Lão Khoai
15-01-2011, 09:27 PM
thân Tặng Culu
Ai cũng biết “Đức” là cái vô hình, thế mà có dày, có mỏng. Lại có hậu, có bạc. Thì ra “Đức” không chỉ đơn giản là sự tử tế, ăn hiền ở lành hay xử việc đúng đắn,v.v… Thậm chí không chỉ được tạo nên ở đời này, mà còn được tạo nên từ những đời trước đó. “Đức” là một thứ “của cải” thuộc về “mệnh” vậy.
Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, trở về nói với người nhà: “Đức ta tuy hậu, song không thể vì thế mà tiêu xài hoang phí trong một vài đời được.” Nói rồi bèn không nhận quan tước, đem vợ con trốn vào ngũ hồ. Trước khi đi còn đến bảo Văn Chủng: “Tôi tự biết mình đức hậu, song cũng không dám lạm dụng điều đó mà làm quan, sợ thiệt mất đức của con cháu. Vì thế mới phải trốn đi. Một khi tôi đã đi rồi, thì triều đình còn ai tài hơn ông nữa. Đã thế đức của ông lại bạc. Trộm nghĩ điều đó nguy cho ông lắm. Hay là ông trốn đi còn hơn”. Văn Chủng không nghe, rốt cuộc ở lại bị Câu Tiễn giết.
Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ lấy được thiên hạ, bảo với Trần Bình: “Trộm nghĩ đức của tôi dày gấp mười lần ông, công của tôi cũng không kém ông. Vậy mà tôi vẫn không dám nhận quan tước của nhà Hán, sợ đức bị hao tổn, con cháu ngày sau phải làm lại từ đầu. Còn ông, tài thì vượt lên trên kẻ khác, song tiếc rằng đức lại mỏng. Thiết tưởng đó là điều vô cùng bất trắc, cho dù có trọn vẹn được đời mình, thì đến đời sau, con cháu cũng chẳng ra gì. Sao ông không bỏ quan mà đi?” Trần Bình không nghe, rốt cuộc đến ngay đời con đã trở về hạng khố rách áo ôm.
Trọng sinh con nhà khá giả, bố làm quan to. Thế mà sống rất giản dị, chan hòa với mọi người, thường giao du rộng rãi, đàn hát rất hay. Mạnh Tử yêu lắm, muốn kết làm bạn. Mạnh mẫu (mẹ Mạnh Tử) thấy vậy can: “Ta xem thằng bé ấy bề ngoài tuy giản dị song ánh mắt tham lam. Tiếng đàn tuy réo rắt mà những âm phụ vào thường hay bị nghẹn tiếng. Người như thế là đức bạc, không đáng kết bạn.” Trọng sinh về sau quả nhiên càng ngày càng trở nên một kẻ tham lam bất tín, kết giao toàn những hạng bèo bọt. Rốt cuộc phá tán hết cơ nghiệp của bố để lại.
Xem thế thì biết, “Đức” không phải là thứ có thể đem ra để khen, chê. Càng không phải là thứ đem ra để ca ngợi, hay mắng nhau (là đồ thất đức) như xưa nay vẫn nghĩ được. “Đức” tuy vô hình. Song đó là thứ không những có thể cân đong, đo đếm, mà quan trọng là chỉ có thể “tích”, chứ không nên “tiêu”…
“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng - một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:
“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”
Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.
Tấn Bình công nức nở:
”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc”. Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”
Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:
“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?
Tấn Bình công bảo:
“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”
Sư Khoáng nói:
“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi...”
Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước... Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống...
Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất...”(st)
Ai cũng biết “Đức” là cái vô hình, thế mà có dày, có mỏng. Lại có hậu, có bạc. Thì ra “Đức” không chỉ đơn giản là sự tử tế, ăn hiền ở lành hay xử việc đúng đắn,v.v… Thậm chí không chỉ được tạo nên ở đời này, mà còn được tạo nên từ những đời trước đó. “Đức” là một thứ “của cải” thuộc về “mệnh” vậy.
Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, trở về nói với người nhà: “Đức ta tuy hậu, song không thể vì thế mà tiêu xài hoang phí trong một vài đời được.” Nói rồi bèn không nhận quan tước, đem vợ con trốn vào ngũ hồ. Trước khi đi còn đến bảo Văn Chủng: “Tôi tự biết mình đức hậu, song cũng không dám lạm dụng điều đó mà làm quan, sợ thiệt mất đức của con cháu. Vì thế mới phải trốn đi. Một khi tôi đã đi rồi, thì triều đình còn ai tài hơn ông nữa. Đã thế đức của ông lại bạc. Trộm nghĩ điều đó nguy cho ông lắm. Hay là ông trốn đi còn hơn”. Văn Chủng không nghe, rốt cuộc ở lại bị Câu Tiễn giết.
Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ lấy được thiên hạ, bảo với Trần Bình: “Trộm nghĩ đức của tôi dày gấp mười lần ông, công của tôi cũng không kém ông. Vậy mà tôi vẫn không dám nhận quan tước của nhà Hán, sợ đức bị hao tổn, con cháu ngày sau phải làm lại từ đầu. Còn ông, tài thì vượt lên trên kẻ khác, song tiếc rằng đức lại mỏng. Thiết tưởng đó là điều vô cùng bất trắc, cho dù có trọn vẹn được đời mình, thì đến đời sau, con cháu cũng chẳng ra gì. Sao ông không bỏ quan mà đi?” Trần Bình không nghe, rốt cuộc đến ngay đời con đã trở về hạng khố rách áo ôm.
Trọng sinh con nhà khá giả, bố làm quan to. Thế mà sống rất giản dị, chan hòa với mọi người, thường giao du rộng rãi, đàn hát rất hay. Mạnh Tử yêu lắm, muốn kết làm bạn. Mạnh mẫu (mẹ Mạnh Tử) thấy vậy can: “Ta xem thằng bé ấy bề ngoài tuy giản dị song ánh mắt tham lam. Tiếng đàn tuy réo rắt mà những âm phụ vào thường hay bị nghẹn tiếng. Người như thế là đức bạc, không đáng kết bạn.” Trọng sinh về sau quả nhiên càng ngày càng trở nên một kẻ tham lam bất tín, kết giao toàn những hạng bèo bọt. Rốt cuộc phá tán hết cơ nghiệp của bố để lại.
Xem thế thì biết, “Đức” không phải là thứ có thể đem ra để khen, chê. Càng không phải là thứ đem ra để ca ngợi, hay mắng nhau (là đồ thất đức) như xưa nay vẫn nghĩ được. “Đức” tuy vô hình. Song đó là thứ không những có thể cân đong, đo đếm, mà quan trọng là chỉ có thể “tích”, chứ không nên “tiêu”…
“Vua nước Tấn là Tấn Bình công thích nghe âm nhạc. Thấy Sư Khoáng - một nhạc sư được coi là bậc “thánh nhạc” đời bấy giờ nói đến điệu “Thanh chuỷ”, đòi nghe. Sư Khoáng nói:
“Không nên. Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy. Nay chúa công bạc đức, nếu nghe tất có tai họa.”
Tấn Bình công cứ nằng nặc đòi nghe cho bằng được. Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Gảy được một khúc, có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi.
Tấn Bình công nức nở:
”Âm nhạc mà đến như điệu Thanh chuỷ thì chắc không còn gì hơn nữa!”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh chuỷ tuy cũng thuộc hàng “thánh nhạc”. Song còn chưa bằng điệu Thanh dốc.”
Tấn Bình công ngạc nhiên hỏi:
“Trên đời lại còn có điệu hay hơn điệu Thanh chuỷ nữa ư? Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt?”
Sư Khoáng nói:
“Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc. Các vua sau này càng đời sau càng bạc đức, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy, ngộ nhỡ các thần lại hiện xuống cả thì làm thế nào?
Tấn Bình công bảo:
“Các thần hiện xuống thì càng vinh dự cho nước Tấn ta chứ sao?”
Sư Khoáng nói:
“Kẻ ngu này không cho là thế. Nội nghe một điệu “Thanh chuỷ” kia cũng đã đủ gây tai vạ cho chúa công rồi. Nay chúa công lại còn đòi nghe điệu “Thanh dốc” nữa thì nguy đến cả nước Tấn chứ chả phải chuyện chơi...”
Tấn Bình công không tin, cứ cố ép mãi. Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ôm đàn mà gảy. Mới gảy được một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên. Gảy khúc nữa, bỗng nổi một cơn dông, ngói trên nóc điện bay tung lên, cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi thì mưa như trút nước... Tấn Bình công sợ hãi, nằm phục vào một nơi. Mãi đến khi mưa gió tạm yên, nội thị mới dám chạy lên vực Tấn Bình công từ trên đài xuống...
Sau hôm ấy, Tấn Bình công quả nhiên lâm bệnh nặng. Vài tháng thì chết. Nước Tấn từ đó càng ngày càng nát, chẳng bao lâu cũng mất...”(st)