PDA

View Full Version : Anh cu Đất



Lâm Đệ
11-12-2012, 07:15 AM
Anh cu Đất

http://www.qsl.net/v/va2mcf/fleurs%20et%20pierres%20de%20naissance/fleurs%20de%20naissance/narcisse/narcisse1.gif

Thằng Câm chuẩn bị sẵn hai con dao mài sắc như nước, đem giấu kĩ dưới một bè nứa. Một con dài, một con ngắn. Con dao dài nó sẽ dùng để chặt chân con ngựa nhà lão Chu Trưởng Phố. Con dao ngắn dùng để cứa cổ lão Tống Lang Băm. Nó quên mất lão Hố Văn Hoa. Mà thực ra lão Hố Văn Hoa cũng không có trực tiếp động gì đến nó.
Nó định bụng sẽ ra tay khi nó cùng với chuyến bè về đến thị trấn. Nửa tháng bè cập dưới bến để dỡ hàng, nó sẽ tha hồ có thời gian.
Chuyến nào bè cũng về cập nơi ấy. Đó là một thị trấn cuối rừng có cái tên rất đẹp: Phố Châu. Nhưng lại là nơi đã sinh ra lòng căm hận của thằng Câm.
Cách đây hơn chục năm, nó là thằng cu Đất tròn quay, mũm mĩm như một thiên thần. Nó sống với bà Doan, trong một quán nước nhỏ ở ngay trước cổng một ngôi đình của Phố Châu. Bố mẹ nó là ai? Nó không biết. Nó không có bố mẹ. Ngay cái tên là thằng cu Đất, hình như cũng do bà Doan đặt cho nó. Một hôm, bà Doan chỉ về phía cái hang đen ngòm giữa lưng chừng một quả núi tít xa xa mà bảo nó: “thằng cu Đất từ trong cái hang kia về với bà đấy”.
Nó cũng tin như thế. Vậy thì cái hang núi ấy chính là mẹ nó. Thỉnh thoảng nó lại nhìn về phía đó và thầm gọi: “Mẹ ơi...”
Một buổi chiều, có ông già lạ mặt chống cây gậy trúc bước vào quán uống nước. Ông chợt nhìn chăm chú vào mặt cu Đất một lát rồi khẽ lắc đầu. Cử chỉ ấy không lọt qua mắt bà Doan. Bà bảo: “Tôi nuôi nó, tôi biết. Chả việc gì mà cụ phải lắc đầu.” Ông già lạ mặt giật mình quay sang bà Doan, bụng nghĩ nhanh: “Bà lão này chẳng phải tầm thường.” Rồi lảng sang chuyện khác. Ông bảo: “Thời thế này lạ lắm bà ạ. Tôi đi từ đầu phố đến cuối phố, vô tình ngắm phải nhân diện của ai cũng chỉ muốn lắc đầu, không riêng gì cậu bé này mà thôi đâu.” Nói xong, ông buông một tiếng thở dài. Bà Doan vẫn im lặng không nói gì, đôi mắt răn reo nhìn hút về phía xa xa...
Quán nước nhỏ của hai bà cháu thường xuyên có một vị khách đặc biệt. Đó là anh Thi Sĩ. Anh đến đây để uống nước, ngắm núi rừng, ngắm phố và làm thơ. Anh yêu Phố Châu của anh, của mọi nguời lắm. Thằng cu Đất rất mê anh Thi Sĩ. Nó say sưa với những câu chuyện anh kể, nó thuộc lòng những bài thơ anh viết. Nó lớn lên trong những câu chuyện ấy, và những vần thơ ấy của anh...
Trong ngôi đình Phố Châu có một bức tranh tường vẽ ông Thành hoàng ngồi xếp bằng tròn trên một cái chõng, hai chân cụt đến gần đầu gối, lòi cả xương ra. Ông ngồi hơi đổ người về phía trước, một tay chống xuống chõng, tay kia cầm bút đang chăm chú viết vào một tờ sớ trải trước mặt.
Phía dưới, tại vị trí bốn chân chõng là bốn con quỷ đói đang è cổ khênh. Trong gầm chõng còn mấy con nữa cũng đang thập thò...
Hình ảnh thật là sinh động. Một hôm Cu Đất hỏi:
- Bức tranh này nghĩa là gì hở anh?
