Lâm Đệ
08-01-2013, 11:53 AM
Thân tặng bạn bè
Ngày 25 tháng 8 năm 1055, năm Con Rồng Đực lịch Tạng.
Gia đình vợ chồng thầy phù thuỷ Mila Sharab Gyalten và Karmo Kyen ở vùng Kyang Tsa, sinh hạ đứa hài nhi tên là Thopaga.
Trong máu xương phơi tràn gió tuyết, tiếng khóc xa xưa, vốn được ướp xanh trong ngân hàng băng tuyết vĩnh hằng Himalaya, vọng về thinh không, qua những âm tiết màu thuỷ ngân mani biến ảo theo cái nhìn của núi.
Ánh sáng là thể phách của núi, núi là nhục thể của ánh sáng.
Núi trắng thẳm. Núi xanh lơ. Núi tím sẫm. Núi xám đen. Núi vàng sáng. Có khi núi bỗng gần như giọt lệ bờ mi có lúc núi lại mờ xanh hơi thở bầy trâu Yak thoảng qua trời và âm thanh cũng theo đó mà lan tỏa tuỳ theo quán tưởng của mỗi linh hồn khi đối thoại với Himalaya.
Lão Tử ngày xưa thong dong cỡi trâu vượt qua Tây Tạng sang Tây Trúc, lòng không những không sợ hãi mà nhờ cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, ông mới viết ra Đạo Đức Kinh!
Thuở xa xưa huyền thoại ấy, Lão Tử đã dừng chân trên đỉnh núi này, mắt lắng động sắc màu địa y mượt vàng , tai cuồn cuộn âm thanh vô ngôn trào dâng lên khoé núi, ngồi trên lưng trâu mà lĩnh hội từng sát na phiêu linh của vũ trụ thấm dần qua tâm ào ra thành những dòng đầu tiên của Đạo Đức Kinh truyền lại cho hậu thế!
Cúi đầu núi vừa chớm xanh, ngẩng đầu núi đã tuyết trắng. Đạo trời khó lường thay Lão Tử! Hạnh phúc hay đau khổ, rồi cùng nhau thành hư không toàn tính!
Lão Tử thành mây khói như trạng thái đạo trời không có trạng thái, hình bóng không có hình bóng tồn tại trong thực tại siêu cảm giác còn đứa bé Thopaga đã biến lời LaoTử trở thành sự thật bằng chính cuộc đời thiền ca của mình.
Mồ côi cha từ rất sớm. Gia đình tan nát trước lòng tham lam của họ hàng. Ra đi tìm thầy học phép huyền thuật trở về tung ra những trận mưa đá kinh hồn trả thù làng xóm. Lội qua máu hận thù, Thopaga gặp được Marpa thu nhận làm đệ tử. Nhờ Marpa, cuộc đời của nhà huyền thuật trẻ tuổi Thopaga bắt đầu thay đổi hay nói đúng hơn, lịch sử Phật giáo và thi ca nhân loại có thêm một tiết điệu trầm hùng!
Tên tuổi Marpa có thể sánh danh với cư sỹ Anathapindika ở Ấn Độ. Sinh năm 1012, Marpa được tôn vinh là đại dịch giả Tây Tạng sau ba lần vượt chết đến Ấn độ trở về. Marpa học đạo với thầy Naropa sáu năm. Naropa là một vị hành giả Đại thừa Mật giáo Ân độ, đã truyền Đại Thủ Ấn và kinh Du già lục pháp cho Marpa. Marpa trở lại Tây Tạng, lấy vợ sinh con, sống cuộc đời cày cuốc nhưng không quên dịch thuật kinh sách. Trước khi được Marpa truyền dạy giáo lý huyền bí của phép Đại ấn và Du già, Thopaga phải chịu đựng bao nhiêu khổ hình tưởng chừng muốn chết. Sau tám lần leo lên từ hố thẳm thử thách lòng kiên trì, thật không uổng công nuôi dạy của Marpa, người học trò Thopaga đã đắc đạo và trở thành chưởng môn của giáo phái Kagyu-một trong 4 phái Mật tông lớn nhất ở Tây Tạng! Từ ngày Milarepa ra đi đến nay, đã có 16 vị truyền thừa.
