắt đầu cuộc sống lang bạt. Năm 20 tuổi, John gia nhập Hải quân Mỹ nhưng sau đó đào ngũ. Lang thang tới Mooresville, Dillinger làm quen và cưới cô gái 16 tuổi Beryl Hovius làm vợ. Nhưng cuộc sống gia đình không ngăn cản nổi những thói quen nổi loạn của Dillinger.
Sau khi gặp gỡ một người bạn cũ là Ed Singleton, cả hai quyết định tổ chức một vụ cướp tại nhà của ông chủ quầy thực phẩm Frank Morgan, người mà theo tin đồn ở thị trấn là có rất nhiều tiền. Dillinger mang theo một khẩu súng lục và cây gậy sắt, bí mật phục sẵn tại nhà Morgan. Khi ông chủ cửa hàng xuất hiện, hắn dùng gậy sắt đập vào đầu ông từ phía sau. Xui cho Dillinger là ông già còn rất khỏe: sau khi ngã, ông còn kịp quay lại giằng được khẩu súng lục ra khỏi tay tên cướp. Một tiếng nổ vang lên do súng bị cướp cò. Tên cướp sợ hãi chạy vội ra ngoài xe của đồng bọn chờ sẵn. Nhưng khi nghe thấy tiếng nổ, Singleton đã nổ máy chuồn trước. Frank Morgan tất nhiên là biết rất rõ kẻ tấn công mình, vì ở cái thị trấn nhỏ bé này mọi người đều biết nhau. Ngay hôm sau, cảnh sát đã tóm được cả Dillinger lẫn Singleton. Dillinger phải nhận bản án 10 năm tù, còn Singleton là 5 năm.
"Học" trong tù
Trong môi trường mới của nhà tù, Dillinger đã có dịp quen biết với rất nhiều thành phần trong giới tội phạm, đặc biệt là Harry Pierpont và Homer Van Meter. Chính Pierpont đã trở thành sư phụ của Dillinger về nghệ thuật ăn trộm cũng như việc nhòm ngó loại tiền nhẹ - tiếng lóng chỉ tiền nằm trong các ngân hàng. Nhưng Dillinger vẫn còn phân vân vì muốn quay về sống lương thiện với cô vợ trẻ mà mình rất mực yêu thương. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi hẳn kể từ ngày 20/6/1929, khi Beryl đề nghị ly hôn. Từ đây cuộc đời hắn chuyển sang một chương mới.
Sau khi chuyển đến nhà tù tại thị trấn Michigan-City, bộ ba Pierpont - Meter - Dillinger còn lôi kéo được thêm hai thành viên nữa là Walter Dietrix và German Lamm, một cựu sĩ quan trong quân đội Đức. Chính những kiến thức và kinh nghiệm quân sự của Lamm là cơ sở cho việc soạn thảo các chiến thuật của những tên cướp nhà băng tương lai.
Ngày 22/5/1933, John Dillinger được trả tự do trước thời hạn vì có ý thức cải tạo tốt. Tám năm rưỡi trong tù không hề uổng phí đối với hắn - Dillinger đã trở nên lỳ lợm và táo bạo hơn rất nhiều. Giờ đây, hắn chỉ quan tâm tới tiền và những quyền lực mà nó mang lại.
Băng cướp reo rắc kinh hoàng
Ngay sau khi ra tù, Dillinger đã nhờ đến Mary Kinder là bạn gái của Harry Pierpont để tổ chức cuộc vượt ngục cho các "chiến hữu". Kết quả, ngày 26/9 đã có 10 tên tội phạm trốn thoát khỏi nhà tù Michigan-City, trong đó có Pierpont, Charles McLey, John Hamilton, Walter Dietrix và Rachel Clark. Chính những tên này đã hình thành nên bộ khung cho băng cướp của Dillinger. Tuy nhiên, 4 ngày trước cuộc chạy trốn của đồng bọn, Dillinger lại bị bắt giữ tại thành phố Dayton (bang Ohio) và được đưa tới nhà tù ở thành phố Lima. Thế là mục đích phi vụ đầu tiên của nhóm cướp mới thành lập là giải cứu cho thủ lĩnh của mình.