Anh Thi Sĩ bèn kể cho nó nghe sự tích về ông Thành hoàng ấy:
Đó là ông Thành hoàng của Phố Châu. Thần phả chép ông họ Trần, tên Minh Công, sinh ra đúng vào thời loạn lạc, thật giả mịt mù. Ông vốn là người học hành đỗ đạt, có chút chữ nghĩa. Song vì ghét thói đời ô trọc, giả dối mà không làm quan. Đau đớn trước thời cuộc đểu cáng, kẻ vô học thì ngông nghênh đắc chí, người có chữ thì luồn cúi đê hèn. Dân chúng thì bị bịt mắt, rên xiết dưới ách lầm than... Một hôm ông quyết định viết sớ hạch tội lũ vua quan lưu manh bỉ ổi, đang thi nhau lừa bịp dân lành kia.
Lòng căm giận làm ông ngồi viết say sưa, viết quên cả thời gian, quên cả thân mình. Đến nỗi lũ quỷ đói ở đâu bò tới gặm từng ngón chân ông. Gặm hết hai bàn chân, chúng gặm lên hai ống quyển... Vậy mà ông vẫn không hề hay biết.
Vừa lúc ấy có Quán Thế Âm Bồ Tát đi ngang qua. Nghe thấy tiếng nhai xương rau ráu, Bồ Tát giật mình ngó xuống, trông thấy cảnh ấy thì hết sức kinh ngạc. Ngài bèn dừng mây lại để xem xét. Khi Bồ Tát nhìn đến tờ sớ, đọc thấy những chữ ông viết trên đó thì đùng đùng nổi giận. Bèn gọi lũ quỷ đói tới mắng:
- Lũ ngươi có biết đây là ai không? Đây là một bậc chính nhân quân tử, đang viết sớ vạch tội kẻ xấu để bảo vệ dân lành. Vậy mà lũ ngươi gặm chân người ta, rỉa thịt, hút máu người ta. Thử hỏi lũ ngươi có còn xứng đáng hưởng những tuần nhang cúng dường của thập phương tam đạo nữa hay không?
Lũ quỷ đói bị mắng thì sợ quá, dập đầu lạy như tế sao:
- Muôn trông Bồ Tát mở lượng từ bi. Chúng con quả không biết ông ta đang làm một việc tốt đến như vậy. Bây giờ, việc đã lỡ rồi. Ngài bảo thế nào chúng con cũng xin vâng.
Bồ Tát liền thổi hơi tiên vào chỗ chân bị gặm nham nhở của ông cho lành vết thương, đoạn bẻ một cành dương liễu, làm phép biến ra một cái chõng cho ông họ Trần ngồi. Bồ Tát bắt bốn tên quỷ đói khênh bốn chân chõng. Lại cắt cử thêm mấy tên nữa làm hộ vệ. Ngài dặn từ nay ông Trần muốn đi đâu thì chúng phải khênh ông đi. Cấm không được kêu ca, trễ nải...
Câu chuyện về ông Thành hoàng ấy của Phố Châu làm cu Đất nhớ mãi đến sau này. Anh Thi Sĩ quý cu Đất như cục vàng, bởi nó là độc giả đầu tiên, thậm chí có khi là duy nhất của những câu thơ anh viết:
“Núi thiêng hút hết hồn ai
Để cho tiếng vạc kêu hoài năm canh...”
Thơ của anh có bài buồn, nghe réo rắt như những tiếng than. Nhân tiện xin được dẫn ra đây luôn thể. Bài thơ có tên: “Sao thế - Phố Châu?”:
“Ta như loài hoa dại
Ngơ ngẩn tự ngàn xưa
Mà trời chẳng có mưa
Đất cằn không ai ngó
Ta héo đi trong gió
Ta xơ xác giữa đời
Một mình ta tơi bời
Dưới một trời nói dối
Trong đêm dài tăm tối
Vĩ nhân say diễn trò
Kẻ sĩ mải tung hô
Anh hùng lo chạy trốn
Nhân quần cơn khốn đốn
Hồn ta trôi... đi đâu?”
Bài thơ sau đây có tên: “Xin một lần nói thật”:
“Ta thà ghen với chim trời,
Còn hơn ghen với con người quanh ta.
Con người
toàn những thây ma.