Danh từ Kagyu, tiếng Tạng là bka-bgyud có ý nghĩa “các dòng của 4 vị được uỷ nhiệm” bao gồm dòng “yoga huyễn thân và chuyển thức”, “ yoga đại huyễn và giấc mộng”, “yoga quang minh” và “ yoga nội hoả”, tất cả đều được truyền từ Phật Pháp Thân Vajradhara với giáo huấn Mahamudra Đại Ấn xuyên suốt con đường tâm linh của Kagyu.
Phép Đại ấn là cực điểm của Kim cương thừa được thực hành qua sáu giáo phép nội hoả, huyễn thân, quang minh, chuyển thức và trung ấm để tiến tới hoà hợp với Đại Lạc và Tính Không bằng con đường Thiền định.
Người học trò Rechung kể rằng, khi đã trở thành một đại thành tựu giả, Thopaga đã bay liệng như chim đại bàng trên Himalaya. Đôi mắt Thopaga thấu suốt vũ tru. và tâm linh con người. Đó cũng là lúc Thopaga có tên Milarepa-Vị hành giả mặc áo rách!
Nhưng từ cái tên Thopaga đến Milarepa là một chẳng đường gian lao dữ dội
Milarepa thân trần vào thiền định trong các hang động trên dãy Himalaya không phải là để “khổ hạnh” mà ông luyện phép “nội hoả”.
Phép luyện nội hoả có 4 giai đoạn chính là triệu tỉnh , quán tưởng vị thầy hướng dẫn tâm linh, hoà nhập tâm mình với tâm thầy qua tinh tuý thần chú, an trú trong bản tính tự nhiên. Milarepa đã thực hành và luyện thành công được luồng hoả xà đi qua 5 khu vực trung tâm thần kinh.
Theo quan niệm Phật giáo, con người được giới hạn trong 5 trung khu thần kinh và người Tây Tạng chia chúng thành 3 vùng bao gồm từ cổ lên não, tim và phần dưới là mạng thần kinh thái dương, các cơ quan sinh thực. Chúng ta sẽ nhìn thấy 3 vùng này qua hình ảnh tương quan giữa lực tuyến chính làm trung gian và nhận đón hai lực tuyến thái âm và thái dương mang tính âm dương, tri kiến và sinh sản không khác gì trung khu ở tim nằm trung gian giữa hai vùng trên dưới, là bệ phóng cho các lực hoà hợp ở trung khu cao nhất biểu hiện sự thành tựu một con người toàn thiện. Rõ hơn, 3 vùng trung khu ấy tương quan với 3 bình diện địa cư*, vũ trụ và con người giống như nguyên lý thiên địa nhân hợp nhất trong ý niệm triết học của người Trung Quốc. Con người trở thành chiếc cầu nối hoà hợp giữa các trật tự thiên nhiên và kẻ nào, kinh Bhagavad gita dạy, nhờ đạo yoga được hoà đồng, tiểu ngã của hắn được tinh khiết, quan năng của hắn được chế ngự, kẻ đó được đại ngã soi sáng, nên tiểu ngã của hắn trở thành đại ngã của tất cả muôn loài. Kẻ đó có tâm định tĩnh, dù khi đang hành động!
Năm trung khu thần kinh được hình tượng hoá qua 5 đồ hình, màu sắc và chủng tử âm thanh. Bắt đầu từ trung khu gốc có hình vuông, màu vàng, tương ứng với yếu tố đất, ký hiệu chủng tử âm AH. Đây là vùng của định luật nghiệp báo, mọi hoạt động đều bị ràng buộc trong nghiệp lực. Trung khu rốn là một hình cầu, yếu tố nước, màu trắng, chủng tử âm TRAM là nơi có chức năng tiêu hoá và d*ưỡng sinh các yếu tố đất, không khí, lửa. Trung khu ở tim mang hình tam giác, màu đỏ, chủng tử âm HUM được ví như bàn thờ ngọn lửa thiêng liêng. Trung khu thứ 4 nằm ở cổ họng với hình cánh cung hay một nửa vòng tròn, tượng trưng cho không khí, màu lục, chủng tử âm HRI hàm chứa sinh lực và sự vận chuyển khí. Cuối cùng là trung khu não được thể hiện một giọt xanh chói loà biểu hiện yếu tố không gian ether, chủng tử âm OM.
