PDA

View Full Version : Thành ngữ -điển tích Trung Hoa!



nhachoaloiviet
23-01-2011, 06:38 PM
1. Cử án tề mi
Đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ, khí tiết, giữ đạo thanh bần cao đẹp. Đức hạnh, tài năng của chàng được người khâm phục, nổi tiếng khắp nơi.
Ở vùng địa phương có nàng Mạnh Quang vốn dòng nho gia giàu có nhứt vùng. Nàng tính nết đoan trang đức hạnh, đương độ kén chồng. Nhiều người thân hỏi, nàng trả lời rằng chỉ có người hiền đức như Lương Hồng mới xứng đáng là chồng.
Thấy nhà họ Mạnh đạo đức, Lương Hồng cùng nàng Mạnh Quang kết nghĩa đá vàng.
Khi làm lễ thành hôn, nàng Mạnh Quang mặc xiêm y lộng lẫy, trang sức toàn vàng ngọc đắt tiền, cốt làm đẹp cho chàng vừa ý. Nào ngờ trông thấy vợ trang sức rực rỡ, Lương Hồng không bằng lòng, bảy ngày đêm, chàng không làm lễ động phòng hoa chúc.
Nàng Mạnh Quang lấy làm lạ, kiểm điểm lại lời nói cử chỉ của mình không tỏ vẻ gì vô lễ. Nghĩ mãi, nàng ngờ rằng vì nàng trang sức lộng lẫy mà chồng không bằng lòng chăng. Nàng liền trút bỏ lớp áo quần tốt đẹp, đồ trang sức ngọc vàng, để mặc y phục vải bô, cài thoa gai ra hầu chồng.
Thấy vợ như thế, Lương Hồng vui vẻ nói:
- Đây mới chính là vợ của ta. Hồng này không màng danh lợi, không ham của bạc vàng. Hồng chỉ muốn cùng vợ cày lấy ruộng, trồng lấy lúa, dệt lấy vải, sinh sống trong cảnh nghèo mà lúc nào cũng giữ tròn khí tiết, đạo đức, vợ lúc nào cũng kính trọng chồng và chồng lúc nào cũng nể yêu vợ.
Mạnh Quang nghe chồng nói rất lấy làm vui vẻ. Nàng đối với chồng rất mực cung kính. Mỗi bữa cơm, đối diện, nàng nâng mâm ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng.
Trong tác phẩm "Nhị độ mai", tác giả Vô danh, đoạn diễn tả cảnh Hoài Nguyên đi cống Hồ có làm bài thơ tặng tình nhân là Mai Lương Ngọc lúc chia ly, có câu:
Ngang mày Mạnh thị chưa nâng án,
Thấy mặt Chiêu Quân đã mất tranh.
"Mạnh thị" đây chỉ nàng Mạnh Quang. Về sau, những nhà có hôn lễ, nhà trai thường viết 4 chữ "Cử án tề mi" dán ở cửa phòng, chỉ rằng người vợ hiền đức.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều sang chơi nhà Kim Trọng, chàng nho sinh này có chiều âu yếm lả lơi, Kiều sợ chàng đi quá vòng lễ giáo, mới có câu khuyên:

Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bực bố kinh.
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
"Bố kinh" là "Bố quần, kinh thoa", nghĩa là quần bằng vải, trâm cài đầu bằng gai, chỉ người vợ hiền đức.

nhachoaloiviet
23-01-2011, 06:40 PM
2.Duyên Nợ Ba Sinh
"Ba sinh" do chữ "Tam sinh", nghĩa là ba kiếp luân chuyển: Tạc sinh, Kim sinh,Lai sinh .Duyên nợ ba sinh là duyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.

Trong bài thơ "Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
'Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi!"

Trong "Đoạn Trường Tân Thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:
'Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi".

Sách "Truyền Đăng Lục" và sách "Quần Ngọc Chú" có chép:

Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ Tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy có một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đang cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư nói:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ Sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.

Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giật mình thức dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ.

Lại có một điển tích khác.

Đời nhà Đường (618-907), có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một người đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:
- Người đàn bà này đã có mang 3 năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn 3 ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng.

Chiều đó, sư Viên Trạch mất.

Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:
"Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân,
Tàm quy tình nhân viễn tương phỏng
Thử thân tuy dị, tính thường đồng".
Nghĩa:
"Là linh hồn cũ đã ba sinh,
Trăng gió làm chi để bận mình.
Thẹn với người quen xa viếng hỏi,
Thân này tuy khác, tính nguyên lành".

"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.

nhachoaloiviet
23-01-2011, 06:54 PM
3.Bệnh nhập cao hoang
(Vô phương cứu chữa)

Giải nghĩa từ : Cao : chỉ dầu mỡ ;
** Hoang : phần giữa tim và hoành cách mô.
Cao Hoang : chỉ thuốc không tới được nơi có bệnh.

Ý nghĩa câu : Bệnh đã không còn cách nào chữa được .

Cách dùng : Ví những bệnh tật ở giai đoạn cuối ,không thể cứu chữa được nữa .Câu này áp dụng trong trường hợp rơi vào tình thế nghiêm trọng , không thể cứu vãn được .

Xuất xứ : Thời Xuân Thu ,Tấn Cảnh Công là con trai của Tấn Thành Công, tên là Nhũ. Ông ta ngu muội ,bất tài, tin gian thần , nghe lời xúc xiểm , đã vô cớ sát hại cả gia tộc nhà họ Triệu như : Triệu Đồng , Triệu Khoát -hậu duệ của trung thần Triệu Thuẫn . Ba năm sau , Tấn CẢnh Công nằm mơ thấy quỷ , tay rút chuỳ ,nhảy múa điên cuồng , thân hình to lớn , lớn tiếng mắng ông ta :" Đồ hôn quân vô đạo ! Con cháu ta có tội gì ? Ngươi bất nhân ,bất nghĩa , giết người vô cớ, ta đã tố cáo ngươi với Thiên Đế , xin tới đây lấy mạng của ngươi".

Nói xong liền tiến thẳng tới chỗ Cảnh Công . Cảnh Công vô cùng sợ hãi,bèn chạy vào nội cung. Tên quỷ phá cửa xông vào , Cảnh Công sợ quá trốn trong nội thất , tên quỷ nọ lại phá cửa đuổi theo . Cảnh Công rất kinh hoàng , giật mình tỉnh dậy,hoá ra là một giấc mơ, nhưng từ đó ông ta mắc bệnh .

Từ đó , bệnh của Cảnh Công ngày càng trầm trọng . Một hôm , thái ý dâng tấu nói :" Nước Tần Có một vị lương y , là học trò của thần y Biển Thước, ông ta có y thuật cứu người thoát khỏi tay tử thần , hiện giờ ông ấy là thái y của nước Tần , nếu như có thể mời ông ta tới đây , thì bệnh của quốc vương có thể sẽ được cứu."

Nghe vậy , Cảnh công lập tức cho người tới nước Tần mời thần y. Tần vương cử lương y Cao Hoãn đến nước Tấn trị bệnh . Tần y vãn chưa tới nơi mà bệnh tình của CẢnh Công đã rất nguy cấp. Cảnh Công hoảng hốt lại nằm mơ , trong giấc mơ, ông thấy hai đứa trẻ đang lặng lẽ đứng bên cạnh mình nói chuyện với nhau .

Một đưa nói :"Vị thái y cao minh đó sắp tới rồi , theo ta thì lần này chúng ta khó mà chạy thoát, chúng ta trốn đâu đây ?"
Đứa kia bảo :" Chẳng có gì phải sợ cả , chúng ta trốn ở phía trên phần giữa hoành cách mô và tim , phía dưới của lớp mỡ , cho dù ông ta có dùng thuốc gì thì cũng chẳng làm gì được chúng ta ."

Hai đưa trẻ nói xong thì chui vào lỗ mũi của Cảnh Công . CẢnh Công tỉnh dậy, cảm thấy giữa phần ngực và phần hoành cách mô đau đớn khủng khiếp, đứng ngồi không yên .

Sau khi Cao Hoãn tới, lập tức được mới vào cung trị bệnh cho Cảnh Công . Tới lúc thông báo kết quả chẩn đoán, Cao Hoãn lắc đầu nói với Cảnh Công : "Bệnh của đại vương rất nặng , đã không có cách gì chữa khỏi rồi . Bệnh ở trên phần trên của "hoang" , ở phần dưới của "cao" châm cứu không được , kim không tới nơi ,uống thuốc thì hiệu lực của thuốc cũng không cứu được . Quả thực là hết cách rồi ."