Tưởng
phơn phởn
sống
hóa ra
chết rồi...”
Vân vân... Anh còn viết nhiều bài thơ tình. Song điều đó sau đây sẽ kể.
Cu Đất tuy thuộc đấy, nhưng mãi chục năm sau nó mới hiểu được phần nào. Vậy mà lúc ấy nó vẫn không gặp may. Anh Thi Sĩ không phải là niềm tự hào của Phố Châu. Ngược lại, Phố Châu không cần có anh, Phố Châu ghét cay ghét đắng anh Thi Sĩ. Một hôm, lão Tống Lang Băm nói ngắn gọn: “Cần phải giam cổ cái thằng thi sĩ dở người ấy lại. Nó làm hư Phố Châu mất.” Lão Chu Trưởng Phố cũng ngắn gọn không kém: “Tôi sẽ huy động lực lượng, tôi sẽ đích thân chỉ huy, tôi sẽ chuẩn bị cùm.” Lão Hố Văn Hoa nói dài hơn một chút: “Tôi sẽ tẩy sạch những câu thơ của nó ra khỏi Phố Châu. Phố Châu yêu quí là của chúng ta, của riêng chúng ta. Không ai có quyền yêu cái Phố Châu này, ngoại trừ chúng ta...”)

Lâm Đệ
11-12-2012, 07:17 AM
Anh Thi Sĩ không biết tai họa sắp giáng xuống đầu mình. Anh vẫn đến quán nước của bà Doan để ngâm những câu thơ mới sáng tác:
“Trời
phải chăng cao?
Chim bay lên tới đâu thì lạnh buốt?
Biển
phải chăng sâu?
Cá lặn tới chỗ nào thì bẹp dí?...”
Vừa lúc ấy, đoàn người ngựa dẫn đầu là lão Chu Trưởng Phố rầm rập tiến tới. Từ đằng xa, lão Chu Trưởng Phố đã trỏ roi thét: “Thằng dở người kia, mày hết thời rồi con ạ...” Anh Thi Sĩ sợ quá. Anh buông dở câu thơ, vội vàng nhắm phía rừng ù té chạy.
Cu Đất chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì đã ngã lăn quay. Vừa đúng lúc con ngựa của lão Chu Trưởng Phố lướt qua. Con ngựa xéo nát một bàn chân thằng bé. Cu Đất ôm mối hận què từ đó.
Anh Thi Sĩ cắm đầu chạy. Nhưng anh vẫn vừa chạy, vừa ngâm tiếp mấy câu thơ còn dang dở:
“Lòng Người
phải chăng bao la?
Sao câu thơ của ta chỉ còn là tiếng nấc!”
Đoàn người ngựa rầm rập đuổi sau lưng. Tin truyền về cho lão Tống Lang Băm: “Nó chạy ra khỏi Phố Châu, nó chạy vào rừng rồi.” Lão Tống Lang Băm hỏi: “Nó còn ngâm thơ không?” trả lời: “Còn!” - “Vậy thì tiếp tục đuổi.”
Con đường rừng rẽ làm hai ngả. Bọn đuổi theo còn khuất một khúc ngoặt. Anh Thi Sĩ chợt nhớ tới câu chuyện đuổi nhau ngày trước, bèn cởi nhanh chiếc áo, ném về phía bên phải. Còn anh nhanh chân rẽ về bên trái.
Kế đánh lạc hướng của anh Thi Sĩ chẳng có tác dụng gì. Lão Chu Trưởng Phố chỉ ngần ngừ chút xíu trước ngã ba. Lão ra lệnh chia số người ngựa ra làm hai toán, đuổi theo cả hai phía cho chắc ăn.
Anh Thi Sĩ chạy một hồi vẫn nghe tiếng người ngựa đuổi phía sau. Thế là chỉ còn cách chạy cho mau. Nhưng anh vẫn vừa chạy vừa ngâm thơ:
“Ngươi chọn đi,
hai thứ tự do.
Tự do bỏ chạy?
tự do đeo cùm?...”
Tin lại truyền về cho lão Tống Lang Băm: “Nó quẳng cả áo đi rồi. Nó đang cởi trần mà chạy.” Lão Tống Lang Băm lại hỏi: “Nó còn đọc thơ không?” Trả lời: “Vẫn còn” - “Vậy thì tiếp tục đuổi, đuổi cho bằng được.”
May quá, con đường rừng lại rẽ làm hai ngả. Có hy vọng đây rồi. Anh Thi Sĩ đưa tay xuống cởi chiếc quần dài. Liếc thấy phía sau, bọn đuổi theo còn khuất bởi một khúc cua. Anh quẳng chiếc quần dài về bên trái, đồng thời nhanh chân rẽ sang bên phải.
Lần này cũng chẳng ăn thua gì. Lão Chu Trưởng Phố không cần suy tính. Một nửa lực lượng vẫn còn quá đông. Con đường có rẽ thành trăm ngả thì lão vẫn có đủ người ngựa. Lão lại chia quân ra làm hai toán, nhằm hai ngả đường rừng, tiếp tục đuổi theo.
Chạy một hồi nữa, anh Thi Sĩ vẫn nghe tiếng người ngựa đuổi phía sau lưng. Tất nhiên là chỉ còn cách cắm cổ chạy. Thế mà anh vẫn vừa chạy vừa đọc thơ:
“Đất
Không mang nổi ta rồi
Trời
Không che nổi
phận người mong manh...”
Tin tiếp tục truyền về cho lão Tống Lang Băm: “Nó cởi cả quần dài ném đi rồi, chỉ còn mặc mỗi cái quần đùi. Nhưng nó vẫn chạy rất hăng.” Lão Tống Lang Băm lại hỏi: “Thế nó còn đọc thơ không?” Trả lời: “Nó vẫn tiếp tục đọc” - “Vậy thì vẫn phải đuổi, phải tóm cổ nó cho bằng được.”
Trước mặt lại có ngã ba. Con đường rừng thật là phúc đức. Nó thỉnh thoảng vẫn hé ra một chút hy vọng cho kẻ đang bị săn đuổi. Anh Thi Sĩ hơi ngần ngừ. Song tình thế không cho phép anh nghĩ ngợi lâu. Anh vừa chạy vừa đưa tay xuống, hấp tấp cởi nốt chiếc quần đùi. Rút kinh nghiệm hai lần trước, lần này anh ném quần đùi về phía nào thì chạy luôn theo phía đó.
Tất nhiên là vẫn chẳng lừa được lão Chu Trưởng Phố. Bởi lão tiếp tục chia đôi số người ngựa, đuổi theo cả hai ngả.
Tin lại truyền về cho lão Tống Lang Băm: “Nó cởi nốt cả quần đùi ra rồi. Nó đang trần truồng. Đã nhìn rõ hai mông đít nó trắng hếu. Nó tồng ngồng thế mà chạy còn hăng hơn trước.” Lão Tống Lang Băm lại hỏi: “Thế nó còn đọc thơ không?” Trả lời: “Hình như câm rồi.” - “Vậy thì không cần đuổi nữa. Sẽ có cách để nó không dám thò mặt về Phố Châu của ta.”
Anh Thi Sĩ nghe tiếng người ngựa đã lùi hẳn lại phía xa. Không phải họ bị lừa, mà họ đã dừng lại, đã thả cho anh? Gió rừng quấn lấy anh, mơn trớn anh. Anh cảm thấy hương rừng quyện vào da thịt, dễ chịu vô cùng. Anh ngồi bệt xuống một gốc cây, mặc cho những con kiến bò lên người, cắn vào chỗ hiểm... Những con kiến nhắc cho anh nhớ rằng anh đang trần truồng. Anh ngượng nghịu nhìn xuống thân thể mình, nhìn xung quanh, nhìn trời qua lỗ thủng giữa những tán cây. Bất giác, anh lại đọc thơ. Hy vọng những câu thơ sẽ chữa cho sự lõa lồ của mình:
“Thế gian
là thế gian hùng
Khôn ngoan thì đã?
điên khùng thì chưa?
Thế gian là thế
gian lừa.
Tuyên ngôn
quảng cáo
vứt bừa thế gian.”
Rồi anh tiếp tục:
“Không bắt được thân ta
Chỉ bắt được trang phục của ta.
Không bắt được hồn ta
Chỉ bắt được xương thịt của ta
Thà cho
xương thịt tan tành
Còn hơn
chứng kiến
thơ mình đeo gông...”