Năm trung khu thần kinh liên tục chuyển động và hoán chuyển các yếu tố do vậy người tu luyện phải biết điều tiết, hướng dẫn luồng khí lực đi từ gốc lên ngọn và ngược lại theo một chu trình mà phép luyện nội hoả gọi là tháo mở các gút vươn đến niềm hứng khởi bao la, một sự sung sướng sâu sắc, trong đó cái đau đớn nhất, cái mờ ám nhất không tạo thành nghịch cảnh, mà hiện ra như điều kiện sinh khởi, nhân tố kích động, như là màu sắc cần thiết bên trong một sự tràn đầy ánh sáng
Trong hang động trên dãy Himalaya, Milarepa không được ngồi trên nệm da sơn dương đặt lên loài cỏ thiêng kusha, Milarepa ngồi cô tịch tuyết lạnh, áo rách luyện nội hoả cho đến ngày người đệ tử Rechung nhìn thấy toàn thân Milarepa tràn ngập sự an lạc xuống tận đến các ngón chân và một niềm khoái cảm đi lên đến đỉnh đầu cho tới khi trạng thái ấy dung hợp thì các chỗ gút mắc được tháo mở, tất cả biến đổi thành thực tính của lực tuyến chính. Sự vận chuyển thông suốt, tháo được nút chặn cho luồng tâm hoả thông thiên là người luyện đã thành tựu như áo nghĩa thư dạy
"Khi các gút trung tâm đều tháo mở
Thì ở đây, trong cuộc sống con người
Cái sinh diệt sẽ trở thành bất tử
Từ tâm hoả sáng chói, nẩy sinh ra trật tự và chân lý."
Chúng ta không nên nhìn nhận Yoga và phép luyện nội hoả bằng con mắt siêu hình thần học hay quan niệm vũ tru. học bởi đây là một tiến trình kích hoạt tâm lý học sâu sắc của tâm trí. Bằng các biểu tượng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, con người đã biến các yếu tố sinh học thành yếu tố tinh thần, các bô. phận máu thịt tư. nhiên thành các bô. phận nuôi dưỡng tư tưởng.
Một vị hành giả cũng vậy, bằng trạng thái tự do tâm lý, họ trở thành trở thành chiến sỹ tâm linh có quyền tự quyết tất cả bằng năng lực tâm lý của riêng mình, “tự coi chính mình và tất cả những gì trông thấy được như một Mandala thiêng liêng và xem mỗi âm thanh nghe được như một thần chú, cũng như mỗi tư tưởng hiện ra trong tâm, thì nên xem nó như là sự nảy nở thần bí của Đại Trí Huệ”.
Sự nảy nở thần bí của Đại Trí Huệ mà Chú thuật Demchog ngợi ca không chỉ dừng lại trong phép luyện nội hoả. Trên quê hương của Milarepa sự nẩy nở thần bí qua nhiều phương diện để từ đó Tây Tạng trở thành một miền đất triết học và biểu tượng.
Trên cao đỉnh núi này, cùng với bầy trâu Yak còn có sự sống của màu sắc lá cờ phướn. Cờ phướn là tấm thiếp của người Tây Tạng gửi đến trời, xuất hiện bất cứ nơi nào, trên núi, dưới sông, trong nhà ngoài sân, trên hai sừng trâu hay dê núi, thậm chí ngay dưới gốc cây người ta cũng có thể căng cờ phướn, buộc vải ngũ sắc.
Ngoài màu sắc, đường nét mỹ thuật kiến trúc của tất ca? các bảo tháp ở Tây Tạng đều được xây dựng theo quy luật 5 đồ hình của các trung khu thần kinh. Cũng mang cấu trúc đế to đỉnh nhọn nhưng đứng trước bảo tháp, không những khởi lòng sùng kính thi hài, thánh tích các vị Lama mà chính cấu trúc bảo tháp mang đến cho ta ý niệm về sự vận động của vũ trụ với khối hình vuông ở dưới là đất, hình tròn là nước, hình nón là lửa, cái lọng đặt ở trên là là yếu tố không khí và giọt sáng trên cùng là yếu tố ether là giọt sống vĩnh hằng!