Cảnh Công nghe vậy, trong lòng nghĩ :lời của thái y nói giống hệt như câu chuyện mà hai đứa trẻ nói với nhau trong trong giấc mơ, bèn gật đầu nói :" Y thuật của ngài thật là cao minh !" Nói xong bèn sai ngưòi đem lễ hậu tới thưởng cho thầy thuốc , để cho ông ta về nước Tần. Không lâu sau thì Cảnh Công qua đời .

nhachoaloiviet
25-01-2011, 06:43 PM
4-Binh bất yếm trá
(Chiến đấu bất chấp thủ đoạn )

Giải nghĩa từ :

Yếm : Thoả mãn , đầy đủ
Trá : lừa dối .

Ý nghĩa của câu thành ngữ muốn nói đến trong khi tác chiến cần phải cố gắng hết khả năng tung hoả mù đánh lừa đối phương để giành được thắng lợi .

Cách dùng : Ví với việc trong chiến tranh cần phải biết dùng mưu kế , sách lược đánh lừa đối phương , để giành được thắng lợi , nghĩa là không thể quá thật thà với kẻ địch được , phải dùng kế khiến cho kẻ địch không có sự đề phòng .

Xuất Xứ : Thời Đông Hán , khi Hán An Đế tại vị ( năm 107-125 CN) một số bộ lạc tộc Khương ở phía Tây Nam thường xuyên quấy rối biên cương . Có một lần đã vây được quận Vũ Đô của triều Hán .
Khi đó tình hình rất nguy cấp , An Đế vội vàng phong cho Ngu Hủ làm thái thú quận Vũ Đô , đem quân chống cự lại với quân Khương . Ngu Hủ dẫn mấy ngàn binh mã , ngày đêm tiến vào quận Vũ Đô. KHi quân đến dải đất Trần Thương , Hào Cốc thì bị quân KHương chặn lại. Ngu Hủ thấy quân địch đông mà quân mình ít , bèn lệnh cho quân binh dừng lại , sau đó nói rằng khi một đội quân lớn của triều đình được cứ đến thì sẽ lập tức hợp binh tấn công .
Quân Khương không biết đó là kế sách , tin là thực , bèn chia quân bốn phía cướp giật lương thực , lực lượng phòng thủ vì thế mà bỗng chốc suy yếu . Ngu Hủ thấy quân địch đã phân tán bèn nắm lấy cơ hội, lập tức dẫn quân phá tan phòng tuyến địch,nhanh chóng tiến về phía quận Vũ Đô .
Ngu HỦ lệnh cho quân sĩ gấp rút tiến lên , mỗi ngày hành quân hơn trăm dặm, đồng thời ra lệnh cho binh sĩ các đội đào hai hầm trong ngày đầu tiên , sau đó dần dần tăng lên gấp bội .Có tướng lĩnh không hiểu được ý nghĩa của việc đó , bèn hỏi : " Ngày xưa Tôn Tẫn dẫn quân hành quân tác chiến , mỗi ngày lại giảm số hầm để đánh lừa quân địch, hành quân ba mươi dặm,phía trước phía sau phối hợp với nhau thì có thể đảm bảo được an toàn . Chúng ta mỗi ngày đi hơn trăm dặm, những điều đó đều không hợp với quy tắc của tiền nhân !".
Ngu Hủ nói : " Dùng binh đánh trận phải căn cứ vào tình thế khác nhau mà có những sách lược khác nhau . Quân Khương rất đông , chí sĩ hừng hực; còn quân ta lại ít ỏi , không thể đối đầu với chúng được . Nếu như chúng ta hành động chậm, há chẳng phải sẽ bị quân Khương đuổi kịp ư ? Chiến tranh phải chấp nhận dối lừa, phải ngụy tạo để đánh lừa quân địch. Ngày xưa Tôn Tẫn giảm số hầm đào là để giả bộ quân đội suy yếu , còn chúng ta tăng thêm số hầm đào là để giả bộ quân sĩ rất hùng mạnh ".
Quả nhiên , quân Khương thấy số hầm của quân Hán ngày càng nhiều , cho rằng binh lực của quân Hán không ngừng được tăng lên , không dám tiếp tục truy đuổi . Bởi vậy,quân của Ngu Hủ mới được an toàn tiến vào quận Vũ Đô .
Khi đó , số quân Hán chiếm quận Vũ Đô không đến ba ngàn người , còn quân Khương thì có đến vài vạn , hiển nhiên là địch nhiều mà ta thì ít . Bởi vậy mà khi hai quân giao chiến với nhau , Ngu Hủ lệnh cho binh sĩ không được dùng cung tên bắn được xa mà chỉ dùng cung tên yếu chỉ bắn được rất gần . Quân Khương thấy cung tên của quân Hán yếu ớt thì lấy làm yên tâm . Ngu Hủ đợi cho địch tiến đến gần , lệnh cho binh sĩ dùng tên mạnh tập trung bắn liên tiếp , khiến cho quân Khương thương vong nặng nề , vội vàng tháo lui . Không ngờ , trên đường thoái lui lại bị tinh binh đã được mai phục của Ngu Hủ tấn công , kết quả là quân Khương đại bại .
Sau khi quận Vũ Đô được giải vây , Ngu Hủ lại tập trung sức người xây dựng hai trăm tám mươi thành lũy dọc một dải biên giới , triệu tập những người dân chạy trốn trong chiến tranh , sắp xếp cuộc sống cho họ . Và quận Vũ Đô rối ren đã dần dần được ổn định .

