Lâm Đệ
25-09-2012, 09:52 PM
Đúng đêm Nguyên tiêu, sân nhà Thái Miếu được trang trí lộng lẫy, khắp nơi kết đèn hoa sáng rực. Tài tử giai nhân khắp kinh thành ăn mặc lòe loẹt kéo tới đông như trảy hội. Các phường nhạc hay nhất nước được tuyển chọn đến để hầu thánh nhĩ (tai vua). Quan thái úy đích thân đứng ra đọc diễn văn khai mạc. Đại khái tập trung ca ngợi sự nghiệp vẻ vang của Việt vương. Bài diễn văn có đoạn viết (những chỗ trong ngoặc đều là dẫn tư tưởng Khổng Tử):
“Đại vương ta, khởi sự từ Lễ (“lập ư lễ”), đã làm nên những chiến công vô cùng hiển hách, từ xưa tới nay chưa có bao giờ… Tiếp theo, Ngài chấn hưng văn hoá, vỗ về muôn dân, làm cho nước ta trở thành một nước văn hiến (“hưng ư thi”). Nay chính là lúc mà các thành tựu của Ngài đã đạt đến mĩ mãn (“thành ư nhạc”), cũng là lúc chúng ta thay mặt cả nước tổ chức đêm quốc nhạc này để tỏ lòng đời đời biết ơn…”
Thế rồi hết điệu nhạc này đến điệu nhạc khác được đem ra trình diễn. Cứ mỗi điệu nhạc lại có mười sáu thiếu nữ đẹp như tiên sa, trang phục bay bướm như những cánh hạc ở đâu xuất hiện. Có khi từ hai bên cánh gà, có khi dòng dây thả từ trên trời xuống… Những “nàng” chim hạc này vừa xuất hiện, lập tức sắp thành hai hàng, múa lượn theo điệu nhạc cực kì điêu luyện, kết hợp với ánh đèn mờ ảo làm cho không khí đêm nhạc đượm vẻ Bồng Lai, cung Quảng, khiến người xem vỗ tay không ngớt. Nhiều kẻ phải lắc đầu lè lưỡi. Tất nhiên Việt vương vô cùng hài lòng. Ngài luôn tay ban rượu thưởng cho các quan đứng hầu hai bên
Ngày hôm sau, Việt vương ra thiết triều, các quan tiến lên dâng biểu chúc mừng. Người nào cũng hết lời ca ngợi những điệu nhạc mà Việt vương nghe tối hôm qua. Rằng những điệu ấy còn hay hơn điệu nhạc mà vua nước Tấn được nghe ngày trước. Ngay cả 16 con chim hạc cũng lộng lẫy chẳng kém gì… Bỗng ở cuối hàng bên tả có một người bước ra, phủ phục xuống đất. Việt vương nhìn xem ai thì ra một vị quan thuộc hàng bét phẩm họ Thân tên Cô. Thân Cô dập đầu tâu:
“Thần càng nghe các quan ca ngợi thì càng lấy làm nguy cho đại vương lắm. Họ chỉ nhắc lại việc vua nước Tấn ngày trước sướng tai vì nghe nhạc, mà giấu nhẹm cái việc vua nước Tấn chết vì nghe nhạc. Nước Tấn chẳng bao lâu sau đó cũng mất, khởi sự cũng từ cái việc nghe nhạc ấy. Nay thần xin liều chết kể lại toàn bộ câu chuyện ấy ra đây. Cúi xin đại vương minh xét…” Tiếp đó, Thân Cô liền kể lại câu chuyện của vua nước Tấn ngày trước (chuyện này về sau có chép trong sách Đông Chu của Phùng Mộng Long tiên sinh. Nhân tiện xin phép trích những chỗ cần thiết ra đây để thay cho lời kể của Thân Cô, tuy cũng có sửa chữa chút đỉnh, ). Nội dung câu chuyện như sau:
“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng – một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:
“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”
Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.
Tấn Bình công nức nở:
”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc”. Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”
Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:
“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?
Tấn Bình công bảo:
“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”
Sư Khoáng nói:
“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi…”
Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước… Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống…
Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất…”
Việt vương nghe Thân Cô kể đến đây thì hoảng hốt rụng rời, ngồi chết lặng đi hồi lâu. Sực nhớ lại câu chuyện suýt chết đuối ngày trước, Việt vương biết mình cũng thuộc hạng bạc đức. Nay trót tin lời lũ nịnh hót mà say sưa đi nghe âm nhạc như thế. Không khéo cũng gặp phải tai vạ như Tấn Bình công thì uổng cả công gây dựng sự nghiệp. Càng nghĩ, Việt vương càng lo sợ, đến nỗi tâm thần bấn loạn, luống cuống không biết nên phải làm thế nào bây giờ? Vừa lúc ấy, cuối hàng bên hữu lại có một người khác bước ra. Mọi người nhìn xem thì là một viên quan cũng thuộc hàng bét phẩm tên là Thế Cô. Thế Cô tâu:
“Câu chuyện mà ngài Thân Cô đây vừa kể quả không sai. Thần cũng đã từng được nghe việc ấy. Song trên đời còn có một bậc Thánh nhân là Khổng Tử, hiện đang ở nước Lỗ. Sao đại vương không sai người sang cầu khẩn Ngài, để Ngài chỉ cho cách về mà tạ lỗi các thần. May ra thì tránh được tai vạ.”
