themgaidep
14-06-2009, 11:47 AM
Từ xưa, cờ Tướng đã trở thành một đề tài thơ ca rất phong phú của văn học Việt Nam. Nhiều nhà thơ lớn thời xưa đã có những bài thơ rất hay cảm hứng về việc chơi cờ. Lê Thánh Tông (1442-1497) ông vua thi sĩ - bác học cũng để lại hai bài thơ chữ Hán "Tượng Kỳ".
Dưới đây là bản dịch thơ sang tiếng Việt (của Ngô Linh Ngọc):
Cờ Tướng (bài 1)
Trại địch ken đầy, dọa nuốt tươi,
Bàn cờ lo tính mãi khôn nguôi!
Công danh dẫu chẳng đầy tay nắm,
Thua được thường luôn trước mắt coi.
Ngoài dóng ngựa, xe, ngừa đuổi giặc,
Trong dàn sĩ, tượng, giữ yên ngôi.
Muốn quên gươm giáo nhưng còn ngại
Lệch chuộng đường "văn", việc "võ" lơi!
Cờ Tướng (bài 2)
Trên bàn cờ gỗ trận bầy xong,
Sĩ tượng quây tròn giữ "cửu cung";
Cặp ngựa bay nghiêng, quen ngả tiến,
Đôi xe lặng tiếng, thẳng đường dong
Âm lăng, Sở Bá nguy khôn đọ,
Xích Bích, Chu lang thế rõ hùng;
Tan trận, sông dài xe, pháo hết,
Trơ bầy Tốt hỉn múa lông nhông!
Qua hai bài thơ này, Lê Thánh Tông miêu tả rõ ràng bàn cờ Tướng với đủ các binh chủng tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt và các tính năng tác dụng và cách đi quân của chúng: sĩ, tượng bảo vệ cung tướng (đại tướng doanh); mã đi chéo theo hình chữ "nhật"; xe đi thẳng... và ông thấy: cờ Tướng chỉ là một môn đấu trí vui chơi, nhưng việc thắng bại luôn bầy ra trước mắt con người, nhắc nhở việc giữ nước, chống ngoại xâm, không được một phút nào buôn lơi "việc võ". Nhưng đó cũng là việc bất đắc dĩ, thâm tâm ông không ưa gì chiến tranh, vì chiến tranh làm cho tàn nhân, hại vật, cản trở bước tiến xã hội.
(St)
Dưới đây là bản dịch thơ sang tiếng Việt (của Ngô Linh Ngọc):
Cờ Tướng (bài 1)
Trại địch ken đầy, dọa nuốt tươi,
Bàn cờ lo tính mãi khôn nguôi!
Công danh dẫu chẳng đầy tay nắm,
Thua được thường luôn trước mắt coi.
Ngoài dóng ngựa, xe, ngừa đuổi giặc,
Trong dàn sĩ, tượng, giữ yên ngôi.
Muốn quên gươm giáo nhưng còn ngại
Lệch chuộng đường "văn", việc "võ" lơi!
Cờ Tướng (bài 2)
Trên bàn cờ gỗ trận bầy xong,
Sĩ tượng quây tròn giữ "cửu cung";
Cặp ngựa bay nghiêng, quen ngả tiến,
Đôi xe lặng tiếng, thẳng đường dong
Âm lăng, Sở Bá nguy khôn đọ,
Xích Bích, Chu lang thế rõ hùng;
Tan trận, sông dài xe, pháo hết,
Trơ bầy Tốt hỉn múa lông nhông!
Qua hai bài thơ này, Lê Thánh Tông miêu tả rõ ràng bàn cờ Tướng với đủ các binh chủng tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt và các tính năng tác dụng và cách đi quân của chúng: sĩ, tượng bảo vệ cung tướng (đại tướng doanh); mã đi chéo theo hình chữ "nhật"; xe đi thẳng... và ông thấy: cờ Tướng chỉ là một môn đấu trí vui chơi, nhưng việc thắng bại luôn bầy ra trước mắt con người, nhắc nhở việc giữ nước, chống ngoại xâm, không được một phút nào buôn lơi "việc võ". Nhưng đó cũng là việc bất đắc dĩ, thâm tâm ông không ưa gì chiến tranh, vì chiến tranh làm cho tàn nhân, hại vật, cản trở bước tiến xã hội.
(St)