nhachoaloiviet
25-01-2011, 06:45 PM
5-Ái Ốc cập ô


Giải nghĩa : Vì yêu thích căn nhà mà yêu cả con quạ trên mái nhà nữa .

Cách dùng : Dùng đẻ véi với việc vì yêu thích một người nào đó mà yêu luôn cả những gì liên quan tới người đó .

Xuất xứ : Những năm cuối đời nhà Thương , Trụ Vương xa xỉ , hoang dâm vô đạo, khiến cho trăm họ muôn phần cực khổ . Thủ LĨnh Cơ Xương của nước chư hầu phía tây quyết định lật đỏ sự thống trị của nhà Thương , tích cực luyện binh chuẩn bị chiến đấu , thế lwục ngày càng vững mạnh, ông còn mở kinh đô về phía đông tới tận ấp phong Thiểm Tây ,chuẩn bị đông tiến , nhưng tiếc rằng ông vẫn chưa kịp thực hiện được nguyện vọng của mình thì đã qua đời .

Sau khi Cơ Xương mất , con trai của ông là Cơ Phát kế thừa vương vị của cha, người đời sau gọi ông là Chu Vũ Vương. Dưới sự phò tá của quân sự Khương Thái Công và em trai Chu Công Cơ Đán , Chiêu Công Cơ Thích , Chu Vũ Vương đã liên kết chư hầu các lộ, xuất binh thảo phạt Thương Trụ Vương . Hai bên giao chiến với nhau , lúc này Trụ Vương đã mất hết nhân tâm , thuộc hạ của ông ta vô cùng khiếp nhược trưóc quân Chu hùng mạnh, cuối cùng đại bại,kinh đô của nhà Thương là Triều Ca đã bị quân Chu tấn công nhanh chóng . Thương Trụ Vương tự thiêu ở Lộc Đài, triều Thương bị diệt vong .

Sau khi Thương Trụ Vương chết , trong lòng Chu Vũ Vương vẫn chưa yên tâm ,bởi vì ông cảm thấy thiên hạ vẫn chưa được an định. Ông cho triệu kiến KHương Thái Công , hỏi : "Sau khi vào An đô,ta nên xử trí những quyền thần quý tộc, quan binh của triều đại cũ ra sao ?"

Khương Thái Công nói " Thần có nghe nói câu này : Nếu như yêu thích một căn nhà nào đó thì cũng yêu luôn cả con quạ trên mái nhà người ta ; Nếu như không thích ai đó thì ghét luôn cả tường bích hàng rào nhà người ta . Điều đó đã rất rõ ràng , giết chết toàn bộ những gì thuộc về kẻ địch, một người cũng không để lại , Đại Vương thấy sao ?"