Ngày 12/10, 3 tên Harry Pierpont, Charles Mcley và Rachel Clark giả dạng là nhân viên FBI đột nhập đồn cảnh sát khu vực ở Lima. Sau khi bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber, chúng phá khóa giải cứu cho Dillinger và nhanh chóng chuồn mất. Để có nhiều vũ khí cho những vụ cướp ngân hàng, nhóm của Dillinger còn táo tợn đột kích vào các đồn cảnh sát. Chỉ sau hai vụ tấn công, Dillinger và tay chân đã có cả một đống vũ khí.
Lúc này, chúng bắt đầu đẩy mạnh hoạt động. Chỉ một thời gian rong ruổi trên đất Indiana, cái tên Dillinger đã trở thành nỗi kinh hoàng của giới nhà băng và những người giàu có. Ngày 23/10/1933, một nhóm do Dillinger cầm đầu đã tổ chức tấn công Central National Bank và cướp đi 75 ngàn USD. Cùng lúc đó, nhóm thứ hai cũng xông vào dọn sạch First National Bank tại thị trấn Brainerd (Minnesota). Chỉ trong một ngày, Dillinger và đồng bọn đã bỏ túi hơn 100 ngàn USD.
Ngày 20/10, Dillinger cùng các chiến hữu tấn công American Bank and Trust Company lấy đi 27 ngàn USD. Trong khi đấu súng, chúng đã bắn bị thương trung sĩ Wilbur Hansen và thủ quỹ Harry Graham.
Đến vụ tấn công First National Bank tại East-Chicago ngày 15/1/1934, Dilligan đã thẳng tay bắn chết viên cảnh sát Wiliam Patrik O"Melly. Sự kiện này đã khóa chặt con đường sống của Dilliger vì hắn biết: sát hại một cảnh sát chắc chắn sẽ nhận bản án lên ghế điện.
Chiến dịch săn lùng và kết cục của tên cướp
Tháng 10/1933, lo sợ trước sự hoành hành của băng cướp, Thống đốc bang Indiana đã phải kêu gọi đến sự giúp đỡ của cả vệ binh quốc gia. Tham gia vào việc truy lùng Dillinger còn có cả Giám đốc Cục Điều tra liên bang Edgar. Ông này còn cử riêng một bộ phận tới 3.000 người để giúp đỡ cảnh sát. Họ đã tổ chức lùng sục nhằm truy tìm Dillinger suốt ngày đêm nhưng không có kết quả. Tình hình phức tạp đến nỗi, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chỉ thị cho Viện trưởng Viện Kiểm sát thông qua những biện pháp đặc biệt bằng mọi cách phải tiêu diệt nhóm cướp của Dillinger.
Sau vụ cướp ngân hàng East Chicago, nhóm của Dillinger chuyển tới thành phố Tucson (Arizona), nghỉ ngơi trong một khách sạn sang trọng dưới những cái tên giả. Chính tại đây đã xảy ra một chuyện bất ngờ nằm ngoài dự tính. Vào một đêm, khi bọn cướp đang ngủ say thì khách sạn bị cháy vì chập điện. Nhân viên cứu hỏa James Friman đã đập vỡ cánh cửa gian phòng, cứu Dillinger và tay chân của hắn. Trước khi bước lên xe cứu thương vào bệnh viện, Dillinger còn hào phóng tặng cho ân nhân của mình một khoản tiền không hề nhỏ.