Việt vương nghe nói, tức thì mừng rỡ như bắt được của, bao nhiêu lo sợ tạm thời lui qua một bên. Lập tức sai ngay Thế Cô tìm đường đi gấp sang nước Lỗ, đem theo lễ vật đến cầu kiến Khổng Tử.
Thế Cô tới nước Lỗ, tìm đến xin ra mắt Khổng Tử. Gặp lúc Khổng Tử đang đóng cửa san định kinh sách. Ngài dặn các học trò không tiếp bất cứ người nào. Thế Cô thấy vậy giật mình hoảng hốt, nghĩ lo cho vua Việt quá. Sợ chờ lâu sẽ không kịp. Bèn học theo cách của Thân Bao Tư nước Sở ngày trước, cứ đứng ngoài cửa Khổng gào khóc suốt đêm. Quả nhiên Khổng Tử phải sai học trò ra mở cổng cho vào. Thế Cô đem lễ vật trình lên rồi quỳ xuống tâu:
“Đại vương tôi biết mình bạc đức. Song tiết Nguyên tiêu vừa rồi, trót theo lời bọn lưu manh cơ hội, cùng với lũ con buôn xu nịnh mà đi nghe nhạc ở sân nhà Thái miếu. Khi trở về mới sực nhớ lại câu chuyện của Tấn Bình công ngày trước. Từ đó rất lấy làm lo sợ. Vậy nên sai tôi đến đây hỏi Phu Tử xem có cách gì để tạ lỗi các thần?”
Khổng Tử nghe Thế Cô nói xong, quay sang bảo các học trò:
“Các ngươi đã từng nghe nói ở nước Việt bây giờ, có điệu nhạc nào bằng điệu “Thanh dốc” ngày xưa hay không?”
Rồi quay lại phía Thế Cô, Ngài điềm nhiên trả lời:
“Kẻ bạc đức chỉ không nên nghe “thánh nhạc” mà thôi. Nay vua nước Việt tuy cũng thuộc hạng bạc đức, song những thứ nhạc ấy đều do bọn “bạc nhạc” làm ra cả. “Bạc đức” mà nghe “bạc nhạc” thì có gì phải lo ngại. Về bảo vua nước Việt chả cần phải sợ hãi, cứ việc gối cao đầu mà hưởng phú quý.”(st)
“Đại vương ta, khởi sự từ Lễ (“lập ư lễ”), đã làm nên những chiến công vô cùng hiển hách, từ xưa tới nay chưa có bao giờ… Tiếp theo, Ngài chấn hưng văn hoá, vỗ về muôn dân, làm cho nước ta trở thành một nước văn hiến (“hưng ư thi”). Nay chính là lúc mà các thành tựu của Ngài đã đạt đến mĩ mãn (“thành ư nhạc”), cũng là lúc chúng ta thay mặt cả nước tổ chức đêm quốc nhạc này để tỏ lòng đời đời biết ơn…”
Thế rồi hết điệu nhạc này đến điệu nhạc khác được đem ra trình diễn. Cứ mỗi điệu nhạc lại có mười sáu thiếu nữ đẹp như tiên sa, trang phục bay bướm như những cánh hạc ở đâu xuất hiện. Có khi từ hai bên cánh gà, có khi dòng dây thả từ trên trời xuống… Những “nàng” chim hạc này vừa xuất hiện, lập tức sắp thành hai hàng, múa lượn theo điệu nhạc cực kì điêu luyện, kết hợp với ánh đèn mờ ảo làm cho không khí đêm nhạc đượm vẻ Bồng Lai, cung Quảng, khiến người xem vỗ tay không ngớt. Nhiều kẻ phải lắc đầu lè lưỡi. Tất nhiên Việt vương vô cùng hài lòng. Ngài luôn tay ban rượu thưởng cho các quan đứng hầu hai bên
Ngày hôm sau, Việt vương ra thiết triều, các quan tiến lên dâng biểu chúc mừng. Người nào cũng hết lời ca ngợi những điệu nhạc mà Việt vương nghe tối hôm qua. Rằng những điệu ấy còn hay hơn điệu nhạc mà vua nước Tấn được nghe ngày trước. Ngay cả 16 con chim hạc cũng lộng lẫy chẳng kém gì… Bỗng ở cuối hàng bên tả có một người bước ra, phủ phục xuống đất. Việt vương nhìn xem ai thì ra một vị quan thuộc hàng bét phẩm họ Thân tên Cô. Thân Cô dập đầu tâu:
“Thần càng nghe các quan ca ngợi thì càng lấy làm nguy cho đại vương lắm. Họ chỉ nhắc lại việc vua nước Tấn ngày trước sướng tai vì nghe nhạc, mà giấu nhẹm cái việc vua nước Tấn chết vì nghe nhạc. Nước Tấn chẳng bao lâu sau đó cũng mất, khởi sự cũng từ cái việc nghe nhạc ấy. Nay thần xin liều chết kể lại toàn bộ câu chuyện ấy ra đây. Cúi xin đại vương minh xét…” Tiếp đó, Thân Cô liền kể lại câu chuyện của vua nước Tấn ngày trước (chuyện này về sau có chép trong sách Đông Chu của Phùng Mộng Long tiên sinh. Nhân tiện xin phép trích những chỗ cần thiết ra đây để thay cho lời kể của Thân Cô, tuy cũng có sửa chữa chút đỉnh, ). Nội dung câu chuyện như sau:
“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng – một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:
“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”
Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.