Vũ Vương cho rằng điều đó quá tàn nhẫn . Lúc này Chiêu Công Cơ Thích tiến lên nói : "Thần cũng đã từng nghe nói câu này : 'Người có tội, phải giết ; người vô tội thì hãy nên để cho họ tiếp tục sống . Nên giết chết tất cả nhwũng người có tội , không để cho chúng còn lại chút tàn dư.'Đại Vương , Ngài nghĩ sao ?"

Vũ Vương như vậy làm như vậy thì cũng không thoả đáng. Lúc này , Chu Công tiến lên nói:"Theo thần thì nên chjo tất cả mọi người ai về nhà đó , ai trồng ruộng người đó . Bậc quân vương không nên chỉ thiên vị bạn bè cũ và thân thuộc của mình , nên lấy nhân nghĩa đẻ cảm hoá người trong thiên hạ ."

Vũ Vương nghe vậy thì rất đỗi vui mừng , như đưọc mở cờ trong bụng , bèn nghĩ nếu lấy cách đó để trị quốc thì có thể an định được thiên hạ .
Sau đó , Vũ vương đã thục hiện nhân nghĩa theo đề nghị của Chu Công , hậu đãi quý tộc , quan lại,tướng sĩ của thời xưa , hậu đãi trăm họ trong thiên hạ .Quả nhiên ,thiên hạ đã đưọc an định nhanh chóng , lòng dân quy thuận , Tây Chu cũng ngày càng lớn mạnh .

nhachoaloiviet
25-01-2011, 06:48 PM
6-Ban môn lộng phủ


Nghĩa từ : Ban: tên người thợ khéo tay Lỗ Ban
Nghĩa câu : Tương đương với câu Múa rìu qua mắt thợ .
Cách dùng : Dùng đả kích (cũng dùng trong lối nói khiêm tốn )người dám thể hiện bản lĩnh nghiệp dư trước những người có nghề chuyên nghiệp .
Xuất xứ :
LỖ Ban là người nước Lỗ , thời Xuân Thu. Theo truyền thuyết ông là thợ thủ công giỏi, rất giỏi kiến trúc và điêu khắc ,kì nghệ tuyệt thế vô song . Mọi người đều tôn ông làm tổ sư nghề thợ mộc .

Nhà Thơ LÝ Bạch nổi tiếng đời Đường , tự Thái Bạch hiệu là Thanh Liêm Cư Sĩ ,người Miên Châu, Xương Long . Từ nhỏ ông đã có kiến thức rất phong phú, ngoài kinh điển nho gia, sách sử nổi tiếng , ông còn đọc sách của bách gia tri tử và yêu thích thích kiếm thuật . Ông rất tin vào đạo giáo , thích ẩn cư , học thuật cầu tiên,. Đồng thời lại mang hoài bão góp sức cho nước nhà.

Đưòng HUyền Tông từng có lời thề trở thành ông vua anh minh đã cho triệu tập nhân tài.Trong dịp này Lý Bạch cho rằng chơ hội thi thố tài năng đã đến . Đường Huyền Tông thấy ông có tài ngang dọc , giỏi thơ văn lại có vẻ bề ngoài tuấn tú bèn cho làm quan ở Hàn Lâm Viện .MỘt thời gian sau Vương công , quý tộc quan lại hiển đạt đua nhâu kết thân với LÝ Bạch . Do tính tình ông cương trực , không a dua nịnh hót, thường phản bác những lời lẽ rèm pha nên chưa đầy 2 năm sau ông bị cách chức ,đuổi ra khỏi kinh thành .

Theo kể lại , vào một đêm ,khi Lý Bạch trèo thuyền đi dạo trên hồ , thăm Thái Thạch Cơ , ông đã uống rất say, nhìn thấy trăng dưới nước ông nhảy xuống mò nên bị chết đuối .
Cũng có ý kiến cho rằng : Lý Bạch cố tình nhảy xuống sông tự vẫn ( lý do này có lý hơn bởi có nhiều nhà văn,nhà thơ tài ba tìm con đường giải thoát mình bằng cách tự vẫn .)

Người ta an táng ông tại Thái Thạch Cơ. Từ đó Thái Thạch Cơ trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng .

Mấy thế kỷ sau nhà thơ đời nhà MInh , Mai Chi Hoán đến Thái Thạch Cơ làm bài điếu trước mộ Lý Bạch .Khi đứng trước mộ Thi Tiên Lý Bạch ,ông vô cùng ngạc nhiên và tực giận khi thấy những chỗ nào có thể viết chữ trên bia mộ thì mọi người đã viết cả . Những tác giả này văn thơ chẳng ra sao , đề loạn lên bài tiên thơ của LÝ Bạch, những câu thơ đó mà lại viết lên mộ của Lý Bạch thật là nực cười !

Ông cảm thấy thật không phải với Lý Bạch, bèn đem bút viết :

Thái Thạch giang biên nhất đống thổ
Lý Bạch chi danh cao thiên cổ
Lai lai võng võng nhất thủ thơ
Lỗ Ban môn tiền lộng đại Phủ

Dịch nghĩa : Thái thạch cơ bên sông có nấm mồ, Lý Bạch thi nghệ tiếng thơm cao muôn đời, thế mà có mấy ông khách đến viếng thăm cứ thích đề thơ, khác gì múa rìu qua cửa Lỗ Ban

Lão Khoai
25-01-2011, 10:30 PM
Hào hoa công tử
Chữ nghĩa thâm sâu
Khoai tôi ngưỡng mộ
Hội kiến có ngày

nhachoaloiviet
27-01-2011, 10:47 AM
Hào hoa công tử
Chữ nghĩa thâm sâu
Khoai tôi ngưỡng mộ
Hội kiến có ngày

Bác Khoai khen là chữ nghĩa thâm sâu, ngại quá! CÓ chỗ nào là chữ của em đâu bác. Mong được như bác nói :hội kiến có ngày.