Về tới nhà, Friman mới biết là mình đã cứu chính Dillinger sau khi nhìn thấy hình của hắn trong một cuốn tạp chí. Thế là một cú điện thoại nhanh chóng được gọi tới đồn cảnh sát khu vực. Cảnh sát trưởng George Hanter khi nghe được thông tin trên đã nhanh chóng cùng các đồng sự tới bệnh viện để xác minh và đã làm được một việc mà lực lượng cảnh sát điều tra gần như bất lực - đó là bắt giữ Dillinger và đồng bọn. Ba tên trong số này - Pierpont, Mcley và Clark - được áp giải tới Lima, nơi chúng đã bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber. Còn Dillinger được chuyển tới nhà tù Crown Point, Indiana bằng máy bay. Áp giải hắn tới sân bay Chicago là lực lượng hùng hậu bao gồm 85 cảnh sát đi trên 13 chiếc xe hơi và 12 môtô. Người dân Mỹ vui mừng thở phào và chỉ chờ ngày Dillinger lên ghế điện.
Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. Ngày 3/3/1934, sử dụng một cây súng gỗ do luật sư Luis Pike lén trao từ trước, Dillinger đã dọa được viên cai ngục để lấy chìa khóa trốn ra ngoài. Trong lúc này, nhiều đồng bọn trong băng cướp của Dillinger cũng đã bị sa lưới. Riêng Pierpont phải kết thúc cuộc đời trên ghế điện, Mcley phải nhận một viên đạn vào lưng trong lúc chạy trốn, còn Clark phải ngồi tù cho đến hết đời.
Ngày 22/4, thanh tra Pervis nhận được thông báo, Dillinger và đồng bọn đang có mặt tại hồ Michigan (ngoại ô Chicago). Bốn chiếc xe bọc thép lợi dụng màn đêm bí mật bao vây một khách sạn nhỏ. Cảnh sát và các nhân viên FBI xiết chặt vòng vây xung quanh. Ngay khi xuất hiện 3 người đàn ông vừa bước ra khỏi bậc tam cấp, cả một lưới đạn dày đặc đã bao trùm lấy họ. Những xác chết sau đó hóa ra là ba người khách trọ xấu số của khách sạn tình cờ ra ngoài để hút thuốc. Những nạn nhân vô tội này được liệt vào danh sách những kẻ bị săn lùng không cần khoan hồng. Thật ra, trong thời gian cảnh sát khai hỏa có một tên cướp bị thương nặng là John Hamilton.
Bị săn lùng ráo riết, Dillinger quyết định phẫu thuật để thay đổi diện mạo. Giúp đỡ hắn là hai chuyên gia phẫu thuật từng có quá khứ tội phạm là Vilhelm Loser và Harold Cassidi với khoản tiền công 5.000 USD. Dillinger được hạ bớt mũi, nới rộng gò má và cằm. Vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 31 của mình (22/6), Dillinger chính thức được các nhà chức trách tuyên bố là kẻ thù số 1 của xã hội cùng với khoản tiền thưởng cho ai diệt được hắn là 20 ngàn USD.
Trưa ngày 30/6, Dillinger cùng 3 tên đồng bọn khác lại tấn công Merchant"s National Bank cướp đi 30 ngàn USD cùng với mạng sống của viên sĩ quan cảnh sát Howard Wagner. Nhưng đây là vụ làm ăn cuối cùng của băng Dillinger.
Ngày 22/7/1934, John Dillinger, cô bạn gái Hamilton và cả bà Sage (chủ nhà trọ) cùng rủ nhau đi xem bộ phim Manhattan Melodrama có Clark Gable thủ vai chính. Do đã quy ước sẵn, bà Sage mặc váy đỏ để cảnh sát dễ nhận ra. Khi bộ phim kết thúc vào lúc 21 giờ, cả ba cùng ra khỏi rạp. Khi bà Sage giả vờ đánh rơi chiếc găng tay rồi lùi lại để lấy, các nhân viên cảnh sát đồng loạt rút súng ra. Dillinger phát hiện ngay và bỏ chạy nhưng đã quá muộn. Bị 4 viên đạn găm vào ngực, John Dillinger chết ngay trên đường đến bệnh viện.
Ngay sau thành công này, thanh tra Melvin Pervis cùng các nhân viên của mình được mời đến Washington và được đích thân Edgar Hoover đón tiếp. Ngài giám đốc FBI đã phải thốt lên: Nhân danh toàn bộ lực lượng cảnh sát nước Mỹ, tôi xin cảm ơn các bạn! Các bạn đã biết cách khôi phục lại danh dự cho chúng ta.
Tính ra, John Dillinger đã tổ chức tổng cộng 56 vụ cướp khác nhau, bắn chết 10 người và làm bị thương 7 người khác. Tên cướp dã man này được chôn trong hầm mộ gia đình vào ngày 25/7/1934 tại nghĩa trang Crown Hill (Indianapolis). Có đến gần 5.000 người tới chứng kiến cảnh chôn cất này. Cả nước Mỹ thở phào nhẹ nhõm, đã loại ra được tên cướp ngang hàng với những tên tội phạm hàng đầu như Jaccy James và Al Capone bị lịch sử Mỹ nguyền rủa.
(ST).
Cái danh hiệu khá kêu này được đích thân Giám đốc Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) Edgar Hoover đặt cho John Herbert Dillinger - tên tội phạm được coi là liều mạng nhất, khát máu nhất, tàn nhẫn nhất, khôn ngoan nhất, nhanh nhẹn nhất và không thể bắt được trong lịch sử nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX.
Cũng như một số tên cướp nguy hiểm khác như Bonnie Parker và Clyde Burrow, Dillinger chuyên tiến hành những vụ cướp ngân hàng và trong một thời gian ngắn đã trở thành mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Mỹ...
John Dillinger sinh ngày 22/6/1903 tại ngoại ô Oak Hill của Indianapolis. Hồi nhỏ, John là một cậu bé nhanh nhẹn, cởi mở và dễ thương. Nhưng những ngày tháng hạnh phúc của thời thơ ấu vô tư đã nhanh chóng kết thúc: khi mới 3 tuổi, mẹ cậu qua đời. Mọi gánh nặng chăm sóc cậu bé dồn lên vai cô chị 17 tuổi Ordi. Sáu năm sau, cha John đi bước nữa, còn cô chị gái Ordi đi lấy chồng. Đến lúc này, môi trường giáo dục của John chính là... đường phố. Cậu ta thường xuyên bỏ học và dính dáng vào nhiều vụ đánh nhau. Mới 9 tuổi, John đã lập ra một băng nhóm tội phạm nhí chuyên đánh cắp hàng hóa trên các toa tàu.
Năm 16 tuổi, Dillinger từ bỏ luôn cả cha và mẹ kế lẫn trường học để bắt đầu cuộc sống lang bạt. Năm 20 tuổi, John gia nhập Hải quân Mỹ nhưng sau đó đào ngũ. Lang thang tới Mooresville, Dillinger làm quen và cưới cô gái 16 tuổi Beryl Hovius làm vợ. Nhưng cuộc sống gia đình không ngăn cản nổi những thói quen nổi loạn của Dillinger.
Sau khi gặp gỡ một người bạn cũ là Ed Singleton, cả hai quyết định tổ chức một vụ cướp tại nhà của ông chủ quầy thực phẩm Frank Morgan, người mà theo tin đồn ở thị trấn là có rất nhiều tiền. Dillinger mang theo một khẩu súng lục và cây gậy sắt, bí mật phục sẵn tại nhà Morgan. Khi ông chủ cửa hàng xuất hiện, hắn dùng gậy sắt đập vào đầu ông từ phía sau. Xui cho Dillinger là ông già còn rất khỏe: sau khi ngã, ông còn kịp quay lại giằng được khẩu súng lục ra khỏi tay tên cướp. Một tiếng nổ vang lên do súng bị cướp cò. Tên cướp sợ hãi chạy vội ra ngoài xe của đồng bọn chờ sẵn. Nhưng khi nghe thấy tiếng nổ, Singleton đã nổ máy chuồn trước. Frank Morgan tất nhiên là biết rất rõ kẻ tấn công mình, vì ở cái thị trấn nhỏ bé này mọi người đều biết nhau. Ngay hôm sau, cảnh sát đã tóm được cả Dillinger lẫn Singleton. Dillinger phải nhận bản án 10 năm tù, còn Singleton là 5 năm.
