Lâm Đệ
30-11-2012, 06:27 AM
Thân tặng các ông Gió Tontu chienkhuD Kt27 và giáo Hoa
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Pundarika Sutra) của Phật giáo, chúng ta cũng thấy câu chuyện ngày trở về của đứa con hoang (Phẩm thứ 4, truyện “cùng tử” ) nhưng truyện đứa con hoang trong kinh Pháp Hoa mang một ý nghĩa thâm sâu, khác hẳn với truyện đứa con hoang trong Thánh kinh Thiên Chúa. Đứa con hoang trong kinh Pháp Hoa trở về nhà cha mà không biết rằng mình đã về nhà cha; như thế sự trở về ấy không thể gọi là sự trở về và sự kiện này đã nói lên sự giải thoát của con người bằng chính nỗ lực riêng tư của mình, còn đứa con trong Thánh kinh thì trở về nhà cha và biết rằng mình trở về nhà cha, hơn nữa sự trở về này là do sự yếu đuối của đứa con.
Sự khác nhau căn bản ở trên đã dẫn đến những chỗ dị đồng khác
Dở lại Phúc Âm Thánh Luc (Chương XV), ta đọc:
Người nọ có hai đứa con trai. Đứa ít tuổi hơn thưa cùng cha: “Xin cha cho con phần gia tài của con”. Người cha liền chia gia tài. Mấy ngày sau đứa con thứ nhặt nhạnh tất cả của cải của mình và đi tới một phương xa đem tiền ra phung phí trong những cuộc chơi bời tửu sắc. Khi y đã tiêu hết tiền thì ở phương ấy bỗng xảy ra nạn đói kém trầm trọng. Y khởi sự thấy thiếu thốn nên phải xin đến giúp việc cho một thế gia trong vùng, người này sai y về ruộng chăn heo. Chàng thanh niên thực muốn nhét đầy bụng thứ đậu dành cho heo ăn mà chẳng ai cho.
Hồi tưởng lại mình, y tự nhủ: Có biết bao nhiêu người làm công trong nhà cha ta có bánh ăn dư thừa mà ta đành chết đói ở đây!... Ta phải chỗi dậy đi tìm cha ta. Ta sẽ thưa cùng người: “Lạy cha, con thực đáng tội với Trời, với cha; con không còn đáng gọi là con của cha nữa; con chỉ xin cha đãi con như người làm công trong nhà”. Chàng bèn chỗi dậy và đi về tìm cha. Từ xa, người cha đã trông thấy chàng. Bối rối vì cảm động, ông chạy ra đón con, ôm chầm lấy cổ con và hôn con luôn mãi. Người con mở đầu: “Thưa cha, con thực đắc tội với Trời, với cha, con không đáng gọi là con của cha nữa.” Song người cha đã kêu bảo tôi tớ: Hãy mau mau đem áo của con ta ra bận cho nó; hãy lấy nhẫn đeo vào tay nó, lấy dép xỏ vào chân nó. Hãy đem một con dê béo ra làm thịt đi! Phải làm một bữa tiệc thật linh đình! Vì con ta đây đã chết, nay lại sống lại, đã lạc nay lại tìm thấy…” Bữa tiệc khoản đãi liền nay lúc ấy…
Bây giờ người con lớn đang ở ngoài đồng. Khi trở về gần tới nhà, người ấy nghe thấy tiếng đàn hát liền gọi một tên đầy tớ lại hỏi cho biết có việc gì. “Em cậu đã trở về rồi! Ông sai mổ bê béo (ăn mừng) vì thấy cậu vẫn được mạnh giỏi!” Người con lớn tức, giận, không chịu vào nhà. Bấy giờ người cha vội ra năn nỉ con. Đứa con ấy nói: “Con vất vả làm việc với cha từ bao nhiêu năm! Không bao giờ con không vâng giữ lời cha. Thế mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê nhỏ để đãi bạn bè. Còn đối với đứa con đã xài phí hết cơ nghiệp cho điếm, thì cha đã vội giết bê béo để ăn mừng, khi nó vừa thoạt trở về!”; người cha liền đáp; “Con ơi! Con ở với cha luôn luôn từ trước đến nay. Những gì của cha đều thuộc của con. Nhưng phải làm tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay lại sống lại, đã lạc nay lại tìm thấy!”
Con cừu đen bao giờ trở về cũng đuợc thuơng yêu
Ai cũng biết André Gide là nhà văn Pháp, giải Nobel năm 1947.
Gide mượn truyện đứa con hoang trong Thánh kinh và viết lại thành một truyện ngắn khác hẳn. Thay vì có hai người con trai như trong Thánh kinh, truyện “Le Retour de l’Enfan Prodigue” của Gide gồm có đến ba người con trai; Gide xoay đổi ý nghĩa khác hẳn.
Gide viết truyện ngày với tấm lòng đau đớn không cùng:
“Lạy Chúa, như một đứa con nít, hôm nay con xin quỳ trước Chúa, mặt đẫm đầy lệ”
Sau một thời gian sống bê tha hoang phí hết tiền bạc, đến lúc quá đói khổ, không thể chịu đựng được nữa, đứa con hoang mới trở về nhà cha, đứng từ đồi cao xa xa, hắn nhìn thấy mái nhà đun khói chiều, nhưng hắn vẫn chưa về nhà, hắn chờ cho tối hẳn mới dám về để màn đêm che giấu sự bần cùng của hắn… Nhưng hắn không thể chịu đựng được nữa, hắn chạy xuống đồi và bước vào sân nhà, chó không nhìn ra hắn và sủa, hắn muốn nói với mấy người đầy tớ nhưng chúng ngờ vực tránh ra chạy đến báo tin cho chủ. Người cha chạy ra dang hai tay đón con và sau đó mở tiệc ăn mừng ngày trở về của đứa con hoang:
“Hỡi con ơi, tại sao con lại lìa cha?”
“Con đã lìa cha thực sao? Thưa Cha. Không phải cha ở khắp nơi sao? Không bao giờ mà con đã không yêu thương cha, không bao giờ…”
“Cha có một ngôi nhà để giữ con. Ngôi nhà được xây cất cho con. Những thế hệ đã làm việc khó nhọc để tâm hồn con có thể tìm nương náu đó, tìm sự xa hoa xứng đáng, sự tiện nghi và việc làm, con là kẻ thừa tự, vậy tại sao con đã trốn thoát bỏ nhà mà đi?”
“Bởi vì Ngôi nhà đã nhốt giam con. Cái Nhà không phải là Cha, Cha ạ.”
“Sau một thời gian ngắn, hỡi đứa con hoang con còn lại những gì?”
“Con còn lại sự hồi nhớ những vui thú khoái lạc ấy.”
“Và sau đó là sự nghèo nàn xơ xác.”
“Trong sự nghèo nàn đó, con cảm thấy gần cha, Cha ạ.”
“Thế thì xa cha, con có hạnh phúc hay không?
“Con không cảm thấy xa cha.”
“Vậy thì những gì đã khiến con trở về đây. Hãy kể cho cha nghe.”
“Con không biết. Có lẽ là sự làm biếng.”
Sau khi đã nói chuyện với cha, đứa con hoang phải đối đáp với người anh cả:
“Hãy kể cho tôi nghe, những gì đã thúc đẩy chú bỏ nhà đi như thế?”
“Em cảm thấy quá rõ ràng rằng Ngôi Nhà không phải là trọn vũ trụ. Em không thể nào mà không mường tượng đến những nền văn hoá khác, những giải đất khác và con đường để chạy đến nơi đó, những con đường chưa ai vạch ra.”
Hết đối đáp với anh cả, đứa con hoang lại nức nở bên cạnh mẹ, người mẹ âu yếm hỏi con:
“Con có nghĩ rằng con sẽ hạnh phúc khi con xa gia đình.”
“Thưa mẹ, con không đi tìm hạnh phúc.”
“Vậy con đã tìm gì?”
“Con đã đi tìm coi… con là ai.”