Milarepa là một giọt sống vĩnh hằng của Mandala Tây Tạng.(tiếp)
Ngày 25 tháng 8 năm 1055, năm Con Rồng Đực lịch Tạng.
Gia đình vợ chồng thầy phù thuỷ Mila Sharab Gyalten và Karmo Kyen ở vùng Kyang Tsa, sinh hạ đứa hài nhi tên là Thopaga.
Trong máu xương phơi tràn gió tuyết, tiếng khóc xa xưa, vốn được ướp xanh trong ngân hàng băng tuyết vĩnh hằng Himalaya, vọng về thinh không, qua những âm tiết màu thuỷ ngân mani biến ảo theo cái nhìn của núi.
Ánh sáng là thể phách của núi, núi là nhục thể của ánh sáng.
Núi trắng thẳm. Núi xanh lơ. Núi tím sẫm. Núi xám đen. Núi vàng sáng. Có khi núi bỗng gần như giọt lệ bờ mi có lúc núi lại mờ xanh hơi thở bầy trâu Yak thoảng qua trời và âm thanh cũng theo đó mà lan tỏa tuỳ theo quán tưởng của mỗi linh hồn khi đối thoại với Himalaya.
Lão Tử ngày xưa thong dong cỡi trâu vượt qua Tây Tạng sang Tây Trúc, lòng không những không sợ hãi mà nhờ cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, ông mới viết ra Đạo Đức Kinh!
Thuở xa xưa huyền thoại ấy, Lão Tử đã dừng chân trên đỉnh núi này, mắt lắng động sắc màu địa y mượt vàng , tai cuồn cuộn âm thanh vô ngôn trào dâng lên khoé núi, ngồi trên lưng trâu mà lĩnh hội từng sát na phiêu linh của vũ trụ thấm dần qua tâm ào ra thành những dòng đầu tiên của Đạo Đức Kinh truyền lại cho hậu thế!
Cúi đầu núi vừa chớm xanh, ngẩng đầu núi đã tuyết trắng. Đạo trời khó lường thay Lão Tử! Hạnh phúc hay đau khổ, rồi cùng nhau thành hư không toàn tính!
Lão Tử thành mây khói như trạng thái đạo trời không có trạng thái, hình bóng không có hình bóng tồn tại trong thực tại siêu cảm giác còn đứa bé Thopaga đã biến lời LaoTử trở thành sự thật bằng chính cuộc đời thiền ca của mình.
Mồ côi cha từ rất sớm. Gia đình tan nát trước lòng tham lam của họ hàng. Ra đi tìm thầy học phép huyền thuật trở về tung ra những trận mưa đá kinh hồn trả thù làng xóm. Lội qua máu hận thù, Thopaga gặp được Marpa thu nhận làm đệ tử. Nhờ Marpa, cuộc đời của nhà huyền thuật trẻ tuổi Thopaga bắt đầu thay đổi hay nói đúng hơn, lịch sử Phật giáo và thi ca nhân loại có thêm một tiết điệu trầm hùng!
Tên tuổi Marpa có thể sánh danh với cư sỹ Anathapindika ở Ấn Độ. Sinh năm 1012, Marpa được tôn vinh là đại dịch giả Tây Tạng sau ba lần vượt chết đến Ấn độ trở về. Marpa học đạo với thầy Naropa sáu năm. Naropa là một vị hành giả Đại thừa Mật giáo Ân độ, đã truyền Đại Thủ Ấn và kinh Du già lục pháp cho Marpa. Marpa trở lại Tây Tạng, lấy vợ sinh con, sống cuộc đời cày cuốc nhưng không quên dịch thuật kinh sách. Trước khi được Marpa truyền dạy giáo lý huyền bí của phép Đại ấn và Du già, Thopaga phải chịu đựng bao nhiêu khổ hình tưởng chừng muốn chết. Sau tám lần leo lên từ hố thẳm thử thách lòng kiên trì, thật không uổng công nuôi dạy của Marpa, người học trò Thopaga đã đắc đạo và trở thành chưởng môn của giáo phái Kagyu-một trong 4 phái Mật tông lớn nhất ở Tây Tạng! Từ ngày Milarepa ra đi đến nay, đã có 16 vị truyền thừa.