nhachoaloiviet
27-01-2011, 11:08 AM
7-Khúc nghê thường.
Theo truyền thuyết (sách "Dị văn lục") thì khúc vũ này do Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện về chế ra cho những người cung nữ múa hát.
Nguyên một đêm Trung Thu, niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường (713-741), vua Minh Hoàng thấy trăng sáng, mơ ước được đặt chân đến đấy xem chơi. Có đạo sĩ tên La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện), người có phép tiên mới dùng giải lụa trắng, hóa thành một chiếc cầu đưa nhà vua đến Nguyệt điện.
Trong điện bấy giờ sáng rực. Tiếng nhạc du dương. Những nàng tiên trong những xiêm y xinh tươi, lộng lẫy, uyển chuyển múa hát như đàn bướm đủ màu tha thướt, bay lượn bên hoa.
Đường Minh Hoàng càng nhìn càng thấy say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì quên trở về.
Nhờ ghi nhớ cách điệu nên khi trở về triều, Đường Minh Hoàng chế thành khúc "Nghê Thường vũ y" để tập cung nữ múa hát. Rồi cứ đến đêm rằm tháng tám, Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ xiêm y rực rỡ, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường để tưởng như sống trong cung Quảng Hàn, điện Nguyệt.
Truyền thuyết này có tính cách thần thoại.
"Đường thư" chép: Đường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài "Tây Thiên điệu khúc", đến khi trở về trần, còn nhớ mang máng. Nhằm lúc có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương, đem khúc hát Bà La Môn đến biếu, Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê Thường vũ y".
Tài liệu này có phần thực tế.
"Nghê" là cầu vồng. Tiếng miền Nam gọi là cái mống, do ánh nắng xuyên qua hơi nước trong mây nên phân thành bảy màu. Sách Tàu ngày xưa chỉ nhận có năm màu.
"Thường" là xiêm, để che phần hạ thân của người. "Nghê Thường" có nghĩa là xiêm cắt bằng năm màu.
"Vũ y" là áo dệt bằng lông chim. Hay có nghĩa là kiểu áo theo hình cách chim.
"Nghê Thường vũ y", ta có thể cho đó là những vũ nữ mặc áo theo hình cánh chim, còn quần thì bằng lụa phất phới ngũ sắc.
Những nhà sử học và khảo cổ học đã cho biết: đời Đường (và trước đời Đường), người Tàu đã có một khái niệm rõ rệt về địa dư vùng Tân Cương mà họ thường đến để mua bán và... chinh tây. Mặc dù người Tàu chưa từng chinh phục Ấn Độ nhưng sự bang giao về thương mại và chính trị đã có từ đời Hán (206-196 trước D.L.). Ấn Độ là nơi mà đạo Bà La Môn rất phồn thịnh. Lắm khi người Tàu và người Tân Cương lúc bấy giờ gọi phần đất Ấn Độ là Bà La Môn quốc. Bằng cớ là vào năm 629, lúc nhà sư Trần Huyền Trang (thường gọi là Đường Tam Tạng) đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, ghé nước Cao Xương. Vua nước này có viết một bức thư cho vị Khả Hãn Tây Đột Quyết, yêu cầu Khả Hãn hết sức ủng hộ Huyền Trang đi dễ dàng đến "Bà La Môn quốc".
Vậy, ta có thể cho khúc "Nghê thường vũ y" là hình thức biến chuyển của khúc hát "Bà La Môn" đã có trước tiên ở phần đất Ấn Độ ngày xưa. Nó truyền sang Tàu ở đất Tây Lương do Tiết độ sứ Trương Kính Thuật đem dâng cho Đường Minh Hoàng.
Đất Tây Lương chính là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc ngày nay của nước Tàu. Trước đời nhà Đường, Đôn Hoàng đóng một vai trò quan trọng về phương diện văn hóa và thương mại.
Về mặt văn hóa, Đôn Hoàng chính là nơi các pháp sư Ấn Độ đến nghỉ ngơi, giảng đạo trước khi đi sâu vào đất Tàu. Về mặt thương mại, Đôn Hoàng là đầu cầu nối liền đường chở tơ lụa từ Tàu sang Ấn Độ, Ba Tư đến Địa Trung Hải. Ở đây là nơi tập trung các đoàn thương gia quốc tế chuyên chở hàng hóa trên lưng lạc đà tấp nập để trao đổi sản phẩm. Các nhà sử học gọi là "Đường tơ lụa" (Route de la soie).
Con đường dài xa thẳm ấy phải trải qua nhiều nước nhỏ với những vùng nông nghiệp rải rác phì nhiêu. Những nước nhỏ này nay đã bị diệt vong. Nhưng từ đầu công nguyên, những nước này có một nền văn hóa khá cao, chịu ảnh hưởng Ba Tư, Ấn Độ và Trung Hoa. Nước đáng chú ý nhứt là nước Qui Tư. Nước này giỏi về âm nhạc và vũ khúc. Nhạc công đội khăn đen, mặc y phục bằng lụa đỏ, tay áo thêu. Bản nhạc của họ có nhiều tên thơi mộng "Trò chơi giấu kim thoa", "Người ngọc chuyền ly rượu", v.v... Khi hòa tấu, có bốn người biểu diễn ca vũ. Ở vùng núi nước Qui Tư có những ngọn suối đàn. Nước nhỏ xuống đá từng giọt phát âm bổng trầm. Mỗi năm một lần các nhạc sĩ đến lắng nghe để phổ thành nhạc.
Phụ nữ nước Qui Tư rất đẹp. Gương mặt tròn, đều đặn. Y phục đặc biệt là nhiều kiểu, nhiều màu, thêu thùa khéo léo. Đàn ông mặc áo trắng viền xanh hoặc xanh viền trắng. Đàn bà mặc hai kiểu áo: tay rộng và tay chật. Áo trắng bâu xanh. Áo đen có thêu hình màu xanh trắng. Áo dài xanh viền vàng hoặc có sọc vàng. Phải chăng đó là những màu "nghê thường"?
Vậy, căn cứ vào khoa khảo cổ và sử học, ta có thể cho khúc "Nghê Thường vũ y" là một ca vũ khúc Ấn Độ truyền sang. Trên con đường phiêu lưu bằng "con đường tơ lụa" trước khi truyền sang Trung Hoa, khúc ca vũ này đã bị các sắc tộc dọc đường biến cải ít nhiều. Và khi đến Trung Hoa thì nó được chấn chỉnh lại cho hợp với dân tộc tính Trung Hoa do một nhà vua phong lưu tài tử, ăn chơi rất mực.
Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, có câu:
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngoảnh Nghê Thường trong trăng.
Trong "Bích Câu kỳ ngộ" cũng có câu:
Đong đưa khoe thắm, đưa vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê Thường thiết tha.