Sau đó, người mẹ tỏ vẻ lo âu về đứa con út; người mẹ nhờ hắn săn sóc trông nom đứa em út, bởi vì đứa em út cũng có những cử chỉ hành động như anh nó, cũng muốn hoang đàng bỏ nhà đi như anh nó. Tối đêm đó, hắn bước vào phòng ngủ của em út, hai anh em nói chuyện đối đáp với nhau khá lâu, sau cùng đứa em út ấy lại lên đường bỏ nhà cha mẹ mà đi, cũng như hắn ngày xưa. Truyện chấm dứt với lời ân cần nhắn gởi của hắn trước khi đứa em út lên đường:
“Anh ơi… hãy đi chung với em đi.”
“Thôi hãy để anh ở lại! Hãy để anh ở lại! Anh ở lại để an ủi mẹ. Không có anh, em sẽ can đảm hơn. Đến giờ rồi. Trời bắt đầu xanh nhạt rồi. Em hãy đi đừng làm tiếng động. Hãy đi đi em! Hãy hôn anh, đứa em nhỏ của anh, em đang mang theo em tất cả hy vọng của anh. Hãy mạnh em nhé! Hãy quên gia đình. Hãy quên anh. Ước gì em đừng trở về… Hãy bước im lặng. Anh xách đèn cho…”
Thế là Gide vẫn là đứa con hoang và không bao giờ chịu trở về mái nhà cha. Những người bạn thân của Gide như Claudel, Julien Green, Charles du Bos, Jammes đều mong chờ ngày trở về của Gide (tức là theo đạo công giáo) nhưng họ đã thất vọng.
Trong một truyện ngắn cuối cùng, truyện “Thésée”, Gide đã viết, “Tôi vẫn là đứa con của trần gian này… Tôi đã sống trọn vẹn”. Je reste enfant de cette terre… J’ai vécu.
Năm 1951, André Gide từ trần, miệng thì thào: “C’est bien”; tôi nhớ đến Kant, lúc lìa đời, Kant cũng thì thào: “Es ist gut” (C‘est bien).(st)
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Pundarika Sutra) của Phật giáo, chúng ta cũng thấy câu chuyện ngày trở về của đứa con hoang (Phẩm thứ 4, truyện “cùng tử” ) nhưng truyện đứa con hoang trong kinh Pháp Hoa mang một ý nghĩa thâm sâu, khác hẳn với truyện đứa con hoang trong Thánh kinh Thiên Chúa. Đứa con hoang trong kinh Pháp Hoa trở về nhà cha mà không biết rằng mình đã về nhà cha; như thế sự trở về ấy không thể gọi là sự trở về và sự kiện này đã nói lên sự giải thoát của con người bằng chính nỗ lực riêng tư của mình, còn đứa con trong Thánh kinh thì trở về nhà cha và biết rằng mình trở về nhà cha, hơn nữa sự trở về này là do sự yếu đuối của đứa con.
Sự khác nhau căn bản ở trên đã dẫn đến những chỗ dị đồng khác
Dở lại Phúc Âm Thánh Luc (Chương XV), ta đọc:
Người nọ có hai đứa con trai. Đứa ít tuổi hơn thưa cùng cha: “Xin cha cho con phần gia tài của con”. Người cha liền chia gia tài. Mấy ngày sau đứa con thứ nhặt nhạnh tất cả của cải của mình và đi tới một phương xa đem tiền ra phung phí trong những cuộc chơi bời tửu sắc. Khi y đã tiêu hết tiền thì ở phương ấy bỗng xảy ra nạn đói kém trầm trọng. Y khởi sự thấy thiếu thốn nên phải xin đến giúp việc cho một thế gia trong vùng, người này sai y về ruộng chăn heo. Chàng thanh niên thực muốn nhét đầy bụng thứ đậu dành cho heo ăn mà chẳng ai cho.