Danh từ Kagyu, tiếng Tạng là bka-bgyud có ý nghĩa “các dòng của 4 vị được uỷ nhiệm” bao gồm dòng “yoga huyễn thân và chuyển thức”, “ yoga đại huyễn và giấc mộng”, “yoga quang minh” và “ yoga nội hoả”, tất cả đều được truyền từ Phật Pháp Thân Vajradhara với giáo huấn Mahamudra Đại Ấn xuyên suốt con đường tâm linh của Kagyu.
Phép Đại ấn là cực điểm của Kim cương thừa được thực hành qua sáu giáo phép nội hoả, huyễn thân, quang minh, chuyển thức và trung ấm để tiến tới hoà hợp với Đại Lạc và Tính Không bằng con đường Thiền định.
Người học trò Rechung kể rằng, khi đã trở thành một đại thành tựu giả, Thopaga đã bay liệng như chim đại bàng trên Himalaya. Đôi mắt Thopaga thấu suốt vũ tru. và tâm linh con người. Đó cũng là lúc Thopaga có tên Milarepa-Vị hành giả mặc áo rách!
Nhưng từ cái tên Thopaga đến Milarepa là một chẳng đường gian lao dữ dội
Milarepa thân trần vào thiền định trong các hang động trên dãy Himalaya không phải là để “khổ hạnh” mà ông luyện phép “nội hoả”.
Phép luyện nội hoả có 4 giai đoạn chính là triệu tỉnh , quán tưởng vị thầy hướng dẫn tâm linh, hoà nhập tâm mình với tâm thầy qua tinh tuý thần chú, an trú trong bản tính tự nhiên. Milarepa đã thực hành và luyện thành công được luồng hoả xà đi qua 5 khu vực trung tâm thần kinh.
Theo quan niệm Phật giáo, con người được giới hạn trong 5 trung khu thần kinh và người Tây Tạng chia chúng thành 3 vùng bao gồm từ cổ lên não, tim và phần dưới là mạng thần kinh thái dương, các cơ quan sinh thực. Chúng ta sẽ nhìn thấy 3 vùng này qua hình ảnh tương quan giữa lực tuyến chính làm trung gian và nhận đón hai lực tuyến thái âm và thái dương mang tính âm dương, tri kiến và sinh sản không khác gì trung khu ở tim nằm trung gian giữa hai vùng trên dưới, là bệ phóng cho các lực hoà hợp ở trung khu cao nhất biểu hiện sự thành tựu một con người toàn thiện. Rõ hơn, 3 vùng trung khu ấy tương quan với 3 bình diện địa cư*, vũ trụ và con người giống như nguyên lý thiên địa nhân hợp nhất trong ý niệm triết học của người Trung Quốc. Con người trở thành chiếc cầu nối hoà hợp giữa các trật tự thiên nhiên và kẻ nào, kinh Bhagavad gita dạy, nhờ đạo yoga được hoà đồng, tiểu ngã của hắn được tinh khiết, quan năng của hắn được chế ngự, kẻ đó được đại ngã soi sáng, nên tiểu ngã của hắn trở thành đại ngã của tất cả muôn loài. Kẻ đó có tâm định tĩnh, dù khi đang hành động!
Năm trung khu thần kinh được hình tượng hoá qua 5 đồ hình, màu sắc và chủng tử âm thanh. Bắt đầu từ trung khu gốc có hình vuông, màu vàng, tương ứng với yếu tố đất, ký hiệu chủng tử âm AH. Đây là vùng của định luật nghiệp báo, mọi hoạt động đều bị ràng buộc trong nghiệp lực. Trung khu rốn là một hình cầu, yếu tố nước, màu trắng, chủng tử âm TRAM là nơi có chức năng tiêu hoá và d*ưỡng sinh các yếu tố đất, không khí, lửa. Trung khu ở tim mang hình tam giác, màu đỏ, chủng tử âm HUM được ví như bàn thờ ngọn lửa thiêng liêng. Trung khu thứ 4 nằm ở cổ họng với hình cánh cung hay một nửa vòng tròn, tượng trưng cho không khí, màu lục, chủng tử âm HRI hàm chứa sinh lực và sự vận chuyển khí. Cuối cùng là trung khu não được thể hiện một giọt xanh chói loà biểu hiện yếu tố không gian ether, chủng tử âm OM.
