PDA

View Full Version : Nhân Dịp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Bàn về Đức Lý Thái Tổ.



Minh Ngọc
11-10-2010, 02:51 PM
Lý Thái Tổ ( 974 – 1028):

I - Tóm lược:
Tên húy: Lý Công Uẩn
Sinh năm: 974
Mất năm: 1028
Thời gian trị vì: 1009 - 1028
Niên hiệu: Thuận Thiên (1010 - 1028)
Miếu hiệu: Lý Thái Tổ
Thụy hiệu: Thần Vũ Hoàng Đế
Lăng: Thọ Lăng

II _ Xuất Thân:

Lý Công Uẩn là người ở làng Cổ Pháp, nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay ở xã Đình Bảng còn có các lăng và đền thờ nhà Lý). Mẹ là Phạm Thị.

Ông sinh tại chùa Cổ Pháp (chùa này vì thế còn có tên dân gian là Chùa Rặn, giờ gọi chệch là Chùa Dận). Khi ông lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Lý Khánh Vân, trụ chì chùa Cổ Pháp làm con nuôi và được đặt tên là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn đi tu từ đó.

Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh (anh trai sư Lý Khánh Vân), ông vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Năm 1010, khi vua Lê Long Đĩnh mất, ông 35 tuổi. Bấy giờ, do lòng người oán giận nhà Tiền Lê, lực lượng của Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh đã tôn ông lên làm vua.

Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Minh Ngọc
11-10-2010, 02:54 PM
III - Sự Nghiệp lừng lẫy của Đức Lý Thái Tổ:

1)Thiên đô về Thăng Long (Tên cũ là thành Đại La):
Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về La Thành. Tháng 7, Thuận Thiên nguyên niên (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra nên đổi Đại La thành sang Thăng Long thành tức là Hà Nội bây giờ, và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

Chiếu dời đô (Thiên Đô Chiếu) :

遷都詔


Bản chữ Hán:
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

Phiên âm Hán-Việt::

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?

Bản dịch tiếng Việt:

”Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô;, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”

2)Công việc chuẩn bị và tiến hành dời đô:

Tháng 7 Âm lịch năm 1010, thuyền rồng đưa triều đình nhà Lý từ Hoa Lư cập bến dưới chân thành Đại La. Theo biên niên sử, ý tưởng dời đô có thể hình thành thực sự từ mùa Xuân năm đó. Vốn là, sau khi lên ngôi cuối năm 1009, Lý Công Uẩn thu xếp việc triều chính, làm lễ lên ngôi, ăn Tết ở Hoa Lư rồi tháng hai năm 1010 về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Đối với Lý Công Uẩn, ý tưởng tái lập nơi đặt bộ máy điều hành đất nước ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Hồng - là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của đất nước đương thời hẳn đã hình thành từ lâu, nhưng thời điểm mang tính quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La hẳn đã xuất phát từ cuộc thăm quê mùa Xuân năm 1010.

Lý Công Uẩn người gốc Giao Châu, được giới thiệu xung cấm vệ quân từ hơn 10 năm trước, dưới triều nhà Tiền Lê. Từ đó, cuộc sống của viên tướng cấm vệ, rồi lấy vợ, sinh con (Lý Phật Mã) đã gắn liền ông với kinh đô Hoa Lư. Nhưng ngay sau khi lên ngôi, ông đã về thăm quê và hình thành rất nhanh quyết định dời đô. Chỉ 3 tháng sau khi thăm quê, tức vào tháng 5 năm ấy, ông đã hoàn chỉnh kế hoạch dời đô và chính thức tuyên bố trước triều đình bằng Chiếu Dời đô. Như vậy, công cuộc thực sự chuẩn bị cho dời đô chỉ diễn ra trong vòng 5 tháng (từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1010).

Khi chuyển về kinh đô Thăng Long, triều đình đã ổn định được ngay. Các ghi chép sau đó về việc xây dựng thêm các cung điện chỉ là để mở rộng các hoạt động của triều đình. Điều đó chứng tỏ tòa thành Đại La khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Việt được chuẩn bị hoàn tất. Sự chuẩn bị này có thể được tăng cường từ tháng 5, tức sau Chiếu Dời đô. Nhưng rõ ràng thời gian ngắn ngủi chưa đầy 2 tháng không thể đủ nếu phải xây dựng một kinh đô mới. Vậy nền tảng vật chất cho kinh đô mới Thăng Long đã được chuẩn bị như thế nào?


3) Nền tảng của Kinh thành (Đại La cũ):

Lịch sử chọn mảnh đất Hoàng thành hiện nay làm trung tâm đất nước sớm nhất bắt đầu với lũy thành Tô Lịch của Lý Bí trong cuộc chiến chống quân Lương thế kỷ 6. Đây là lũy thành quân sự được Lý Nam Đế xây dựng từ trước. Sau khi thất trận ở Chu Diên (vùng Hưng Yên, Hà Nam), quân đội nước Vạn Xuân đã rút về cố thủ tại đây.

Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng để khẳng định lũy thành này là kinh đô của nước Vạn Xuân đương thời. Nhưng dường như do hoạt động của triều đình nước Vạn Xuân dày đặc ở vùng quanh Hà Nội ngày nay như Long Biên, Ô Diên, Dạ Trạch... nên sau khi bình định lại Giao Châu, xuất hiện tên một huyện mới là Tống Bình, tương truyền do nhà sơ Tống (một trong số Lục Triều - sáu triều đại thay nhau trị vì Trung Quốc sau thời Tam Quốc, thế kỷ 4-6) đặt ra, trong đó có một phần Hà Nội ngày nay. Đầu thế kỷ 7, thứ sử nhà Tùy là Khâu Hòa đã đặt thủ phủ đô hộ Giao Châu ở Tống Bình và xây thành lũy đô hộ phủ đầu tiên ở kề sông Tô Lịch vào khoảng thời gian đó. Tòa thành của Khâu Hòa có tên là “Tử thành”.

Tới thời Lý - Trần:

Tử thành (hay Tử Cấm thành) là cách gọi những vòng thành trung tâm trong cùng để bảo vệ vua và hoàng thất. Ở Giao Châu, đó là nơi che chở cho bộ máy đô hộ cao nhất, nơi ở và điều hành của Thứ sử. Vị trí “Tử thành” hẳn đã được chọn tâm điểm ở ngay trên gò Nùng nay là vị trí điện Kính Thiên. Các đời về sau, đều đã duy trì điểm cao tâm linh đắc địa này. Dấu vết gạch ngói, giếng nước có niên đại Tùy Đường khai quật được ở khu vực Hoàng thành gần đây đã xác nhận sự có mặt của kiến trúc Tùy Đường trong Hoàng thành.

Thành La rồi Đại La sau này được nhiều đời Thứ sử tu bổ, mở rộng, trong đó chủ yếu tập trung vào việc xây dựng vòng thành bao bên ngoài Tử thành, tức vòng thành hiện nay còn lại dấu vết, trên đó có những đoạn trùng với tòa thành Vô băng [1] xây dựng vào đời Nguyễn và vòng đê thành bao dọc theo sông Tô Lịch và sông Hồng mở rộng hơn về phía Tây và phía Nam Hoàng thành. Tiêu biểu nhất đối với thành Đại La là công cuộc hoàn thiện của Cao Biền cuối thế kỷ 8 đầu thế kỷ 9.


Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng tòa thành Đại La bắt đầu từ Khâu Hòa đến Cao Biền đều xây dựng theo thể chế thành trì địa phương của đế chế Tùy, Đường. Có nghĩa rằng các mặt chính của tòa thành và dinh thự hành chính đều ngoảnh về phía nơi Hoàng đế nhà Tùy, Đường ngự trị.

Thành Đại La cũng như thành Luy Lâu do Sĩ Nhiếp đắp trước đó đều mang bản chất là thành hướng Bắc. Dựa vào ghi chép trong An Nam chí lược và Việt Sử lược (sách viết vào khoảng đời Trần) thì tòa thành Đại La do Trương Bá Nghi và Cao Biền đắp đều có bốn mặt hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Ghi chép của An Nam chí lược về tòa thành do Trương Bá Nghi đắp cho biết rõ mặt thành phía Bắc là mặt chính, mở ba cửa và trên đó đều có lầu che. Hai mặt Đông, Tây cũng có ba cửa không lầu che. Riêng mặt Nam là mặt thông với khu dân cư mở tới 5 cửa trên đặt trống, loa. Như vậy, cũng giống như Luy Lâu, mặt Nam thành tuy là mặt phụ nhưng lại dành cho các hoạt động dân cư, còn mặt chính mang tính nghi lễ ngoảnh về phía Bắc.

Vậy tòa thành vốn hướng Bắc này trở thành tòa thành hướng Nam từ bao giờ?

Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn “sự hướng Bắc” của thành Đại La gắn liền với bộ máy thần phục ở Giao Châu với nhà Đường. Đời Tiết độ sứ cuối cùng không phải người Giao Châu là Chu Toàn Dục (905), sau đó do nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng rối loạn, Nam Bắc triều, Ngũ Đại - Thập Quốc, các thế lực hào trưởng Giao Châu nổi lên chiếm quyền Tiết độ sứ ở, như cha con họ Khúc (Thừa Dụ, Thừa Mỹ), họ Kiều (Công Tiễn), họ Dương (Đình Nghệ). Các Tiết độ sứ này tuy là người Giao Châu cát cứ nhưng trên danh nghĩa vẫn thụ phong và thần phục các triều đình Trung Hoa, vì vậy đến tận khi Ngô Quyền xưng vương (939) tòa thành Đại La vẫn là một tòa Đô hộ phủ hướng Bắc. Có lẽ, đó là lý do Ngô Quyền không chọn Đại La làm kinh đô mà chọn Cổ Loa, một tòa thành bản chất hướng Nam.

Chúng ta cần chú ý chi tiết này: Khi Xưng Vương hay Hoàng Đế mới được xây Cung Điện về phía nam. Khi còn thần phục thì phải hướng về Kinh Đô của nước Bảo hộ.

Thành Đại La gần như bỏ hoang từ những năm 939 đến khi Đinh Tiên Hoàng thống lĩnh thiên hạ lập nước Đại Cồ Việt. Tuy nhiên, kinh đô nhà Tiền Lê lại được chọn đặt ở nơi hiểm yếu Hoa Lư đất Trường Châu (Ninh Bình hiện nay). Thành Đại La với cương vị trung tâm quản lý, điều hành mọi sự ở Giao Châu được giao cho Đô hộ phủ Thái sư Lưu Cơ, người đồng hương và cũng là tên đứng đầu trong hàng quan được danh xưng trong buổi lễ lên ngôi Hoàng đế của Đinh Tiên Hoàng. Vai trò của Lưu Cơ vì thế có thể sánh ngang hàng Phó vương giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất trọng yếu và nhiều tiềm năng kinh tế nhất của đất nước đương thời, đó là toàn bộ miền Bắc nước ta từ Ninh Bình trở lên.