Lão Chu Trưởng Phố dẫn đoàn người ngựa trở lại Phố Châu. Xin không kể về anh Thi Sĩ nữa. Cứ để anh trần truồng mà ở lại trong rừng. Hình như đến bây giờ, anh vẫn còn ở đó. Bằng chứng là câu chuyện về anh vẫn chưa có hồi kết. Ngay sau đó, lão Tống Lang Băm huy động toàn đàn bà con gái gác cửa rừng suốt ngày đêm, hy vọng anh Thi Sĩ vì xấu hổ mà không dám mò về Phố Châu nữa. Song hình như không đạt hiệu quả cho lắm. Có những cô gái vẫn lén lút gặp anh. Họ yêu những câu thơ của anh, yêu cả sự trần truồng của anh... Các nhà nghiên cứu bảo: Anh Thi Sĩ không trở thành người rừng chính là nhờ ở những tình yêu ấy!
Đuổi được anh Thi Sĩ rồi, giờ đến việc của lão Hố Văn Hoa. Lão bắt tay vào tẩy những câu thơ của anh Thi Sĩ ra khỏi đầu óc Phố Châu. Thay vào đó là những câu thơ của lão. Những câu thơ mà lão vừa đọc ra đã có khối người khen lấy khen để là tuyệt tác, là chân, là lý này nọ... Cũng phải dẫn ra đây mấy bài thơ của lão để cho nó có hiện thực khách quan:
Từ lối thơ ẩn dụ theo một kiểu nghệ thuật như sau:
“Em ơi cứ ở trên sông
Mai anh lại ghé, tình xong... anh về.
Đợi ngày anh chán, anh chê
Thì em độc lập, hành nghề... tự do...”
Đến những vần thơ hào sảng, đầy khí phách:
“Ta lại nói với Phố Châu yêu quí
Ta sinh ra vì Phố Châu đây
Cả đời ta chỉ nói lời hay
Ta có khối câu thơ làm chứng
Những câu thơ khiến muôn người nổi hứng
Có mặt trời chân lý chiếu qua
Đã một thời nhuộm máu và hoa
Không được quên dù trong khoảnh khắc
Giữa cơn khát, mắt thần ta đã quắc
Là khiến cho muôn vật phải thành than
Là khiến cho kẻ xấu đến lạy van
Những gì khác với ta là xấu hết
Những ngày sống dưới ta là Tết
Chỉ có ta mới mang lại mọi điều
Chỉ có ta mới cần thiết nói nhiều
Không được nghĩ. Không việc gì phải nghĩ
Lời ta nói là những điều tuyệt mĩ
Ta là Cha, là Bác, là Ông
Ta là Anh, là Bạn, là Chồng...
Của vạn kiếp sinh linh khốn khổ
Hãy tin ta, hơn tin vào ông Tổ
Hãy yêu ta, hơn cả bố mẹ mình
Sướng lên đi!
Rú lên đi!
Như đang giữa cuộc tình!”
Đại loại như thế. Vân vân và... vân vân...
Phố Châu ngập ngụa thơ của lão Hố Văn Hoa. Người người thuộc lòng, nhà nhà thuộc lòng. Phố Châu không ai dám nhắc đến thơ của anh Thi Sĩ. Mà cũng chẳng còn chỗ nào để nhớ nữa. Đầu óc mọi người đã chật cứng thơ của lão Hố Văn Hoa rồi. Nhưng có một người thỉnh thoảng vẫn vô tư đọc những câu thơ của anh. Người ấy chính là thằng cu Đất. Không làm sao tẩy được cái thứ thơ đó ra khỏi đầu óc nó. Lão Hố Văn Hoa phàn nàn với lão Chu Trưởng Phố. Lão Chu Trưởng Phố thảo luận với lão Tống Lang Băm. Lão Tống Lang Băm bảo: “Lôi cổ nó đến đây. Ta sẽ làm cho nó thụt lưỡi lại.”
Cu Đất bị điệu đến. Lão Tống Lang Băm cắt một thang thuốc toàn những rễ cây độc. Một tay lão nắm hai tai nó, một tay lão đổ bát thuốc vào mồm. Cu Đất sặc sụa một hồi rồi trợn ngược mắt, cái lưỡi nó thụt sâu vào tận cuống họng. Nó không nói được nữa. Cu Đất mang mối hận câm từ đó. (st) Tiếp theo Gã tình si....