Hồi tưởng lại mình, y tự nhủ: Có biết bao nhiêu người làm công trong nhà cha ta có bánh ăn dư thừa mà ta đành chết đói ở đây!... Ta phải chỗi dậy đi tìm cha ta. Ta sẽ thưa cùng người: “Lạy cha, con thực đáng tội với Trời, với cha; con không còn đáng gọi là con của cha nữa; con chỉ xin cha đãi con như người làm công trong nhà”. Chàng bèn chỗi dậy và đi về tìm cha. Từ xa, người cha đã trông thấy chàng. Bối rối vì cảm động, ông chạy ra đón con, ôm chầm lấy cổ con và hôn con luôn mãi. Người con mở đầu: “Thưa cha, con thực đắc tội với Trời, với cha, con không đáng gọi là con của cha nữa.” Song người cha đã kêu bảo tôi tớ: Hãy mau mau đem áo của con ta ra bận cho nó; hãy lấy nhẫn đeo vào tay nó, lấy dép xỏ vào chân nó. Hãy đem một con dê béo ra làm thịt đi! Phải làm một bữa tiệc thật linh đình! Vì con ta đây đã chết, nay lại sống lại, đã lạc nay lại tìm thấy…” Bữa tiệc khoản đãi liền nay lúc ấy…
Bây giờ người con lớn đang ở ngoài đồng. Khi trở về gần tới nhà, người ấy nghe thấy tiếng đàn hát liền gọi một tên đầy tớ lại hỏi cho biết có việc gì. “Em cậu đã trở về rồi! Ông sai mổ bê béo (ăn mừng) vì thấy cậu vẫn được mạnh giỏi!” Người con lớn tức, giận, không chịu vào nhà. Bấy giờ người cha vội ra năn nỉ con. Đứa con ấy nói: “Con vất vả làm việc với cha từ bao nhiêu năm! Không bao giờ con không vâng giữ lời cha. Thế mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê nhỏ để đãi bạn bè. Còn đối với đứa con đã xài phí hết cơ nghiệp cho điếm, thì cha đã vội giết bê béo để ăn mừng, khi nó vừa thoạt trở về!”; người cha liền đáp; “Con ơi! Con ở với cha luôn luôn từ trước đến nay. Những gì của cha đều thuộc của con. Nhưng phải làm tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay lại sống lại, đã lạc nay lại tìm thấy!”
Con cừu đen bao giờ trở về cũng đuợc thuơng yêu
Ai cũng biết André Gide là nhà văn Pháp, giải Nobel năm 1947.
Gide mượn truyện đứa con hoang trong Thánh kinh và viết lại thành một truyện ngắn khác hẳn. Thay vì có hai người con trai như trong Thánh kinh, truyện “Le Retour de l’Enfan Prodigue” của Gide gồm có đến ba người con trai; Gide xoay đổi ý nghĩa khác hẳn.
Gide viết truyện ngày với tấm lòng đau đớn không cùng:
“Lạy Chúa, như một đứa con nít, hôm nay con xin quỳ trước Chúa, mặt đẫm đầy lệ”
Sau một thời gian sống bê tha hoang phí hết tiền bạc, đến lúc quá đói khổ, không thể chịu đựng được nữa, đứa con hoang mới trở về nhà cha, đứng từ đồi cao xa xa, hắn nhìn thấy mái nhà đun khói chiều, nhưng hắn vẫn chưa về nhà, hắn chờ cho tối hẳn mới dám về để màn đêm che giấu sự bần cùng của hắn… Nhưng hắn không thể chịu đựng được nữa, hắn chạy xuống đồi và bước vào sân nhà, chó không nhìn ra hắn và sủa, hắn muốn nói với mấy người đầy tớ nhưng chúng ngờ vực tránh ra chạy đến báo tin cho chủ. Người cha chạy ra dang hai tay đón con và sau đó mở tiệc ăn mừng ngày trở về của đứa con hoang:
“Hỡi con ơi, tại sao con lại lìa cha?”
