Fansifan
23-08-2010, 02:00 AM
Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm thất hiền đời nhà Nguỵ (220-264). Kê Khang là một trong bảy người hiền nàỵ
Kê Khang (223-262) là một người có khí tiết cao khiết giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là người có biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, hoạ ... Một điều lạ hơn hết là mặc dù có tài như thế, nhưng ông không học qua một thầy nào. Từ nhỏ chí lớn, ông cố công tự học, rèn luyện mà nên.
Kê Khang vốn họ Khuê, người đất Thượng Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiện Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán nên ông dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy Gần chỗ ông ở có núi Kê Sơn nên lấy núi Kê làm họ.
Kê Khang cũng như 6 người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão Có kẻ nói: "Ba ngày không đọc "Đạo đức kinh" (2) thì miệng thấy hôi". Ông làm đến chức Trung Tán đại phu nhưng luôn luôn chê vua Thang, vua Võ, khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ của ông có giọng triết lý:
"Mắt tiễn hồng bay,
Tay gẩy năm dâỵ
Cúi ngửa tự đắc,
U huyền thích thay"
Nguyên văn:
"Mục tống phi hồng,
Thủ huy ngũ huyền.
Phủ ngưỡng tự đắc,
Du tâm thái huyền"
Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan đi ở ẩn, để hưởng cảnh tiêu diêu lúc về già. Nhưng khổ thay ! Bắt phong trần phải phong trần ,ông chẳng thể nào thoát được số mệnh
Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thuỷ, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn.
Bấy giờ, nhà Nguỵ suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn soán ngôi nên tìm mọi cách để trừ khử những kẻ nghịch với mình.
Lúc ấy ở huyện Đông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn tâm giaọ Chẳng ngờ Lữ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn là bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh lịch nên chiếm đoạt và bắt Lữ An hạ ngục.
Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn con rể trong tông thất nhà Nguỵ, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang khinh vua Thang, vua Võ, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình.
Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác. Đánh lên khúc đàn nghe lưu loát, thảnh thoát như nước chảy (lưu thuỷ), mây bay (hành vân).
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả tiếng đàn của Kiều khi nàng gẩy cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ, có câu:
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thuỷ, hai rằng hành vân
Có người cho rằng đây là hai bản nhạc Lưu thuỷ và Hành vân, nhưng so với mạch văn thì không phải như thế. Lưu thuỷ, Hành vân đây là giải thích cái điệu lưu loát của khúc Quảng Lăng.
Khúc Quảng lăng đã tuyệt tích giang hồ từ khi đó không ai còn nghe hay tấu được nữa ,mười bảy thế kỉ sau có kẻ luyến tiếc tên là Kim Dung đã làm sống lại khúc này trong Cô gái Đồ Long .Ông cho Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đào mả Kê Khang lấy Cầm Phổ Quảng Lăng lên , về nhà luyện suốt mấy tháng trời và đàn một lần duy nhất cho vợ chồng Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố nghe lúc còn trên trên Băng Hỏa Đảo
Kê Khang (223-262) là một người có khí tiết cao khiết giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là người có biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, hoạ ... Một điều lạ hơn hết là mặc dù có tài như thế, nhưng ông không học qua một thầy nào. Từ nhỏ chí lớn, ông cố công tự học, rèn luyện mà nên.
Kê Khang vốn họ Khuê, người đất Thượng Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiện Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán nên ông dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy Gần chỗ ông ở có núi Kê Sơn nên lấy núi Kê làm họ.
Kê Khang cũng như 6 người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão Có kẻ nói: "Ba ngày không đọc "Đạo đức kinh" (2) thì miệng thấy hôi". Ông làm đến chức Trung Tán đại phu nhưng luôn luôn chê vua Thang, vua Võ, khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ của ông có giọng triết lý:
"Mắt tiễn hồng bay,
Tay gẩy năm dâỵ
Cúi ngửa tự đắc,
U huyền thích thay"
Nguyên văn:
"Mục tống phi hồng,
Thủ huy ngũ huyền.
Phủ ngưỡng tự đắc,
Du tâm thái huyền"
Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan đi ở ẩn, để hưởng cảnh tiêu diêu lúc về già. Nhưng khổ thay ! Bắt phong trần phải phong trần ,ông chẳng thể nào thoát được số mệnh
Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thuỷ, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn.
Bấy giờ, nhà Nguỵ suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn soán ngôi nên tìm mọi cách để trừ khử những kẻ nghịch với mình.
Lúc ấy ở huyện Đông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn tâm giaọ Chẳng ngờ Lữ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn là bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh lịch nên chiếm đoạt và bắt Lữ An hạ ngục.
Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn con rể trong tông thất nhà Nguỵ, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang khinh vua Thang, vua Võ, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình.
Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác. Đánh lên khúc đàn nghe lưu loát, thảnh thoát như nước chảy (lưu thuỷ), mây bay (hành vân).
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả tiếng đàn của Kiều khi nàng gẩy cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ, có câu:
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thuỷ, hai rằng hành vân
Có người cho rằng đây là hai bản nhạc Lưu thuỷ và Hành vân, nhưng so với mạch văn thì không phải như thế. Lưu thuỷ, Hành vân đây là giải thích cái điệu lưu loát của khúc Quảng Lăng.
Khúc Quảng lăng đã tuyệt tích giang hồ từ khi đó không ai còn nghe hay tấu được nữa ,mười bảy thế kỉ sau có kẻ luyến tiếc tên là Kim Dung đã làm sống lại khúc này trong Cô gái Đồ Long .Ông cho Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đào mả Kê Khang lấy Cầm Phổ Quảng Lăng lên , về nhà luyện suốt mấy tháng trời và đàn một lần duy nhất cho vợ chồng Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố nghe lúc còn trên trên Băng Hỏa Đảo