Tấn Bình công nức nở:
”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc”. Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”
Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:
“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?
Tấn Bình công bảo:
“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”
Sư Khoáng nói:
“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi…”
Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước… Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống…
Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất…”
Việt vương nghe Thân Cô kể đến đây thì hoảng hốt rụng rời, ngồi chết lặng đi hồi lâu. Sực nhớ lại câu chuyện suýt chết đuối ngày trước, Việt vương biết mình cũng thuộc hạng bạc đức. Nay trót tin lời lũ nịnh hót mà say sưa đi nghe âm nhạc như thế. Không khéo cũng gặp phải tai vạ như Tấn Bình công thì uổng cả công gây dựng sự nghiệp. Càng nghĩ, Việt vương càng lo sợ, đến nỗi tâm thần bấn loạn, luống cuống không biết nên phải làm thế nào bây giờ? Vừa lúc ấy, cuối hàng bên hữu lại có một người khác bước ra. Mọi người nhìn xem thì là một viên quan cũng thuộc hàng bét phẩm tên là Thế Cô. Thế Cô tâu:
“Câu chuyện mà ngài Thân Cô đây vừa kể quả không sai. Thần cũng đã từng được nghe việc ấy. Song trên đời còn có một bậc Thánh nhân là Khổng Tử, hiện đang ở nước Lỗ. Sao đại vương không sai người sang cầu khẩn Ngài, để Ngài chỉ cho cách về mà tạ lỗi các thần. May ra thì tránh được tai vạ.”
Việt vương nghe nói, tức thì mừng rỡ như bắt được của, bao nhiêu lo sợ tạm thời lui qua một bên. Lập tức sai ngay Thế Cô tìm đường đi gấp sang nước Lỗ, đem theo lễ vật đến cầu kiến Khổng Tử.
Thế Cô tới nước Lỗ, tìm đến xin ra mắt Khổng Tử. Gặp lúc Khổng Tử đang đóng cửa san định kinh sách. Ngài dặn các học trò không tiếp bất cứ người nào. Thế Cô thấy vậy giật mình hoảng hốt, nghĩ lo cho vua Việt quá. Sợ chờ lâu sẽ không kịp. Bèn học theo cách của Thân Bao Tư nước Sở ngày trước, cứ đứng ngoài cửa Khổng gào khóc suốt đêm. Quả nhiên Khổng Tử phải sai học trò ra mở cổng cho vào. Thế Cô đem lễ vật trình lên rồi quỳ xuống tâu:
“Đại vương tôi biết mình bạc đức. Song tiết Nguyên tiêu vừa rồi, trót theo lời bọn lưu manh cơ hội, cùng với lũ con buôn xu nịnh mà đi nghe nhạc ở sân nhà Thái miếu. Khi trở về mới sực nhớ lại câu chuyện của Tấn Bình công ngày trước. Từ đó rất lấy làm lo sợ. Vậy nên sai tôi đến đây hỏi Phu Tử xem có cách gì để tạ lỗi các thần?”
Khổng Tử nghe Thế Cô nói xong, quay sang bảo các học trò:
“Các ngươi đã từng nghe nói ở nước Việt bây giờ, có điệu nhạc nào bằng điệu “Thanh dốc” ngày xưa hay không?”
Rồi quay lại phía Thế Cô, Ngài điềm nhiên trả lời:
“Kẻ bạc đức chỉ không nên nghe “thánh nhạc” mà thôi. Nay vua nước Việt tuy cũng thuộc hạng bạc đức, song những thứ nhạc ấy đều do bọn “bạc nhạc” làm ra cả. “Bạc đức” mà nghe “bạc nhạc” thì có gì phải lo ngại. Về bảo vua nước Việt chả cần phải sợ hãi, cứ việc gối cao đầu mà hưởng phú quý.”(st)