“Con đã lìa cha thực sao? Thưa Cha. Không phải cha ở khắp nơi sao? Không bao giờ mà con đã không yêu thương cha, không bao giờ…”
“Cha có một ngôi nhà để giữ con. Ngôi nhà được xây cất cho con. Những thế hệ đã làm việc khó nhọc để tâm hồn con có thể tìm nương náu đó, tìm sự xa hoa xứng đáng, sự tiện nghi và việc làm, con là kẻ thừa tự, vậy tại sao con đã trốn thoát bỏ nhà mà đi?”
“Bởi vì Ngôi nhà đã nhốt giam con. Cái Nhà không phải là Cha, Cha ạ.”
“Sau một thời gian ngắn, hỡi đứa con hoang con còn lại những gì?”
“Con còn lại sự hồi nhớ những vui thú khoái lạc ấy.”
“Và sau đó là sự nghèo nàn xơ xác.”
“Trong sự nghèo nàn đó, con cảm thấy gần cha, Cha ạ.”
“Thế thì xa cha, con có hạnh phúc hay không?
“Con không cảm thấy xa cha.”
“Vậy thì những gì đã khiến con trở về đây. Hãy kể cho cha nghe.”
“Con không biết. Có lẽ là sự làm biếng.”
Sau khi đã nói chuyện với cha, đứa con hoang phải đối đáp với người anh cả:
“Hãy kể cho tôi nghe, những gì đã thúc đẩy chú bỏ nhà đi như thế?”
“Em cảm thấy quá rõ ràng rằng Ngôi Nhà không phải là trọn vũ trụ. Em không thể nào mà không mường tượng đến những nền văn hoá khác, những giải đất khác và con đường để chạy đến nơi đó, những con đường chưa ai vạch ra.”
Hết đối đáp với anh cả, đứa con hoang lại nức nở bên cạnh mẹ, người mẹ âu yếm hỏi con:
“Con có nghĩ rằng con sẽ hạnh phúc khi con xa gia đình.”
“Thưa mẹ, con không đi tìm hạnh phúc.”
“Vậy con đã tìm gì?”
“Con đã đi tìm coi… con là ai.”
Sau đó, người mẹ tỏ vẻ lo âu về đứa con út; người mẹ nhờ hắn săn sóc trông nom đứa em út, bởi vì đứa em út cũng có những cử chỉ hành động như anh nó, cũng muốn hoang đàng bỏ nhà đi như anh nó. Tối đêm đó, hắn bước vào phòng ngủ của em út, hai anh em nói chuyện đối đáp với nhau khá lâu, sau cùng đứa em út ấy lại lên đường bỏ nhà cha mẹ mà đi, cũng như hắn ngày xưa. Truyện chấm dứt với lời ân cần nhắn gởi của hắn trước khi đứa em út lên đường:
“Anh ơi… hãy đi chung với em đi.”
“Thôi hãy để anh ở lại! Hãy để anh ở lại! Anh ở lại để an ủi mẹ. Không có anh, em sẽ can đảm hơn. Đến giờ rồi. Trời bắt đầu xanh nhạt rồi. Em hãy đi đừng làm tiếng động. Hãy đi đi em! Hãy hôn anh, đứa em nhỏ của anh, em đang mang theo em tất cả hy vọng của anh. Hãy mạnh em nhé! Hãy quên gia đình. Hãy quên anh. Ước gì em đừng trở về… Hãy bước im lặng. Anh xách đèn cho…”
Thế là Gide vẫn là đứa con hoang và không bao giờ chịu trở về mái nhà cha. Những người bạn thân của Gide như Claudel, Julien Green, Charles du Bos, Jammes đều mong chờ ngày trở về của Gide (tức là theo đạo công giáo) nhưng họ đã thất vọng.
Trong một truyện ngắn cuối cùng, truyện “Thésée”, Gide đã viết, “Tôi vẫn là đứa con của trần gian này… Tôi đã sống trọn vẹn”. Je reste enfant de cette terre… J’ai vécu.
Năm 1951, André Gide từ trần, miệng thì thào: “C’est bien”; tôi nhớ đến Kant, lúc lìa đời, Kant cũng thì thào: “Es ist gut” (C‘est bien).(st)