"Học" trong tù
Trong môi trường mới của nhà tù, Dillinger đã có dịp quen biết với rất nhiều thành phần trong giới tội phạm, đặc biệt là Harry Pierpont và Homer Van Meter. Chính Pierpont đã trở thành sư phụ của Dillinger về nghệ thuật ăn trộm cũng như việc nhòm ngó loại tiền nhẹ - tiếng lóng chỉ tiền nằm trong các ngân hàng. Nhưng Dillinger vẫn còn phân vân vì muốn quay về sống lương thiện với cô vợ trẻ mà mình rất mực yêu thương. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi hẳn kể từ ngày 20/6/1929, khi Beryl đề nghị ly hôn. Từ đây cuộc đời hắn chuyển sang một chương mới.
Sau khi chuyển đến nhà tù tại thị trấn Michigan-City, bộ ba Pierpont - Meter - Dillinger còn lôi kéo được thêm hai thành viên nữa là Walter Dietrix và German Lamm, một cựu sĩ quan trong quân đội Đức. Chính những kiến thức và kinh nghiệm quân sự của Lamm là cơ sở cho việc soạn thảo các chiến thuật của những tên cướp nhà băng tương lai.
Ngày 22/5/1933, John Dillinger được trả tự do trước thời hạn vì có ý thức cải tạo tốt. Tám năm rưỡi trong tù không hề uổng phí đối với hắn - Dillinger đã trở nên lỳ lợm và táo bạo hơn rất nhiều. Giờ đây, hắn chỉ quan tâm tới tiền và những quyền lực mà nó mang lại.
Băng cướp reo rắc kinh hoàng
Ngay sau khi ra tù, Dillinger đã nhờ đến Mary Kinder là bạn gái của Harry Pierpont để tổ chức cuộc vượt ngục cho các "chiến hữu". Kết quả, ngày 26/9 đã có 10 tên tội phạm trốn thoát khỏi nhà tù Michigan-City, trong đó có Pierpont, Charles McLey, John Hamilton, Walter Dietrix và Rachel Clark. Chính những tên này đã hình thành nên bộ khung cho băng cướp của Dillinger. Tuy nhiên, 4 ngày trước cuộc chạy trốn của đồng bọn, Dillinger lại bị bắt giữ tại thành phố Dayton (bang Ohio) và được đưa tới nhà tù ở thành phố Lima. Thế là mục đích phi vụ đầu tiên của nhóm cướp mới thành lập là giải cứu cho thủ lĩnh của mình.
Ngày 12/10, 3 tên Harry Pierpont, Charles Mcley và Rachel Clark giả dạng là nhân viên FBI đột nhập đồn cảnh sát khu vực ở Lima. Sau khi bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber, chúng phá khóa giải cứu cho Dillinger và nhanh chóng chuồn mất. Để có nhiều vũ khí cho những vụ cướp ngân hàng, nhóm của Dillinger còn táo tợn đột kích vào các đồn cảnh sát. Chỉ sau hai vụ tấn công, Dillinger và tay chân đã có cả một đống vũ khí.