Năm trung khu thần kinh liên tục chuyển động và hoán chuyển các yếu tố do vậy người tu luyện phải biết điều tiết, hướng dẫn luồng khí lực đi từ gốc lên ngọn và ngược lại theo một chu trình mà phép luyện nội hoả gọi là tháo mở các gút vươn đến niềm hứng khởi bao la, một sự sung sướng sâu sắc, trong đó cái đau đớn nhất, cái mờ ám nhất không tạo thành nghịch cảnh, mà hiện ra như điều kiện sinh khởi, nhân tố kích động, như là màu sắc cần thiết bên trong một sự tràn đầy ánh sáng
Trong hang động trên dãy Himalaya, Milarepa không được ngồi trên nệm da sơn dương đặt lên loài cỏ thiêng kusha, Milarepa ngồi cô tịch tuyết lạnh, áo rách luyện nội hoả cho đến ngày người đệ tử Rechung nhìn thấy toàn thân Milarepa tràn ngập sự an lạc xuống tận đến các ngón chân và một niềm khoái cảm đi lên đến đỉnh đầu cho tới khi trạng thái ấy dung hợp thì các chỗ gút mắc được tháo mở, tất cả biến đổi thành thực tính của lực tuyến chính. Sự vận chuyển thông suốt, tháo được nút chặn cho luồng tâm hoả thông thiên là người luyện đã thành tựu như áo nghĩa thư dạy
"Khi các gút trung tâm đều tháo mở
Thì ở đây, trong cuộc sống con người
Cái sinh diệt sẽ trở thành bất tử
Từ tâm hoả sáng chói, nẩy sinh ra trật tự và chân lý."
Chúng ta không nên nhìn nhận Yoga và phép luyện nội hoả bằng con mắt siêu hình thần học hay quan niệm vũ tru. học bởi đây là một tiến trình kích hoạt tâm lý học sâu sắc của tâm trí. Bằng các biểu tượng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, con người đã biến các yếu tố sinh học thành yếu tố tinh thần, các bô. phận máu thịt tư. nhiên thành các bô. phận nuôi dưỡng tư tưởng.
Một vị hành giả cũng vậy, bằng trạng thái tự do tâm lý, họ trở thành trở thành chiến sỹ tâm linh có quyền tự quyết tất cả bằng năng lực tâm lý của riêng mình, “tự coi chính mình và tất cả những gì trông thấy được như một Mandala thiêng liêng và xem mỗi âm thanh nghe được như một thần chú, cũng như mỗi tư tưởng hiện ra trong tâm, thì nên xem nó như là sự nảy nở thần bí của Đại Trí Huệ”.
Sự nảy nở thần bí của Đại Trí Huệ mà Chú thuật Demchog ngợi ca không chỉ dừng lại trong phép luyện nội hoả. Trên quê hương của Milarepa sự nẩy nở thần bí qua nhiều phương diện để từ đó Tây Tạng trở thành một miền đất triết học và biểu tượng.
Trên cao đỉnh núi này, cùng với bầy trâu Yak còn có sự sống của màu sắc lá cờ phướn. Cờ phướn là tấm thiếp của người Tây Tạng gửi đến trời, xuất hiện bất cứ nơi nào, trên núi, dưới sông, trong nhà ngoài sân, trên hai sừng trâu hay dê núi, thậm chí ngay dưới gốc cây người ta cũng có thể căng cờ phướn, buộc vải ngũ sắc.
Ngoài màu sắc, đường nét mỹ thuật kiến trúc của tất ca? các bảo tháp ở Tây Tạng đều được xây dựng theo quy luật 5 đồ hình của các trung khu thần kinh. Cũng mang cấu trúc đế to đỉnh nhọn nhưng đứng trước bảo tháp, không những khởi lòng sùng kính thi hài, thánh tích các vị Lama mà chính cấu trúc bảo tháp mang đến cho ta ý niệm về sự vận động của vũ trụ với khối hình vuông ở dưới là đất, hình tròn là nước, hình nón là lửa, cái lọng đặt ở trên là là yếu tố không khí và giọt sáng trên cùng là yếu tố ether là giọt sống vĩnh hằng!
Milarepa là một giọt sống vĩnh hằng của Mandala Tây Tạng.(tiếp)