Như vậy có lẽ chính Lưu Cơ là người đầu tiên biến tòa thành Đại La thuộc địa hướng Bắc trở thành một tòa thành hướng Nam độc lập tự chủ. Vì khi đó, Hoàng đế Đại Việt ở Hoa Lư, tức ở về phía Nam tòa thành Đại La. Vì vậy, chắc chắn mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ cũ phải được sửa đổi. Ðó chính là điều lý giải hợp lý nhất cho sự có mặt phong phú di tích kiến trúc Hoa Lư tại các cuộc khai quật Hoàng thành Thăng Long gần đây.

Minh Ngọc
11-10-2010, 02:55 PM
Lưu Cơ là ai? Vai trò của ông ta như thế nào?

Theo ghi chép của thần phả, thần tích thì có lẽ Lưu Cơ trông coi tòa thành này cho đến khi cáo quan về hưu năm gần 70 tuổi.

Như vậy, chẳng những Lưu Cơ là người đã cai quản và tu sửa thành Đại La của An Nam Đô hộ phủ nhà Đường trở nên một tòa thành Đại Việt, mà ông còn là người chuẩn bị mọi điều kiện cơ sở hạ tầng cho cuộc dời đô của Lý Công Uẩn. Chính điều này giải thích tại sao chỉ trong một thời gian rất ngắn, triều đình nhà Lý đã có thể di chuyển từ Hoa Lư ra Thăng Long.

Vậy là chúng ta đã tìm ra chính Lưu Cơ là người đã trao chìa khóa và “sổ đỏ” tòa La thành Đại Việt cho Lý Công Uẩn sau hơn 40 năm trông coi tu tạo tòa thành này. Với ý nghĩa đó, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long không thể quên vai trò của vị Thái sư người Ái Châu đáng kính này.

Theo thần tích và ghi chép trong sử sách thì Lưu Cơ người Ái Châu (vùng đất có lúc bao gồm cả khu vực Thanh Hóa và Ninh Bình hiện nay), quê ở Bồ Bát, Bạch Liên, Yên Mô tức thuộc đất Ninh Bình, là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh giặc, trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại. Trong buổi thiết triều xưng danh quan tước đầu tiên của triều đình nhà Đinh, theo Việt sử lược, ông đứng tên đầu và được trao chức Thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Ông làm quan đến gần 70 tuổi thì cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì mất, thọ 73 tuổi. Hiện đền thờ ông còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ), tương truyền là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân Lý Khuê năm xưa.

Dời Đô: Một tuyệt chiêu về chính trị?

Chuyện đặt tên thành Thăng Long là câu chuyện nhiều người biết, nhiều người nghe, nhiều người kể. Chuyện rằng vua Lý Thái Tổ khi dời đô từ kinh thành cũ của nhà Đinh và nhà Lê là Hoa Lư, thuyền vua tới thành Đại La, vua thấy rồng hiện lên nên đặt tên thành là Thăng Long.

Một câu chuyện vừa lãng mạn, vừa có hơi hướng thần thánh, tăng phần linh thiêng cho tên gọi Thăng Long và cho kinh đô mới. Người dị đoan có thể cho rằng tên mới này rất 'linh' cho nhà Lý: Sau ba triều nhà Ngô, Đinh, Lê ngắn hạn, nhà Lý trị vì tới chín đời, kéo dài hơn 200 năm.

Linh thiêng như vậy, sao sử gia Trần Trọng Kim, khi nhắc đến câu chuyện rồng hiện ra, lại viết có phần mai mỉa: 'Thái-tổ lấy cớ có điềm rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ.'

Nghi vấn lịch sử đặt ra: Có phải con rồng chỉ là một cái 'cớ'? Có phải Lý Thái Tổ đặt tên Thăng Long để chiêu dụ lòng người, mượn thần thánh để tăng cường mức ủng hộ cho ngôi vua của mình?

Nói cách khác, có phải Lý Thái Tổ tung một đòn 'tiếp thị' chính trị cực kỳ hiệu nghiệm, giúp gầy dựng cơ đồ nhà Lý?

Để chứng minh chuyện rồng bay chỉ là cái cớ, là một chiêu quảng cáo để phục vụ mục tiêu chính trị của Lý Công Uẩn, có lẽ cần chứng minh hai giả thuyết phụ: Thứ nhất, phải chứng minh được chuyện rồng bay không phải là một biến cố vĩ đại, mà là chuyện nhỏ chỉ đáng gọi là một cái cớ. Thứ nhì, phải lý giải được Lý Thái Tổ có lý do riêng, có nhu cầu chính trị, để dời đô

Minh Ngọc
11-10-2010, 03:13 PM
Những chuyện Huyền Bí:

Rồng là một trong tứ linh, bốn vật thiêng liêng của nước Nam, gồm long li qui phụng: rồng, lân, rùa, phượng hoàng. Nếu rồng đã là vật thiêng liêng, thì chuyện rồng hiện ra là hiếm, là xứng đáng để đặt tên cho kinh đô, tại sao lại bảo là cớ?

Xin trả lời: Ta coi trọng chuyện rồng hiện ra, vì ta sống trong thế kỷ 20, thế kỷ 21, ta nghĩ rằng rồng là loài vật không có thật, nên cho chuyện rồng hiện ra là chuyện hiếm có.

Tư duy của thời nhà Lý khác xa. Ở thế kỷ thứ 11, người ta nghĩ con rồng là một con vật có thật, và thỉnh thoảng người ta vẫn nhìn thấy con vật nào đó hoặc hiện tượng tự nhiên nào đó, mà người ta suy diễn ra thành một con rồng.

Lấy chuyện vua Lê Đại Hành. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục kể rằng ông mồ côi, làm con nuôi nhà quan án sát họ Lê. Sách viết:
'Gặp tiết trời đông rét mướt, ngài nằm phục như hình cối úp: đang đêm, sáng rực cả nhà, có con rồng vàng ấp ở trên.'

Phản ứng của ông bố nuôi? Ông này chỉ 'tỏ ra lấy làm lạ.'
Nếu con rồng ấp Lê Hoàn chỉ đáng để ông bố nuôi 'lấy làm lạ,' lẽ ra con rồng trong thuyền Lý Thái Tổ chỉ đủ để cho vua 'lấy làm lạ,' mới phải.

Sử chép chuyện rồng bay phượng múa vào thời nhà Lý rất nhiều, gần như cứ vài mươi năm lại một con linh vật hiện ra. Khác với sau này, từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh trở đi, rặt không có vật dị đoan trong sách sử. Con rồng có thể là vật hiếm thấy của thời sau, nhưng là vật thường ngày của đời trước.

Lý Thái Tổ thấy rồng trong thuyền năm 1010, sau khi lên ngôi được 9 tháng. Con ông, vua Lý Thái Tông, lên ngôi được 4 tháng, cũng lại thấy rồng. Sách Khâm Định Việt Sử chép, năm 1029, chỗ 'điện Kiền Nguyên đã bỏ, bỗng có con rồng hiện ở nền điện.'

Lại lấy cớ rồng hiện, vua cho xây điện Thiên An ở chỗ đó, xây thật sang trọng, 'hai bên tả hữu làm điện Tuyên Đức và điện Diên Phúc. Sân đằng trước gọi là sân rồng; phía Đông và phía Tây sân rồng làm điện Văn Minh và điện Quảng Vũ; hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông; bốn xung quanh sân rồng đều làm hành lang và giải vũ.'

Sử quan nhà Nguyễn, hiệu đính quyển Khâm Định, phê: 'Bậy' - chứng tỏ ngay từ thế kỷ 19 người ta đã hiểu ra rằng các vị vua rất có thể dựng chuyện rồng bay để phục vụ mục đích riêng của mình.

Những chuyện kỳ bí như vậy, vào đời Lý, cứ vài mươi năm lại xảy ra một lần. Không chỉ có rồng, mà còn nhiều thứ 'điềm' linh tinh khác.

Cuối năm 1029, 'trời mưa ra gạo trắng.'
Năm 1053, rồng hiện ở gác. 'Bầy tôi đều mừng,' Khâm Định Việt Sử chép.
Năm 1074, 'chim sẻ trắng đậu sân cung cấm.' Chuyện một con chim sẻ trắng được chép vào sử ngang với rồng, phượng. Điều này có phần cho thấy rằng, vào thời nhà Lý, người ta nhìn thấy rồng cũng thường xuyên như thấy chim sẻ trắng vậy.
Năm 1086, có người dâng con rùa vàng 6 chân. 'Trên lưng con rùa này có hình đồ thư.'
Năm 1119 chức Đô tào là Phan Điền dâng con hươu trắng.
Năm 1125, lại rồng vàng. 'Rồng vàng hiện ra ở hành cung Lợi Nhân.' Sử chép: 'cung nữ và hoạn quan đều trông thấy cả. Có chiếu chỉ tuyên bảo cho bầy tôi biết.'
Năm 1132, rồng vàng nữa. 'Rồng vàng hiện ra ở cung Lệ Quang.'

Trên đây chỉ là những lần rồng phượng hiện ra được chép lại trong Khâm Định Việt Sử - là bộ sách đã được sử quan thời sau tóm tắt, thu gọn lại. Chứ nguyên thủy, còn rất nhiều nữa. Ngô Thì Sĩ chú thích: 'Đoạn sử về đời Lý Nhân Tông, Sử cũ chép rồng vàng hiện ra đến 10 lần.'

Rồng hiện trên thuyền không hẳn là điềm lành

Những sự kiện ghi trên cho thấy chuyện rồng hiện ra chưa xứng đáng để dời đô và đặt tên mới cho thành Đại La. Ngoài ra, cụ thể chuyện rồng hiện ra trên thuyền của vua, lại càng không đáng là hiện tượng quý hiếm để hoan nghênh.

Khi Lý Thái Tổ tới La Thành, rồng hiện ra ở đâu? Vì bị ảnh hưởng của tên gọi 'Thăng Long,' nhiều người ngày nay tưởng rằng rồng hiện ra bay hùng vĩ trên trời. Nhưng sự thật thì sử không chép như vậy.

Một số sử cũ đều tránh viết rõ chi tiết rồng bay cụ thể tại đâu. Sách Khâm Định viết: 'Thuyền ngự đến bên thành, có con rồng hiện ra.' Sách Việt Sử Tiêu Án: 'Khi thuyền vua mới đến đậu ở dưới thành, thấy có con rồng vàng hiện ra.'

Nói cụ thể rồng hiện ở đâu, là hai cuốn Đại Việt Sử Lược và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Sách Đại Việt Sử Lược: 'Thuyền đậu dưới thành thì có rồng vàng hiện ra nơi thuyền của vua.' Sách Toàn Thư: 'Tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự.'

Rồng là vật bay nhảy trên trời. Rồng rơi xuống đất, là rồng sa cơ.
Một con rồng sa cơ xuống thuyền, dù là thuyền của vua, cũng thế.
Việc rồng hiện ra ở thuyền vua, do đó, không đủ lý do để cải tên kinh đô.

Vậy, lý do gì khiến vua Lý Thái Tổ 'lấy cớ có điềm rồng vàng hiện ra' để đặt tên thành Thăng Long? Xin nói lại: Lý Thái Tổ có lý do riêng, để dời đô, và ông đặt tên Thăng Long cho kinh đô mới, chỉ là một cách để thêm phần biện minh cho việc dời đô của mình, dùng đòn quảng cáo để tô điểm, sơn màu thần thánh, cho một hành vi chính trị.

Lý Thái Tổ có nhu cầu dời đô vì nhà vua không cảm thấy yên ổn ở Hoa Lư, và muốn dời đô đến một chỗ an toàn hơn. 'An toàn' ở đây không có nghĩa là sự an toàn của nước Đại Việt đối với giặc ngoại xâm, mà là an toàn của ngai vàng họ Lý đối với các thế lực chống đối trong nước.

Minh Ngọc
11-10-2010, 03:36 PM
Mưu lược của Lý Công Uẩn:

Hoa Lư không phải gốc quyền lực của nhà Lý:

Hoa Lư là kinh đô nhà Đinh. Vua Đinh Tiên Hoàng chọn nơi đó làm kinh đô vì đó là quê của ông. Chúng ta nghe chuyện vua Đinh thời nhỏ tụ tập trẻ chăn trâu lấy cờ lau tập trận, tất cả những chuyện đó diễn ra ở Hoa Lư. Vì vậy, sau khi dẹp tan nạn Thập nhị Sứ quân, Đinh Tiên Hoàng về lại quê cũ đóng đô.

Lê Hoàn, khi chiếm ngôi vua của nhà Đinh, không dời đô mà đóng luôn tại đó, chắc chắn một phần là vì Hoa Lư đã xây dựng đâu ra đấy rồi, phần khác chắn hẳn là vì Hoa Lư cũng không xa xôi gì quê Lê Hoàn.

Sử có viết khác nhau về quê quán Lê Hoàn, nhưng tất cả đều loanh quanh gần Hoa Lư. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí cho rằng Lê Hoàn là người Ái Châu, tức Thanh Hóa ngày nay, ngay phía nam Hoa Lư. Khâm Định Việt Sử và Việt Sử Tiêu Án thì ghi: 'Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm' - thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Hà Nam nằm ngay phía Bắc Hoa Lư.

Nhà Lý thì khác, quê ở xa. Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, Bắc Giang, nay thuộc làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh. Đồng minh của Lý Công Uẩn là giới sư sãi Phật Giáo. Ông lúc trẻ tu tập trong chùa Lục Tổ, còn gọi là chùa Cổ Pháp, và qua đó kết thân với Sư Vạn Hạnh.

Sư Vạn Hạnh là một nhân vật rất quan trọng. Cũng xuất phát từ chùa Lục Tổ như Lý Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh được xem như một vị Phật sống của thời đó. Vua Lê Đại Hành tôn ngài làm Quốc Sư. Nhưng ngài lại thân với Lý Công Uẩn. Nhân có cây bông gạo bị sét đánh, Sư Vạn Hạnh đọc vết cháy thành một bài văn, diễn giải thành việc Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi, và xúi giục Lý Công Uẩn lên làm vua.

Việc đó chứng tỏ đạo Phật đối với Lý Công Uẩn không chỉ là tín ngưỡng, mà giới sư tăng còn là nguồn hậu thuẫn nữa, nhất là sư tăng của thiền phái Lục Tổ Thiền Ông, mà chùa tổ tọa lạc tại Cổ Pháp tức Bắc Ninh. Điều này cũng giải thích được vì sao Lý Thái Tổ hỗ trợ cho đạo Phật rất nhiều. Mới dời đô, chưa kịp xây kinh thành, vua đã 'phát tiền kho 2 vạn quan' thuê thợ xây tám chùa ở Cổ Pháp. Vì lòng thành tín một phần, nhưng chắc chắn phần nữa là để gia tăng thế lực của phe mình.

Nếu ở Cổ Pháp có thành trì kiên cố, Lý Thái Tổ chắc đã dời đô về đó. Nhưng, ở Cổ Pháp chỉ có ruộng và chùa, nên Lý Thái Tổ phải tìm địa điểm khác, và ông chọn thành Đại La.

Hãy tìm một tấm bản đồ miền Bắc Việt Nam và xem vị trí những nơi này. Hoa Lư nằm cách Hà Nội 100km về hướng Nam. Huyện Thanh Liêm, nơi hầu hết sử gia đồng ý là quê Lê Đại Hành, nằm cách Hoa Lư 30km về hướng Bắc, ngay trên đường thẳng đi Hà Nội.

Làng Cổ Pháp, nguồn hậu thuẫn của Lý Thái Tổ, lại nằm cách Hoa Lư rất xa, cách thành Đại La 15km về hướng Đông Bắc.

Nếu ở lại Hoa Lư, Lý Thái Tổ sẽ phải sống ngay ở chỗ có hậu duệ nhà Đinh, và muốn qua lại với quê mình là Cổ Pháp thì phải băng qua quê của nhà Lê. Hoa Lư, do đó, là một chỗ không an toàn cho ngai vua.

Đại La thì ngược lại. Đại La nằm ngay gần Cổ Pháp, chỉ qua sông là gần tới. Nếu có nguồn chống đối nào tới từ Hoa Lư, hay Thanh Liêm, hay Châu Ái, Lý Thái Tổ có thể dựa lưng vào quê mình, quay mặt xuống phía Nam mà đấu với toàn bộ các thế lực đó.

Để giữ quyền lực trong tay mình, việc dời đô tới Đại La là vô cùng đắc sách. Đó mới là lý do Lý Thái Tổ dời đô. Tất cả những lời hoa mỹ khác để giải thích việc này, chỉ là cái cớ biện minh.

Thế yếu của Công Uẩn khi lên ngôi

Tới đây, có thể có ý kiến ngược lại như sau: Đành rằng dời đô về Đại La có thể tăng uy quyền Lý Thái Tổ, nhưng Lý Thái Tổ có thế rất mạnh, không cần dời đô cũng có đủ uy quyền. Chẳng phải Lý Thái Tổ được sự ủng hộ của triều thần vốn chán ghét Lê Ngọa Triều hay sao?

Điều đó có, nhưng chưa phải hoàn toàn như vậy. Giả dụ như con vua Lê Ngọa Triều có thể phải bị mất ngôi vì tội của cha, thì chưa chắc phần đã phải về Lý Công Uẩn. Đất đai là của chung nhà Lê, ai lấy mà chẳng được. Tôn tộc nhà Lê còn nhiều, chưa tới phiên Lý Công Uẩn được hưởng một mình dễ dàng như vậy.

Hãy xem lại lúc Công Uẩn lên ngôi. Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược viết ngắn gọn như sau: 'Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua.'

Tuy nhiên, chi tiết ghi lại trong các sách sử khác cho thấy, mặc dù Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của nhiều người, chính Công Uẩn là người lo ngại rằng chưa hẳn sự ủng hộ là tuyệt đối.

Sách Toàn Thư chép, khi vua Ngọa Triều băng hà, Đào Cam Mộc biết Lý Công Uẩn có ý muốn tiếm ngôi, bèn lấy lời nói khích, 'Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân.'

Công Uẩn thoái thác, và còn nói, 'Chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo.'
Công Uẩn khi đó quyền uy nhất triều đình, mà vẫn còn sợ bị 'chết ráo,' chứng tỏ ông ngại rằng vua mới, hay nói chung là triều đại nhà Lê, vẫn có sự ủng hộ trong giới có thế lực.

Tôn thất nhà Tiền Lê

Sách Toàn Thư viết về các con vua Lê Đại Hành, ghi những vị được phong vương, cho đóng quân ở chỗ này chỗ nọ. Theo thứ tự từ lớn tới nhỏ, các con vua Đại Hành gồm: 1. Thái tử Thau làm Kình Thiên Đại Vương; 2. Ngân Tích làm Đông Thành Vương; 3. Việt làm Nam Phong Vương; 4. Đinh làm Ngự Man Vương; 5. Đĩnh làm Khai Minh Vương (vua Ngọa Triều sau này); 6. Cân làm Ngự Bắc Vương; 7. Tung làm Định Phiên Vương; 8. Tương làm Phó Vương; 9. Kính làm Trung Quốc Vương; 10. Mang làm Nam Quốc Vương; 11. Đề (tức Minh Đề) làm Hành Quân Vương. Ngoài ra, còn có con nuôi không rõ tên, làm Phù Đái Vương.

Danh sách trong Toàn Thư cho thấy vua Đại Hành không phong cho ông con nào đóng quân ở thành Đại La cả, cho thấy thành Đại La không có ý nghĩa quân sự lớn lao như Lý Công Uẩn sau này phao tin.

Vậy, vua Lê Ngọa Triều có 10 ông anh em, ông nào cũng có đủ tư cách để lên ngôi, nếu con vua Ngọa Triều không có đủ người ủng hộ, thì 10 ông anh em vua đều có đủ tư cách để lên ngôi, chưa tới phần Lý Công Uẩn.

Tất nhiên, trừ những ông bị giết. Theo Toàn Thư, khi Đại Hành Hoàng Đế băng, Lê Long Việt “cùng hai vương Đông Thành, Trung Quốc và em cùng mẹ là Khai Minh Vương tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ.” Đông Thành Vương thua rồi bị chết. Thế là hết ông số 2.

Lê Long Việt lên ngôi được mấy ngày, Long Đĩnh làm phản, bị bắt, được tha, rồi Long Đĩnh làm phản nữa, giết Long Việt. Xong đời ông số 3. Sau này, Lê Long Đĩnh đánh dẹp giết luôn ông số 9.

Một sách khác, dùng sử liệu của Tàu, viết thêm về hoàng tử Lê Minh Đề. Theo An Nam Chí Lược, vào cuối triều Lê Đại Hành, nhà vua sai con là Lê Minh Đề đi sứ Trung Hoa. Khi Long Đĩnh cướp ngôi, Minh Đề bị kẹt lại bên Tàu, được vua nhà Tống cấp tiền, gạo, và khiến quan xứ Quảng cấp nhà cho ở. Vậy là còn ông số 11 ở bên Tàu.

Chưa hết, An Nam Chí Lược chép rằng vua Lê Ngọa Triều còn một người em nữa tên Lê Minh Vĩnh, từng được vua Ngọa Triều khiến đi sứ Trung Hoa, qua đó nhận sắc phong của vua Tống cho vua, rồi lại tự nhận sắc phong cho chính mình làm 'Trì tiết Giao Châu Chư quân sự Phó sứ.'

Kết lại, khi Lý Công Uẩn cướp ngôi, ít ra ông phải lo tới các vị hoàng thúc, hoàng bá, hay con cháu của họ. Ít ra thì vẫn còn các ông con của Lê Đại Hành số 1, 4, 6, 7, 8, 10 trong nước, và ông số 11 ở bên Tàu. Chưa kể ông con nuôi. Trong đó phải tính tới một ông đã có sẵn sắc phong của vua Tàu.
Nói trắng ra, ngai vàng của Lý Công Uẩn chưa hẳn là vững, và nếu cứ ở lại Hoa Lư, chưa chắc Công Uẩn đã giữ được ngôi. Chính những điều Lý Công Uẩn nói ra cho thấy cá nhân ông cũng không dám tin vào vị thế của mình trong triều đình Hoa Lư.

Tuyên truyền cho việc dời đô

Thế yếu của Lý Công Uẩn, có thể là nhiều hoặc không nhiều, nhưng rõ ràng là nhà vua có nghi ngại chuyện đó. Vì vậy, ông phải tính tới chuyện thiên đô tới nơi nào gần nguồn hỗ trợ cho mình hơn, gần Cổ Pháp hơn.

Ông cũng phải tính tới chuyện làm sao cho người dân quy phục. Và, theo đúng cách làm chính trị của thời đó, ông đổ thừa cho trời.

Trước đây, sét đánh đổ cây, sư Vạn Hạnh theo vết nứt mà đọc được cả một bài sấm bằng chữ nho, lại còn diễn ra từ bài sấm 80 chữ ra chuyện của cả một ngàn năm, kết thúc bằng việc Công Uẩn lên ngôi.

Vài mươi năm sau, Lý Thường Kiệt lại mượn miệng lưỡi trời với bài thơ 'Nam Quốc Sơn Hà.' Lý Thường Kiệt trước khi làm tướng từng làm hoạn quan. Lớn lên trong cung, những trò tuyên truyền chính trị, Lý Thường Kiệt học thẳng từ các vua Lý chứ chẳng đâu xa.

Những điều này phù hợp với kết luận rằng phe đảng nhà Lý thích dùng chuyện huyền bí để biện minh cho mình. Có bài thơ muốn rao cho lính thì bảo là thần viết (Lý Thường Kiệt). Muốn tuyên truyền lật đổ nhà Lê thì đặt ra một bài sấm từ vết nứt trong cây (Sư Vạn Hạnh). Cần lý do để xây một cung điện thật sang trên nền một cung điện đã bỏ, tung tin rồng hiện ra (Lý Thái Tông). Rồng hiện ra mà sợ người ta không biết thì “chiếu chỉ tuyên bảo cho bầy tôi biết” (Lý Thần Tông).

Vậy, nếu cần biện minh cho việc dời đô, và nếu cần tuyên truyền rằng việc nhà Lý nắm quyền là chính đáng, thì bịa ra một con rồng và đổi tên thành là 'Thăng Long' cho mọi người đều biết.

Thời gian nhà Minh cai trị nước Nam đã ra lệnh đốt sách. Vì vậy, sử liệu về nước Nam thời trước Lê Lợi hầu hết là sử liệu gián tiếp.

Vì vậy, tình cảnh thực sự tại triều đình khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, và Lý Công Uẩn cướp ngôi, không có nhiều bằng chứng trực tiếp. Tuy nhiên, chứng cớ còn sót lại cho thấy có phần nào vua Lý Thái Tổ không cảm thấy yên ổn tại Hoa Lư, không hẳn vì sợ giặc ngoại xâm, nhưng vì sợ các thế lực chính trị trong nước giành chính quyền.

Do đó Lý Thái Tổ muốn dời đi chỗ nào đó ít chống đối hơn, gần Bắc Ninh là gốc quyền lực của mình hơn, và có sẵn thành trì thì càng tốt. Đó là lý do Lý Thái Tổ chọn thành Đại La.

Nhưng nếu để cho dân biết mình vì sợ mà chạy, sẽ phản tác dụng. Không những cần dời đô, vua còn cần tuyên truyền cho xa, cho rộng, rằng việc dời đô là chính đáng, là có sự ủng hộ của thần thánh. Bởi lý do đó, vua mới lấy cái 'cớ' là có rồng hiện lên, rồi đổi tên thành Đại La, làm một đòn tuyên truyền chính trị cho mọi người đều biết.

Việc đặt tên thành Thăng Long, do đó, là một việc làm thuần túy có tính tiếp thị, tuyên truyền. Là một đòn chính trị, nhưng rõ ràng là đòn này rất hiệu nghiệm. Được một con rồng 'bảo kê' (cho dù là rồng sa cơ hiện trên thuyền vua), nhà Lý trị vì tới 200 năm. Tên thành Thăng Long bị bỏ từ sau đời nhà Lý nhưng tên gọi đó ăn khách tới mức, bây giờ hỏi 'tên cũ của Hà Nội là gì?' Chắc hẳn 10 người thì hết 9 trả lời là 'Thăng Long.'

Cuối năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời, Lý Công Uẩn lên ngôi vua từ cuộc chính biến do Thiền Sư Vạn Hạnh và các Tướng Đào Cam Mộc và Phạm Cự Lượng bố trí. Sau này, như Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú viết lại, Sư Vạn Hạnh còn làm tể tướng triều Lý.

Vạn Hạnh là người uyên bác và đa mưu, từng dìu dắt Lý Công Uẩn khi còn bé và là người chuẩn bị đưa Lý Công Uẩn lên ngôi khi ông tướng họ Lý này còn là Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ trong triều đình Lê Long Đĩnh tại Hoa Lư. Chúng ta cũng không quên rằng Lý Công Uẩn là người mà lịch sử của các nho thần ghi lại là 'kinh sử thì học qua loa' - tức là thiên về võ hơn văn.

Vì vậy, có thể chính Vạn Hạnh là người khuyên Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La - xưa kia còn gọi là Tống Bình, Long Biên, hoặc nhiều tên khác nữa...

Lý do dời đô thật ra rất nhiều.
Trước hết là để Lý Thái Tổ thoát khỏi vùng ảnh hưởng của các thế lực quân sự hay chính trị của hai triều Đinh-Lê trước đó, những thế lực đã hình thành từ năm 968 khi Đinh Tiên Hoàng Đế dời đô từ thành Cổ Loa gần Đại La về đất Hoa Lư của mình.

Thứ hai, Vạn Hạnh muốn Lý Thái Tổ giành lại trung tâm chính trị Long Biên của hệ thống Bắc thuộc gọi là An Nam Đô hộ phủ của Trung Hoa, để chứng minh rằng sau ngàn năm Bắc thuộc, từ nay nước Nam đã có chủ.

Lý do thứ ba là nhờ địa thế rộng rãi và thuận lợi của Long Biên so với sự chật hẹp của Hoa Lư ở phía Nam, nước Nam từ nay có một kinh đô vững bền hơn để còn đối phó với những đợt tấn công từ phương Bắc mà Vạn Hạnh đã thấy từ trước khi làm quân sư cho Lê Đại Hành trong trận phá Tống đầu tiên vào năm 981... Khi ấy, Lý Công Uẩn mới là cậu bé... lên bảy.

Suy như vậy thì cũng Vạn Hạnh mới là người thảo ra tờ chiếu dời đô cho Lý Thái Tổ, như Nguyễn Trãi sau này đã soạn thảo nhiều văn kiện cho Lê Lợi trong thời kháng Minh, hoặc Ngô Thời Nhiệm cho Quang Trung Hoàng Đế.

Sau này, có người nói rằng bản Chiếu Dời Đô là tác phẩm khai sáng nền văn học Hà Nội và triều Lý. Phát biểu như vậy e rằng... không hiểu gì cả. Thơ văn đời Lý có nhiều tác phẩm khác - kể cả những bài kệ bất hủ về nghệ thuật và trí tuệ cũng của Vạn Hạnh.

Cũng có người bảo rằng, tài liệu này 'không thể hiện khát vọng dân tộc' - thí dụ như nhắc đến tên Cao Biền - thì cũng không hiểu gì về hoàn cảnh chính trị của ngàn năm trước. Khi ấy, nước Nam vừa giành lại chủ quyền sau hơn ngàn năm Bắc thuộc và triều Lý cần chứng minh với các phần tử ưu tú - các lãnh chúa hay môn phiệt - về tư thế của Lý Thái Tổ. Trong các phần tử này, không thiếu gì người vẫn còn mơ làm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ cho phương Bắc...

Cũng có người phê phán, rằng ngôn ngữ bản văn vẫn 'có màu sắc dị đoan phong thủy.' Nói như vậy e rằng, 'có học mà không hiểu.'

Vạn Hạnh là thầy của Lý Công Uẩn. Ông là tay lịch lãm, am hiểu Nho học trước khi đi tu và đạt trình độ rất cao của Mật tông, như nhiều nhà sư đời Lý. Thiền tông khi ấy chưa có vị trí như vào đời Trần!

Trước thì Vạn Hạnh vận dụng tối đa cách suy nghĩ của thời đại để tuyên truyền và chuẩn bị cho Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau thì dùng cả thuật phong thủy để chứng minh Thăng Long có cái thế 'rồng chầu hổ phục.''Nhà Phật gọi đó là 'phương tiện' - tùy đối tượng mà nói!

Sử gia đời xưa thì phải là nho thần. Họ cố bài bác rằng Phật Giáo và những gì nằm ngoài hệ thống Khổng Nho là sai quấy. Họ đòi nắm giữ độc quyền chân lý vì đỉnh chung và tư duy của họ, vì một ít bổng lộc tầm thường. Nói chuyện xưa cần thông cảm với hoàn cảnh xưa, không nên lầm lạc. Và càng không nên chấp nhận hàng 'nho thần hiện đại,' xét lại sử cũ với lăng kính Bắc thuộc! Ngày nay, khi có người đả kích Phật giáo hoặc tờ chiếu dời đô là đượm màu dị đoan và phong thủy, họ tự nhuộm màu nô lệ. Và không nhìn thấy trí tuệ của thế hệ Lý Công Uẩn.