Lúc này, chúng bắt đầu đẩy mạnh hoạt động. Chỉ một thời gian rong ruổi trên đất Indiana, cái tên Dillinger đã trở thành nỗi kinh hoàng của giới nhà băng và những người giàu có. Ngày 23/10/1933, một nhóm do Dillinger cầm đầu đã tổ chức tấn công Central National Bank và cướp đi 75 ngàn USD. Cùng lúc đó, nhóm thứ hai cũng xông vào dọn sạch First National Bank tại thị trấn Brainerd (Minnesota). Chỉ trong một ngày, Dillinger và đồng bọn đã bỏ túi hơn 100 ngàn USD.
Ngày 20/10, Dillinger cùng các chiến hữu tấn công American Bank and Trust Company lấy đi 27 ngàn USD. Trong khi đấu súng, chúng đã bắn bị thương trung sĩ Wilbur Hansen và thủ quỹ Harry Graham.
Đến vụ tấn công First National Bank tại East-Chicago ngày 15/1/1934, Dilligan đã thẳng tay bắn chết viên cảnh sát Wiliam Patrik O"Melly. Sự kiện này đã khóa chặt con đường sống của Dilliger vì hắn biết: sát hại một cảnh sát chắc chắn sẽ nhận bản án lên ghế điện.
Chiến dịch săn lùng và kết cục của tên cướp
Tháng 10/1933, lo sợ trước sự hoành hành của băng cướp, Thống đốc bang Indiana đã phải kêu gọi đến sự giúp đỡ của cả vệ binh quốc gia. Tham gia vào việc truy lùng Dillinger còn có cả Giám đốc Cục Điều tra liên bang Edgar. Ông này còn cử riêng một bộ phận tới 3.000 người để giúp đỡ cảnh sát. Họ đã tổ chức lùng sục nhằm truy tìm Dillinger suốt ngày đêm nhưng không có kết quả. Tình hình phức tạp đến nỗi, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chỉ thị cho Viện trưởng Viện Kiểm sát thông qua những biện pháp đặc biệt bằng mọi cách phải tiêu diệt nhóm cướp của Dillinger.
Sau vụ cướp ngân hàng East Chicago, nhóm của Dillinger chuyển tới thành phố Tucson (Arizona), nghỉ ngơi trong một khách sạn sang trọng dưới những cái tên giả. Chính tại đây đã xảy ra một chuyện bất ngờ nằm ngoài dự tính. Vào một đêm, khi bọn cướp đang ngủ say thì khách sạn bị cháy vì chập điện. Nhân viên cứu hỏa James Friman đã đập vỡ cánh cửa gian phòng, cứu Dillinger và tay chân của hắn. Trước khi bước lên xe cứu thương vào bệnh viện, Dillinger còn hào phóng tặng cho ân nhân của mình một khoản tiền không hề nhỏ.
Về tới nhà, Friman mới biết là mình đã cứu chính Dillinger sau khi nhìn thấy hình của hắn trong một cuốn tạp chí. Thế là một cú điện thoại nhanh chóng được gọi tới đồn cảnh sát khu vực. Cảnh sát trưởng George Hanter khi nghe được thông tin trên đã nhanh chóng cùng các đồng sự tới bệnh viện để xác minh và đã làm được một việc mà lực lượng cảnh sát điều tra gần như bất lực - đó là bắt giữ Dillinger và đồng bọn. Ba tên trong số này - Pierpont, Mcley và Clark - được áp giải tới Lima, nơi chúng đã bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber. Còn Dillinger được chuyển tới nhà tù Crown Point, Indiana bằng máy bay. Áp giải hắn tới sân bay Chicago là lực lượng hùng hậu bao gồm 85 cảnh sát đi trên 13 chiếc xe hơi và 12 môtô. Người dân Mỹ vui mừng thở phào và chỉ chờ ngày Dillinger lên ghế điện.
Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. Ngày 3/3/1934, sử dụng một cây súng gỗ do luật sư Luis Pike lén trao từ trước, Dillinger đã dọa được viên cai ngục để lấy chìa khóa trốn ra ngoài. Trong lúc này, nhiều đồng bọn trong băng cướp của Dillinger cũng đã bị sa lưới. Riêng Pierpont phải kết thúc cuộc đời trên ghế điện, Mcley phải nhận một viên đạn vào lưng trong lúc chạy trốn, còn Clark phải ngồi tù cho đến hết đời.
