Fansifan
26-10-2010, 03:21 AM
Sưu tập
Ðái Xuân Ninh, trong Hoạt Ðộng Của Từ Tiếng Việt (Hà Nội, 1978), nhắc lại lập thuyết của Haudricourt1: "Thanh điệu tiếng Việt hiện nay là do sự rơi rụng của những nhóm phụ âm đầu và cuối trong tiếng tiền Việt mà thành",
Dựa vào lập thuyết trên đây của Haudricourt, Ðái Xuân Ninh đưa ra nhận xét: "Trên cơ sở những từ hình vị 2 đơn âm tiết này, ta sáng tạo ra những từ đa âm tiết (từ láy, từ ghép, từ nhánh) để đáp ứng nhu cầu diễn đạt ngày càng cao."
Láy đôi:
lạnh
lạnh lẽo
Láy ba:
mờ
lờ mờ
lờ tờ mờ
Láy tư:
bềnh
bập bềnh
bập bà bập bềnh
Qua ba ví dụ trên đây chúng ta có thể có những nhận xét sơ khởi sau đây:
Từ đơn: âm không vang, nghĩa rõ, ít khả năng gợi hình, hình vị tự do
Từ láy: âm vang, nghĩa mờ, hoặc chuyển nghĩa, gợi ý, gợi hình, gợi chuyển động, hình vị giới hạn
Theo Ðái Xuân Ninh thì từ láy có ba tác dụng chính: Làm giảm hoặc tăng ý nghĩa của từ chính, láy để lặp đi lặp lại và láy để biểu thị ý nghĩa xấu.
1. Láy giảm nhẹ hoặc tăng cường nghĩa:
a. Giảm nhẹ: Cường độ của một hành động hay mức độ của trạng thái giảm đi, so với từ gốc. Trong trường hợp này, trọng âm (hình vị cơ bản) rơi vào âm tiết thứ nhì:
nhẹ
nhè nhẹ
Mưa rơi nhè nhẹ trong hồn (Huy Cận)
dịu
dìu dịu
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi (Huy Cận)
b. Tăng cường: Cường độ của một hành động hay mức độ của trạng thái tăng lên, so với từ gốc. Trong trường hợp này, trọng âm nằm trong âm tiết đầu:
đau
đau đáu
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong (Chinh Phụ Ngâm)
phất
phất phơ
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ (Chinh Phụ Ngâm)
lạnh
lạnh lẽo (láy âm)
trong
trong veo (láy nghĩa)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Nguyễn Khuyến)
vắt
vắt vẻo (láy âm)
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi (Hàn Mặc Tử)
đỏ
đỏ lòm (láy nghĩa)
đỏ lòm lom (láy âm)
Khác với hình thức giảm nhẹ, hình thức tăng cường có thể láy lại nhiều tầng, ý nghĩa lại càng nhấn mạnh thêm:
Khít
Sát
Giảm nhẹ:
Khin khít
San sát
Tăng cường 1:
Khít khịt
Sát sạt
Tăng cường 2:
Khít khìn khịt
Sát sàn sạt
Tăng cường 3:
Khít khịt khìn khin
Sát sạt sàn san
Hình thức điệp kép thuộc sở trường của Nguyễn Khuyến và Hồ Xuân Hương:
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom (Hồ Xuân Hương)
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom (Hồ Xuân Hương)
Ðức thầy đã mỏng mòng mong (Nguyễn Khuyến)
Quyên đã gọi hè quang quáng quác (Nguyễn Khuyến)
Gà từng gáy sáng tẻ tè te (Nguyễn Khuyến)
2. Láy biểu thị ý nghĩa lặp đi lặp lại:
a. Lập lại, tăng cường ý nghĩa:
xanh
xanh xanh
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Chinh Phụ Ngâm)
ngùi
ngùi ngùi
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi (Chinh Phụ Ngâm)
dặc
dặc dặc
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn (Chinh Phụ Ngâm)
ào
ào ào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu (Chinh Phụ Ngâm)
lớp
lớp lớp
Lớp lớp mây cao đùm núi bạc (Huy Cận)
quốc
quốc quốc
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc (Bà Huyện Thanh Quan)
thùng
thùng thùng
Thùng thùng trống đánh ngũ liên (ca dao)
trùng
trùng trùng
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng (Chinh Phụ Ngâm)
Trời biếc biếc nước xanh xanh một vẻ (Nguyễn Khuyến)
