taituthattinh
25-08-2009, 03:24 AM
Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18,đầu thế kỷ 19.Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm.Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Hồ xuân Hương...Đánh Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đét đồn lên đánh cuộc cờ người.(-->không phải Đốt đèn lên...).
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng,quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà,chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí,thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu,thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn,song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhi ều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
Bà là một phụ nữ thông minh,có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm,bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn,các nhà nho.Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Hồ xuân Hương...chơi Đánh đu
Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh,kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi,lỗ bỏ không.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh.Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng,hai lần đều làm lẽ,cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc.(Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng:Tổng Cóc,Ông Phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Hồ xuân Hương sống trong...Cảnh làm lẽ
Kẻ đắp chăn bông,kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa,nên chăng chớ,*
Một tháng đôi lần,có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi,xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn,mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Hồ xuân Hương giống...cái Bánh trôi nước
Thân em vừa trắng,lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn.
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(-->Hồi mình đi học thì là ''rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn...'' )
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi.Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác,nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương.Dựa vào một số tài liệu lưu truyền và những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương,các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi,huyện Quỳnh Lưu,tỉnh Nghệ An.Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi,huyện Quỳnh Lưu,Nghệ An (*).Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái.Nhà nghèo không thể tiếp tục học,ông ra dạy học ở Hải Hưng,Hà Bắc để kiếm sống.Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
(*) Nhưng theo một tài liệu mới được công bố (trên tạp chí Văn học số 10- 1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trần Thanh Mại thì Hồ Xuân Hương có cùng quê quán,nhưng là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783),em cùng cha với Hồ Sĩ Ðống (1738-1786).
Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn,tức cuối thế kỷ 18,đầu thế kỷ 19.Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều,đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.Năm 1962,ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long.Đến năm 1983,giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm:Độ Hoa Phong,Hải ốc trù,Nhãn phóng thanh,Trạo ca thanh,Thuỷ vân hương ) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long đăng trên tập san Khoa học xã hội tại Paris vào năm 1984.Năm 1964,nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ tên là Lưu hương ký 琉香記,theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương.
Hồ xuân Hương...Đánh Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đét đồn lên đánh cuộc cờ người.(-->không phải Đốt đèn lên...).
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng,quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà,chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí,thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu,thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn,song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhi ều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
Bà là một phụ nữ thông minh,có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm,bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn,các nhà nho.Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Hồ xuân Hương...chơi Đánh đu
Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh,kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi,lỗ bỏ không.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh.Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng,hai lần đều làm lẽ,cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc.(Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng:Tổng Cóc,Ông Phủ Vĩnh Tường và Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Hồ xuân Hương sống trong...Cảnh làm lẽ
Kẻ đắp chăn bông,kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa,nên chăng chớ,*
Một tháng đôi lần,có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi,xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn,mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Hồ xuân Hương giống...cái Bánh trôi nước
Thân em vừa trắng,lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn.
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(-->Hồi mình đi học thì là ''rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn...'' )
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi.Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác,nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương.Dựa vào một số tài liệu lưu truyền và những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương,các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi,huyện Quỳnh Lưu,tỉnh Nghệ An.Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi,huyện Quỳnh Lưu,Nghệ An (*).Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái.Nhà nghèo không thể tiếp tục học,ông ra dạy học ở Hải Hưng,Hà Bắc để kiếm sống.Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
(*) Nhưng theo một tài liệu mới được công bố (trên tạp chí Văn học số 10- 1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trần Thanh Mại thì Hồ Xuân Hương có cùng quê quán,nhưng là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783),em cùng cha với Hồ Sĩ Ðống (1738-1786).
Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn,tức cuối thế kỷ 18,đầu thế kỷ 19.Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều,đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.Năm 1962,ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long.Đến năm 1983,giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm:Độ Hoa Phong,Hải ốc trù,Nhãn phóng thanh,Trạo ca thanh,Thuỷ vân hương ) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long đăng trên tập san Khoa học xã hội tại Paris vào năm 1984.Năm 1964,nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ tên là Lưu hương ký 琉香記,theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương.