PDA

View Full Version : Bảo Kiếm Anh Hùng



Hư Trúc
25-11-2010, 07:20 AM
sưu tập

Bảo Kiếm tặng Anh Hùng
Hồng Phấn tặng Giai Nhân

Một trong những yếu tố thú vị của truyện kiếm hiệp là khí giới của những nhân vật chính. Bên cạnh võ công siêu tuyệt, thường thường một nhân vật hữu danh luôn luôn gắn liền với một món bảo cụ, mà thông dụng nhất là bảo đao, bảo kiếm. Võ khí tùy thân đó tạo cho nhân vật một đặc tính hơn người, và luôn luôn kỳ bí, khác thường, đôi khi huyền hoặc.
Lỗ Tấn (1881-1936), một văn sĩ vào bậc nhất của Trung Hoa hồi đầu thế kỷ này, nổi tiếng về những truyện ngắn, tiêu biểu là Ả Q Chính Truyện, một tác phẩm mà nhiều người chúng ta biết đến. Trong một truyện khác, ông dựa theo những truyền kỳ của dân tộc Trung Hoa để miêu tả một hình thức áp bức rất ư là phong kiến * tác giả một tác phẩm tuyệt hảo có khi lại chính là nạn nhân của nó, nếu người ta không muốn người khác có một tác phẩm như mình thì cái kế sách thường dùng là thủ tiêu luôn tác giả để không còn người nào có thể hoàn thành một tác phẩm tương tự. Sau đây là một đoạn trích trong truyện "Rèn Kiếm":
... Thằng bé bước tới gần. Trong ánh trăng mờ ảo nó thấy mẹ nó ngồi trên giường, đôi mắt lấp lánh. Bà nghiêm giọng:
- Nghe đây. Cha con là một người rèn kiếm nổi tiếng, có một không hai trên đời này. Mẹ bán hết đồ nghề của cha con để khỏi chết đói nên không còn gì cho con xem nữa. Thế nhưng phải nói là cha con là người rèn kiếm không ai bì kịp. Hai mươi năm trước, bà thứ phi hạ sinh ra một cục thép, mà người ta nói là bà ta thụ thai khi ôm một cái cột sắt. Cục sắt đó, thuần khiết, trong suốt. Nhà vua biết rằng cục sắt này hiếm quí, nên muốn đánh thành một thanh kiếm để tùy thân, bảo vệ bờ cõi, và tiêu diệt kẻ thù. Khổ thay, cha con lại được chỉ định để làm việc ấy, và chính ông đã hai tay bưng cục sắt đó về. Ba năm ròng rã, ông rèn cục sắt ngày đêm, đến khi hoàn thành được hai thanh kiếm.
Thật là kinh hoàng khi cha con mở cái lò ra. Một làn hơi trắng bay vút lên trời, và mặt đất rung chuyển. Làn hơi trắng tụ lại thành một đám mây, chuyển thành màu đỏ tươi và phủ lên mọi vật một màu hồng nhạt. Trong chiếc lò đen ngòm là hai thanh kiếm còn nóng đỏ. Trong khi cha con tưới lên từng giọt nước, hai thanh kiếm rít lên những tiếng xì xì rồi chuyển sang màu xanh. Bảy ngày, bảy đêm sau, hai thanh kiếm không còn thấy đâu nữa. Thế nhưng nhìn kỹ, hai thanh kiếm vẫn còn đó, đã chuyển sang màu xanh biếc và trong suốt như hai cục băng.
Cha con mắt sáng lên mừng rỡ bội phần. Nhặt hai thanh kiếm lên, ông vuốt ve rồi múa thử. Thế nhưng chỉ trong giây lát, vầng trán ông và trên khóe miệng đượm một nỗi buồn. Ông bỏ kiếm vào trong hộp rồi nói nhỏ với mẹ:
- Ai ai cũng biết là kiếm đã đúc xong khi chứng kiến những chuyện kỳ quái mấy ngày qua. Ngày mai ta phải đem dâng lên đại vương một thanh kiếm. Nhưng đó cũng là ngày cuối cùng của đời ta, e rằng vợ chồng mình không còn gặp lại nhau nữa.
Mẹ hoảng hốt, không hiểu cha con nói gì, cũng không biết phải trả lời sao. Mẹ lắp bắp: "Nhưng chàng đã hoàn thành công việc rồi mà".
- A, nàng không hiểu. Vương gia vốn đa nghi và tàn nhẫn. Bây giớ hai thanh kiếm đã đúc xong, thể nào ta cũng sẽ bị giết để sau này ta không thể đúc một thanh kiếm khác cho kẻ đối đầu hay kẻ nào muốn hơn được nhà vua.
Mẹ òa lên khóc. Cha con nói:
- Thôi đừng buồn. Không còn cách nào khác, nước mắt không thay đổi được số mệnh. Ta cũng đã chuẩn bị chuyện này từ lâu.
Mắt ông như bừng lửa khi đặt vào lòng ta một cái bao kiếm.
- Đây là thanh hùng kiếm. Nàng giữ lấy. Ngày mai ta sẽ mang dâng thanh thư kiếm lên đại vương. Nếu ta không về thì có nghĩa là ta đã chết. Chỉ năm sáu tháng nữa là nàng sẽ nằm bếp rồi ư? Đừng buồn, cố nuôi con khôn lớn. Bao giờ nó trưởng thành thì giao cho nó thanh kiếm này và bảo nó đi chém đầu gã hôn quân để trả thù cho ta.
Câu chuyện này dựa theo một truyền thuyết, được dùng làm bối cảnh cho một câu truyện ly kỳ về một đứa bé trả thù cho cha. Thế nhưng, người ta ít nhiều vẫn thường nghe về những huyền bí, kỳ ảo mà người Trung Hoa gán cho những thanh kiếm báu. Thanh kiếm không còn là một món võ khí tùy thân, đôi khi nó trở thành một sinh vật, và một sinh vật luôn luôn có hồn, thiêng liêng, nhất là lại được sử dụng để sát hại người khác. Chính vì thế thanh kiếm được coi như một sinh vật tùy thân của người kiếm khách, là một bạn đồng hành hơn là một món vũ khí vô tri. (Tiếp)

Hư Trúc
25-11-2010, 07:26 AM
Đặc sắc nhất là những thanh bảo kiếm gia truyền của mỗi giòng họ. Thanh Chủy Thủ của dòng họ La, thanh Trạm Lư của dòng họ Chương. Ngoài ra còn phải kể đến thanh Thái A, là bội kiếm của nhà vua đã cởi ra để trấn sơn khi lên núi Trâu Tịch tế trời đất, mà nhóm họ Trương nhất quyết chiếm đoạt để tạo sự bất an trong tâm lý triều đình nhà Tần. Những thanh kiếm đó đều là những bảo vật được ghi trong sử sách.
Trong truyện kiếm hiệp tân thời, chúng ta cũng gặp nhưng thanh bảo đao, bảo kiếm được mô tả rất thần kỳ. Ỷ Thiên Đồ Long Ký tác phẩm nổi tiếng của Kim Dung xoay quanh hai món bảo vật, kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ông đã viết một đoạn rất linh động về sự xuất hiện của thanh đao khi giáo phái Thiên Ưng tụ họp quần hào "Dương Đao Lập Uy" tại một hòn đảo hoang có tên là Vương Bàn Sơn:
“... Bạch Qui Thọ đứng lên, lớn tiếng nói:
- Tệ giáo gần đây mới có được một thanh bảo đao, tên gọi Đồ Long. Thường nghe rằng "Võ Lâm Chí Tôn, Bảo Đao Đồ Long, Hiệu Lệnh Thiên Hạ, Mạc Cảm Bất Tòng[1]".
Y nói đến đây, đưa đôi mắt sáng quắc quét từ tả qua hữu khắp một lượt toàn trường. Thân hình y không to lớn, nhưng tiếng nói hưởng lượng, mục quang sắc bén, khiến cái uy nghiêm làm mọi người đều e sợ. Y ngừng lại một chút, nói tiếp:
- Ân giáo chủ của tệ giáo muốn gửi danh thiếp mời các lộ anh hùng trong thiên hạ tới núi Thiên Ưng, để đem bảo đao cho mọi người cùng xem. Ngặt vì làm như thế phải trù hoạch mất nhiều thời gian cho chu đáo, lại e rằng anh hùng các nơi không biết bảo đao đã do tệ giáo làm chủ, nên mời bạn bè bằng hữu các bang lộ Giang Nam tới chơi, để nhìn qua cho biết.
Nói tới đây, y giơ tay khoát một cái. Tám tên đệ tử trong số giáo chúng lớn tiếng đáp ứng, quay mình đi vào một sơn động ở phía tây.
Mọi người yên chí là tám tên này sẽ vào trong hang núi để đem đao ra, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào ngờ khi trở ra bọn họ đều cởi trần, khiêng một cái đỉnh sắt lớn. Trong đỉnh một ngọn lửa cháy bừng bừng, lên cao cả trượng. Cả tám tên đều phải đứng khá xa, dùng gậy dài ghé vai khiêng, thở phì phò, ỳ ạch để chiếc đỉnh trên bãi đất trống. Mọi người bị lửa hắt vào mặt, đều cảm thấy nóng rát.
Đằng sau tám tên này lại có thêm bốn tên khác, hai tên khiêng một chiếc đe thợ rèn, hai tên khác mỗi tên mang một cái búa sắt.
Bạch Qui Thọ nói:
- Thường đàn chủ, xin mời dương đao lập uy.
Thường Kim Bằng đáp:
- Tuân lệnh.
Rồi quay lại nói lớn:
- Mang đao ra.
Hai tên đà chủ có thần lực, mới vừa biểu diễn vác đá liền đi vào sơn động. Khi trở ra, một tên hai tay bưng một cái bao dài, tên kia đi theo hộ vệ. Giao cho Thường Kim Bằng xong, mỗi tên bước qua một bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một thanh đơn đao. Y cầm lên, nhìn quanh mọi người một lần, rút đao ra khỏi vỏ, nói:
- Đây chính là võ lâm chí tôn Đồ Long bảo đao, xin các vị nhìn cho kỹ.
Nói xong y đưa thanh đao lên ngang mặt, cử chỉ thật cung kính...
... Cây tùng thứ nhất đổ làm thành một làn gió mạnh, chỉ nghe liên tiếp những tiếng lách cách, lách cách không dứt, những cây đại thụ còn lại cũng thi nhau ngã xuống.
Thường Kim Bằng cười ha hả, vung thanh đao ném thẳng vào đám lửa đang bừng bừng cháy trong đỉnh sắt ... (Kim Dung, Ỷ Thiên Đồ Long Ký tập 1,( tiếp )

satthubinhduong
25-11-2010, 11:14 AM
Giới Thiệu (http://www.vinhanonline.com/thamtu/index.php?option=com_content&view=article&id=51&Itemid=53)Thám Tử Lê Hoàng - Thám Tử Sài Gòn - Thám Tử Bình Dương (http://www.thamtulehoang.com)

Hư Trúc
25-11-2010, 09:55 PM
Cứ theo truyền thuyết, kiếm có từ thời nhà Chu, đến đời Xuân Thu Chiến Quốc thì cực thịnh. Thời này là giai đoạn mà người Tàu mới tìm ra sắt, lại thêm một số kỹ thuật mới được dùng trong việc luyện kim nên khí cụ thời đó cứng hơn đồ đồng đời Thương Chu. Thành thử nhiều kiếm đúc vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc được xưng là bảo kiếm. Những dật sự hoang đường cũng từ đó mà nảy sinh. Đời Tiên Tần, kiếm không những là một loại võ khí tùy thân còn là một loại trang sức. Ngô Đạo Tử họa hình Khổng Tử, cũng có đeo trường kiếm. Sang đời Tần Hán, hiệp khách và giới sĩ đại phu đeo kiếm để thêm uy nghi. Vì thế món võ khí này có một giá trị đặc biệt.
Kiếm vào thời đó ngắn hơn về sau. Người ta cho rằng vì kiếm làm bằng đồng và kỹ thuật luyện kim còn hạn chế nên nếu đúc kiếm dài sẽ dễ bị gãy, bị cong. Chỉ về sau, khi kiếm được đúc bằng thép, lưỡi kiếm mới mỏng và dài, mặc dù kiếm Tàu không dài và cong như kiếm Nhật. Kiếm thời đồng khí lưỡi ngắn như một con dao găm, có cán cũng ngắn, chưa được sử dụng để cầm mà chỉ để đeo vào ngang thắt lưng, và dần dần đến cuối thời đại đồ đồng mới thành cán kiếm. Cán kiếm thường có ngấn để cầm cho dễ và khỏi tuột.. Càng về sau, lưỡi kiếm cũng dài mà cán cũng to thêm, lại có thêm kiếm cách chia đôi cán và lưỡi kiếm. Cán thường bằng gỗ hay sừng, cũng có khi nạm vàng bạc, ngọc ngà hoặc trạm trổ.
Đến đời Đường, tiêu chuẩn mới được định là từ 70 đến 85 cm. Kiếm lại còn phân biệt thư (mái), và hùng (trống). Hùng kiếm dài và lớn hơn thư kiếm. Bao kiếm thường đúc bằng đồng hay làm bằng da.
Theo Việt Tuyệt Thư, Ngoại Truyện Ký Bảo kiếm, đời Xuân Thu, Âu Trị Tử theo lệnh Việt Vương đúc năm thanh kiếm: Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà (Hào Tào), Ngư Trường, Cự Khuyết đều là những thanh kiếm nổi danh gọt sắt như bùn (tước thiết như nê). Ba thanh Thuần Quân, Trạm Lư, Thắng Tà là kiếm lớn, hai thanh Ngư Trường, Cự Khuyết chỉ là đoản kiếm (chủy thủ). Có người giỏi về coi kiếm là Tiết Chúc được vương vời vào hỏi. Tiết Chúc mô tả là "nhìn màu sắc đẹp đẽ như hoa phù dung mới nở, nhìn văn lý, sáng rực như sao băng, của Ngô vương Quang, tại Tương Dương, Hồ Bắc đào được hai thanh kiếm của Ngô vương Phù Sai, tại Hoài Nam, An Huy, đào được kiếm của Thái Tử nước Ngô có tên là "Cô Phát Nhàn Phản" kiếm. Về kiếm nước Việt, năm 1965 người ta đào được tại Giang Lăng, Hồ Bắc hai thanh kiếm hết sức đặc biệt, một thanh của Việt Vương Câu Tiễn, một thanh của Việt Vương Châu Câu. Thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn đào được tại một ngôi mộ tại Vọng Sơn còn nguyên như mới, rất sắc bén, đúc rất tinh xảo. Thanh kiếm này dài 55.7 cm, trên cán có những vết khắc. Kiếm cách (cái đai giữa lưỡi và chuôi kiếm), có hoa văn, nạm ngọc xanh lam. Lưỡi kiếm có khắc sọc hình quả trám, khắc 8 chữ lệ kiểu chân chim "Việt Vương Cưu Thiển Tự Tác Dụng Kiếm" (kiếm của Việt vương Câu Tiễn tự làm lấy để dùng).
Thanh kiếm của Câu Tiễn không hoàn toàn thẳng mà gần cán bản rộng hơn. Đến khoảng 2/3 thì vuốt nhỏ lại, thuôn thuôn tới tận mũi. Nhìn hình dáng, thanh kiếm này quả rất mỹ thuật, sống kiếm thẳng, và xem ra là một loại vũ khí được chế tạo tinh mỹ, tiện dụng trong chiến đấu. Thời Xuân Thu, kiếm chủ yếu dùng để đâm thẳng, không phải để chém. Thanh kiếm của Câu Tiễn đã nói lên được đặc trưng của thời đại này và cũng cho chúng ta thấy thợ đúc kiếm 25 thế kỷ trước đã có một trình độ cao. Năm 1973, thanh kiếm này và bộ y phục bằng những mảnh ngọc đính lại, dùng để quàn xác một vương tử thời Tây Hán đã được trưng bày tại Nhật Bản. Cũng dịp này, Quách Mạt Nhược, một thi nhân nổi tiếng của Trung Hoa đã cảm khái một bài thơ như sau:
Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô kiếm,
Chuyên lại dân công tự thác kim.
Ngân lũ ngọc y kim hựu thị,
Thiên thu bất hủ tượng nhân tâm.
(Kiếm của Việt vương Câu Tiễn phá Ngô,
Chính là do sức dân rèn đúc mà thành.
Áo ngọc, chỉ bằng bạc nay còn đây,
Nghìn năm không nát cái tấm lòng của người thợ)
Bài thơ ám chỉ là tuy Câu Tiễn đề là "tự tác dụng kiếm" (tự rèn lấy mà dùng) nhưng thực ra là do công lao của người thợ rèn, cũng như chiếc áo ngọc kia, tuy cốt để bảo vệ cái thân thể của người quyền quí khỏi hủ nát, nhưng còn lại cũng chỉ là cái tấm lòng của người thợ thôi.
Những binh khí chế tạo thời đó dĩ nhiên không phải chỉ bảo kiếm mà thôi. Năm 1983, tại Giang Lăng, người ta lại đào được một ngọn giáo (mâu) của Ngô Vương Phù Sai, về phẩm chất và mỹ thuật cũng tương tự như kiếm của Câu Tiễn. Mâu này dài 29.5 cm, có chuôi để tra vào cán, sống mâu có một rãnh dài, hai bên có khắc hình quả trám giống như Việt kiếm, cùng với hai hàng chữ gồm 8 chữ "Ngô vương Phù Sai tự tác dụng tạc" (lưỡi giáo của Ngô vương Phù Sai).
Xem như thế, quả thực đời Xuân Thu Chiến quốc, đất Ngô Việt có kỹ thuật rèn đúc đồng sắt rất cao, và những truyền thuyết về bảo kiếm không phải hoàn toàn chỉ là huyền thoại.
Đồ đồng của Trung Hoa là một hợp kim bao gồm đồng, kẽm và chì. Có khi họ còn pha cả vàng, bạc. Mỗi đời từ đời Thương (thế kỷ 16-11 trước TL), sang đời Tây Chu (thế kỷ 11-8 trước TL), Xuân Thu (770-476 trước TL), họ lại phát triển những phương thức khác nhau. Cuối đời Chiến Quốc, khi chuyển sang thời đại đồ sắt, họ đã trải qua hàng ngàn năm kinh nghiệm trong việc đúc đồ đồng, và áp dụng những kỹ thuật đó vào việc đúc đồ sắt. Việc tìm ra những loại kim khí mới cứng chắc hơn đồ đồng khiến cho họ càng cố công rèn đúc những loại binh khí sắc bén mà họ pha thêm những dật sự ky kỳ * khởi nguyên của những thanh bảo kiếm trong sử sách.