Non non nước nước không nguôi lời thề (Tản Ðà)
b. Lập lại, diễn tả ý nghĩa tiếp diễn trong thời gian:
Mưa mưa mãi ngày đêm rả rích (Tản Ðà)
Ðêm đêm cưới vợ, lại làm quan (Tản Ðà)
Bước đi một bước giây giây lại dừng (Chinh Phụ Ngâm)
3. Láy biểu thị ý nghĩa xấu:
Lập lại phụ âm đầu, thêm iếc, các nhà ngữ học thường gọi là hiện tượng iếc hóa, hiện tượng này ít thấy trong thơ:
hát
hát hiếc
kịch
kịch kiếc
Nếu vần láy có chữ eo, nét nghĩa của từ bị xấu đi, theo Nguyễn Ðức Dân, ví dụ lượn lẹo, vòng vèo, lỏng lẻo, xiên xẹo, nghĩa xấu hơn lượn, vòng, lỏng, xiên và bạc bẽo, đói meo, lạnh lẽo, nhạt nhẽo có nghĩa xấu hơn bạc, đói, lạnh và nhạt.
Ngoài ba tác dụng trên, láy còn có khả năng tạo từ mới, làm giàu ngôn ngữ:
rối
bối rối, rối rem, rối rắm, ..
vì thế từ láy giữ một địa vị quan trọng trong ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ văn chương.
Ðái Xuân Ninh làm một thống kê về từ láy trong các tác phẩm của bốn thi sĩ: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Du và nhận thấy hiện tượng sau đây:
- Thơ Chế Lan Viên, trong 1600 câu có 70 từ láy, tỷ lệ 22 câu có 1 từ láy.
- Thơ Tố Hữu, trong 3157 câu có 375 từ láy, tỷ lệ 8,5.
- Chinh phụ ngâm: 452 câu có 85 tỷ lệ 5.
- Kiều: 1000 câu đầu có 218 từ láy, tỷ lệ 4,5.
Và đây là cách dùng từ láy trong Chinh Phụ Ngâm:
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ mai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
.....
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc trời đằng đẵng mấy niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Tóm lại Nguyễn Du và Phan Huy Ích dùng từ láy gấp năm lần Chế Lan Viên. Ðiều đó giải thích sự giàu có về âm nhạc và hình tượng trong thơ cổ điển.
Từ láy có thể xem như đơn vị song song nhỏ nhất trong ngôn ngữ, là sự hòa phối âm thanh và ngữ nghĩa giữa hai yếu tố tương đương hoặc đối lập, tự bản chất đã có khái niệm nhị nguyên của đời sống, mang sẵn hình ảnh âm dương, hai yếu tố tác thành mối sinh động của muôn loài. Cấu trúc này giải thích khả năng biểu cảm, biểu niệm, tượng thanh, tượng hình của từ láy, giúp người đọc, người nghe không những nhận diện được vật thể bằng tên gọi, mà còn hình dung ra dáng dấp, nghe được âm thanh và đôi khi cảm thấy cả chuyển động của vật thể. Do đó, từ láy có một địa vị quan trọng trong thi ca, mà cấu trúc cơ bản dựa vào hình ảnh, nhạc điệu và cảm xúc: Dòng nước là một vật thể, nhưng khi Nguyễn Du viết: Nao nao dòng nước thì chính nao nao đã trở nên tâm hồn của dòng nước, biến dòng nước thành một nhân cách. Nắm đất là một vật thể, nhưng sè sè nắm đất ngoài nghĩa thường là nắm đất thấp còn có nghĩa là nắm đất đang chuyển động, đang sè sè bắn ra những dấu hiệu muốn kể lể nỗi niềm với Kiều:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nắm đất bên đường
Ràu ràu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Ðái Xuân Ninh, trong Hoạt Ðộng Của Từ Tiếng Việt (Hà Nội, 1978), nhắc lại lập thuyết của Haudricourt1: "Thanh điệu tiếng Việt hiện nay là do sự rơi rụng của những nhóm phụ âm đầu và cuối trong tiếng tiền Việt mà thành",
Dựa vào lập thuyết trên đây của Haudricourt, Ðái Xuân Ninh đưa ra nhận xét: "Trên cơ sở những từ hình vị 2 đơn âm tiết này, ta sáng tạo ra những từ đa âm tiết (từ láy, từ ghép, từ nhánh) để đáp ứng nhu cầu diễn đạt ngày càng cao."