Ngày 22/4, thanh tra Pervis nhận được thông báo, Dillinger và đồng bọn đang có mặt tại hồ Michigan (ngoại ô Chicago). Bốn chiếc xe bọc thép lợi dụng màn đêm bí mật bao vây một khách sạn nhỏ. Cảnh sát và các nhân viên FBI xiết chặt vòng vây xung quanh. Ngay khi xuất hiện 3 người đàn ông vừa bước ra khỏi bậc tam cấp, cả một lưới đạn dày đặc đã bao trùm lấy họ. Những xác chết sau đó hóa ra là ba người khách trọ xấu số của khách sạn tình cờ ra ngoài để hút thuốc. Những nạn nhân vô tội này được liệt vào danh sách những kẻ bị săn lùng không cần khoan hồng. Thật ra, trong thời gian cảnh sát khai hỏa có một tên cướp bị thương nặng là John Hamilton.
Bị săn lùng ráo riết, Dillinger quyết định phẫu thuật để thay đổi diện mạo. Giúp đỡ hắn là hai chuyên gia phẫu thuật từng có quá khứ tội phạm là Vilhelm Loser và Harold Cassidi với khoản tiền công 5.000 USD. Dillinger được hạ bớt mũi, nới rộng gò má và cằm. Vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 31 của mình (22/6), Dillinger chính thức được các nhà chức trách tuyên bố là kẻ thù số 1 của xã hội cùng với khoản tiền thưởng cho ai diệt được hắn là 20 ngàn USD.
Trưa ngày 30/6, Dillinger cùng 3 tên đồng bọn khác lại tấn công Merchant"s National Bank cướp đi 30 ngàn USD cùng với mạng sống của viên sĩ quan cảnh sát Howard Wagner. Nhưng đây là vụ làm ăn cuối cùng của băng Dillinger.
Ngày 22/7/1934, John Dillinger, cô bạn gái Hamilton và cả bà Sage (chủ nhà trọ) cùng rủ nhau đi xem bộ phim Manhattan Melodrama có Clark Gable thủ vai chính. Do đã quy ước sẵn, bà Sage mặc váy đỏ để cảnh sát dễ nhận ra. Khi bộ phim kết thúc vào lúc 21 giờ, cả ba cùng ra khỏi rạp. Khi bà Sage giả vờ đánh rơi chiếc găng tay rồi lùi lại để lấy, các nhân viên cảnh sát đồng loạt rút súng ra. Dillinger phát hiện ngay và bỏ chạy nhưng đã quá muộn. Bị 4 viên đạn găm vào ngực, John Dillinger chết ngay trên đường đến bệnh viện.
Ngay sau thành công này, thanh tra Melvin Pervis cùng các nhân viên của mình được mời đến Washington và được đích thân Edgar Hoover đón tiếp. Ngài giám đốc FBI đã phải thốt lên: Nhân danh toàn bộ lực lượng cảnh sát nước Mỹ, tôi xin cảm ơn các bạn! Các bạn đã biết cách khôi phục lại danh dự cho chúng ta.
Tính ra, John Dillinger đã tổ chức tổng cộng 56 vụ cướp khác nhau, bắn chết 10 người và làm bị thương 7 người khác. Tên cướp dã man này được chôn trong hầm mộ gia đình vào ngày 25/7/1934 tại nghĩa trang Crown Hill (Indianapolis). Có đến gần 5.000 người tới chứng kiến cảnh chôn cất này. Cả nước Mỹ thở phào nhẹ nhõm, đã loại ra được tên cướp ngang hàng với những tên tội phạm hàng đầu như Jaccy James và Al Capone bị lịch sử Mỹ nguyền rủa.
(ST).