Láy đôi:
lạnh
lạnh lẽo
Láy ba:
mờ
lờ mờ
lờ tờ mờ
Láy tư:
bềnh
bập bềnh
bập bà bập bềnh
Qua ba ví dụ trên đây chúng ta có thể có những nhận xét sơ khởi sau đây:
Từ đơn: âm không vang, nghĩa rõ, ít khả năng gợi hình, hình vị tự do
Từ láy: âm vang, nghĩa mờ, hoặc chuyển nghĩa, gợi ý, gợi hình, gợi chuyển động, hình vị giới hạn
Theo Ðái Xuân Ninh thì từ láy có ba tác dụng chính: Làm giảm hoặc tăng ý nghĩa của từ chính, láy để lặp đi lặp lại và láy để biểu thị ý nghĩa xấu.
1. Láy giảm nhẹ hoặc tăng cường nghĩa:
a. Giảm nhẹ: Cường độ của một hành động hay mức độ của trạng thái giảm đi, so với từ gốc. Trong trường hợp này, trọng âm (hình vị cơ bản) rơi vào âm tiết thứ nhì:
nhẹ
nhè nhẹ
Mưa rơi nhè nhẹ trong hồn (Huy Cận)
dịu
dìu dịu
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi (Huy Cận)
b. Tăng cường: Cường độ của một hành động hay mức độ của trạng thái tăng lên, so với từ gốc. Trong trường hợp này, trọng âm nằm trong âm tiết đầu:
đau
đau đáu
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong (Chinh Phụ Ngâm)
phất
phất phơ
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ (Chinh Phụ Ngâm)
lạnh
lạnh lẽo (láy âm)
trong
trong veo (láy nghĩa)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Nguyễn Khuyến)
vắt
vắt vẻo (láy âm)
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi (Hàn Mặc Tử)
đỏ
đỏ lòm (láy nghĩa)
đỏ lòm lom (láy âm)
Khác với hình thức giảm nhẹ, hình thức tăng cường có thể láy lại nhiều tầng, ý nghĩa lại càng nhấn mạnh thêm:
Khít
Sát
Giảm nhẹ:
Khin khít
San sát
Tăng cường 1:
Khít khịt
Sát sạt
Tăng cường 2:
Khít khìn khịt
Sát sàn sạt
Tăng cường 3:
Khít khịt khìn khin
Sát sạt sàn san
Hình thức điệp kép thuộc sở trường của Nguyễn Khuyến và Hồ Xuân Hương:
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom (Hồ Xuân Hương)
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom (Hồ Xuân Hương)
Ðức thầy đã mỏng mòng mong (Nguyễn Khuyến)
Quyên đã gọi hè quang quáng quác (Nguyễn Khuyến)
Gà từng gáy sáng tẻ tè te (Nguyễn Khuyến)
2. Láy biểu thị ý nghĩa lặp đi lặp lại:
a. Lập lại, tăng cường ý nghĩa:
xanh
xanh xanh
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Chinh Phụ Ngâm)
ngùi
ngùi ngùi
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi (Chinh Phụ Ngâm)
dặc
dặc dặc
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn (Chinh Phụ Ngâm)
ào
ào ào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu (Chinh Phụ Ngâm)
lớp
lớp lớp
Lớp lớp mây cao đùm núi bạc (Huy Cận)
quốc
quốc quốc
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc (Bà Huyện Thanh Quan)
thùng
thùng thùng
Thùng thùng trống đánh ngũ liên (ca dao)
trùng
trùng trùng
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng (Chinh Phụ Ngâm)
Trời biếc biếc nước xanh xanh một vẻ (Nguyễn Khuyến)
Non non nước nước không nguôi lời thề (Tản Ðà)
b. Lập lại, diễn tả ý nghĩa tiếp diễn trong thời gian:
Mưa mưa mãi ngày đêm rả rích (Tản Ðà)
Ðêm đêm cưới vợ, lại làm quan (Tản Ðà)
Bước đi một bước giây giây lại dừng (Chinh Phụ Ngâm)
3. Láy biểu thị ý nghĩa xấu:
Lập lại phụ âm đầu, thêm iếc, các nhà ngữ học thường gọi là hiện tượng iếc hóa, hiện tượng này ít thấy trong thơ:
hát
hát hiếc
kịch
kịch kiếc
Nếu vần láy có chữ eo, nét nghĩa của từ bị xấu đi, theo Nguyễn Ðức Dân, ví dụ lượn lẹo, vòng vèo, lỏng lẻo, xiên xẹo, nghĩa xấu hơn lượn, vòng, lỏng, xiên và bạc bẽo, đói meo, lạnh lẽo, nhạt nhẽo có nghĩa xấu hơn bạc, đói, lạnh và nhạt.
Ngoài ba tác dụng trên, láy còn có khả năng tạo từ mới, làm giàu ngôn ngữ:
rối
bối rối, rối rem, rối rắm, ..
vì thế từ láy giữ một địa vị quan trọng trong ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ văn chương.
Ðái Xuân Ninh làm một thống kê về từ láy trong các tác phẩm của bốn thi sĩ: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Du và nhận thấy hiện tượng sau đây:
- Thơ Chế Lan Viên, trong 1600 câu có 70 từ láy, tỷ lệ 22 câu có 1 từ láy.
- Thơ Tố Hữu, trong 3157 câu có 375 từ láy, tỷ lệ 8,5.
- Chinh phụ ngâm: 452 câu có 85 tỷ lệ 5.
- Kiều: 1000 câu đầu có 218 từ láy, tỷ lệ 4,5.
Và đây là cách dùng từ láy trong Chinh Phụ Ngâm:
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ mai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
.....
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc trời đằng đẵng mấy niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Tóm lại Nguyễn Du và Phan Huy Ích dùng từ láy gấp năm lần Chế Lan Viên. Ðiều đó giải thích sự giàu có về âm nhạc và hình tượng trong thơ cổ điển.
Từ láy có thể xem như đơn vị song song nhỏ nhất trong ngôn ngữ, là sự hòa phối âm thanh và ngữ nghĩa giữa hai yếu tố tương đương hoặc đối lập, tự bản chất đã có khái niệm nhị nguyên của đời sống, mang sẵn hình ảnh âm dương, hai yếu tố tác thành mối sinh động của muôn loài. Cấu trúc này giải thích khả năng biểu cảm, biểu niệm, tượng thanh, tượng hình của từ láy, giúp người đọc, người nghe không những nhận diện được vật thể bằng tên gọi, mà còn hình dung ra dáng dấp, nghe được âm thanh và đôi khi cảm thấy cả chuyển động của vật thể. Do đó, từ láy có một địa vị quan trọng trong thi ca, mà cấu trúc cơ bản dựa vào hình ảnh, nhạc điệu và cảm xúc: Dòng nước là một vật thể, nhưng khi Nguyễn Du viết: Nao nao dòng nước thì chính nao nao đã trở nên tâm hồn của dòng nước, biến dòng nước thành một nhân cách. Nắm đất là một vật thể, nhưng sè sè nắm đất ngoài nghĩa thường là nắm đất thấp còn có nghĩa là nắm đất đang chuyển động, đang sè sè bắn ra những dấu hiệu muốn kể lể nỗi niềm với Kiều:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nắm đất bên đường
Ràu ràu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh