View Full Version : Dịch Kinh
Lão Khoai
24-01-2011, 08:49 AM
Có thơ rằng:
“Vạch liền, vạch đứt xoay vần
Thì ra Trời, Đất... có ngần ấy thôi.”...
Hai câu lục bát trên là nói về Kinh Dịch, một bộ sách tối cổ của người phương Đông. Sau đây xin được phép (lạm) bàn (một tí ti) về bộ sách ấy.
Kinh Dịch, hẹp thì bàn chuyện thăng, trầm của một kiếp người, cũng như kiếp cỏ cây, đồ vật, muông thú... Rộng ra tí nữa thì bàn chuyện thịnh, suy của một nhà, cũng như một dòng họ, một chòm xóm, một làng... Lại rộng thêm nữa thì bàn chuyện hưng, vong của một quốc gia. Cứ thế mà mở rộng thêm, nghĩa là có thể bàn đến việc trị, loạn của cả thiên hạ... Nếu cần thì (Dịch) chỉ ra một khoảnh khắc, một kiếp, một thời... Nếu cần nữa thì sẵn sàng chỉ ra cả trăm năm, nghìn năm, vạn năm... Lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp, dài hay ngắn... không điều gì nằm ngoài những quy luật đã vạch ra trong bộ Kinh ấy.
Có thể mượn ngôn ngữ toán học để (tạm) hình dung cái “lý” ấy. Ví dụ đời người tất có lúc thăng, lúc trầm. Một “nhà” gồm có nhiều người, tức là cũng gồm cả những thăng, trầm ấy. Thăng, trầm của mỗi kiếp người có thể khác nhau. Nhưng gộp những thăng, trầm ấy lại, thể nào cũng có lúc cái này hoặc cái kia chiếm phần đa số, thể nào cũng có một “bội số chung”. Thế thì cái bội số chung kia của những thăng, trầm, sẽ chính là thịnh, suy của “nhà” ấy vậy. Cũng y như thế đối với một quốc gia. Một quốc gia gồm nhiều “nhà”, tức là cũng gồm cả những thịnh, suy ấy. Thế thì bội số chung của những thịnh, suy kia sẽ chính là hưng, vong của một quốc gia vậy. Cũng y như thế đối với cả thiên hạ. Cả thiên hạ gồm nhiều quốc gia, tức là cũng gồm cả những hưng, vong ấy. Thế thì bội số chung của những hưng, vong kia sẽ chính là trị, loạn của cả thiên hạ vậy.
Lại có thể thay những “thăng, trầm”; “thịnh, suy”; “hưng, vong”; “trị, loạn” trên bằng “hay, dở”; “mạnh, yếu”; “yên, nguy”; “thiện, ác”... kiểu gì cũng... đều như thế cả.
Để chỉ ra những điều vừa “ghê gớm”, vừa “giản dị” ấy, Kinh Dịch sau khi đã “vạch” xong cả trời đất, vũ trụ, nhân thế... chỉ bằng đúng hai thứ chữ cái không thể nào tối giản hơn (một vạch liền và một vạch đứt), thì bắt đầu căn cứ vào cái nhìn thấy để suy ra cái không nhìn thấy và ngược lại. Tương ứng với thời nào, khắc có “tượng” (cái nhìn thấy) của thời ấy, cũng đương nhiên có “lý” (cái không nhìn thấy) kèm theo. “Tượng” là “lý”, mà “lý” cũng là “tượng”. Xem “tượng” để biết “lý” và ngược lại, xem “lý” để biết “tượng”. Không thể nào khác được.
Ví dụ quẻ “TỈNH”. “Tỉnh” (tượng) là cái giếng nước. Thế là cứ xem cái giếng nó thế nào, thì “lý” của thời “Tỉnh” nó cũng như thế ấy. Thời “Tỉnh” bất biến và dửng dưng với mọi bể dâu. “Tỉnh” không mất gì, cũng không được gì, kẻ đến không mừng, kẻ đi chẳng tiếc. Đã là “giếng” thì múc lên không cạn bớt, rót xuống chẳng đầy thêm... “Tỉnh” (giếng) là một thứ vĩnh hằng. Làng có cái giếng dùng để lấy nước ăn, vừa ngọt vừa mát, quý lắm đấy. Nhưng đó là thứ tài sản duy nhất không thể mang đi được dù chỉ một bước chân. Làng có thể di dời, nhưng giếng thì ở lại. Đó là cái “lý” của tuyền quẻ. Còn ruột quẻ, thì từ đáy giếng lên tới miệng giếng, bắt đầu chỉ thấy bùn, dần dần lên tới miệng giếng là có thể thấy được gió thổi, nghe được chim hót, ngắm được trời xanh bao la... Ai đã từng lặn mò dưới đáy giếng, người đó mới cảm nhận hết sự sung sướng, nhẹ nhõm và trong lành tuyệt đỉnh lúc leo lên tới miệng. Kẻ lúc nào cũng ở trên miệng giếng, tất nhiên chỉ toàn thấy tầm thường, không bao giờ có được những cảm giác đó. Đáy giếng tối tăm vừa rập rình khí độc, vừa ngập ngụa hơi bùn, thậm chí còn làm con người ta chết ngạt. Nhưng nước đã múc lên đến miệng giếng rồi, thì cứ yên tâm mà uống, bởi bao giờ cũng chỉ ngọt mát mà thôi, khí độc kia đã lập tức không còn lại tí dấu vết nào. Hào “thượng lục” của quẻ “Tỉnh”, chính là chỉ cái thời khắc tuyệt vời nơi miệng giếng ấy, nơi chỉ cách cái chốn độc địa, chết người kia có vài sải tay. Đó là một hào “thượng” thuộc vào loại tốt nhất trong số những hào “thượng” của tuyền bộ Dịch.
Cuộc đời không thiếu gì những “miệng giếng” như thế. Nhưng chỉ có những ai vừa từ dưới “đáy giếng” chui lên, mới giác ngộ được cái thời khắc tuyệt đỉnh ấy nơi “miệng giếng” mà thôi. Và ý tưởng của một cuộc cải cách, muốn có sự thay đổi, ý tưởng làm cách mạng... cũng chính từ cái thời khắc có một không hai ấy mà sinh ra. Nên ngay sau quẻ “Tỉnh”, tiếp liền đến quẻ “Cách” (“cách” = cải cách, cách mạng...). Vừa ra khỏi thời “Tỉnh”, liền bước ngay vào thời “Cách”, không thể nào khác được. Ghê thật, Dịch quả nhiên đã thấy trước, tính trước và nhìn thấu cả thế thái nhân tình.(st)
trannhien
24-01-2011, 11:23 AM
Kinh dịch đọc khó hiểu quá Bác Khoai ạ, em đọc nó cứ thấy mơ màng thế nào ấy. Bác có cách nào giúp những người như em đọc, hiểu nó một cách rõ ràng không ạ ? Nếu được, bác post bài lên nhé ! Cám ơn Bác nhiều.
Mấy thằng bạn nó bảo muốn hiểu kinh dịch thì phải biết tiếng Hoa. Nếu đúng vậy thì căng quá, vốn liếng tiếng Hoa của em thì chỉ biết được dăm mặt chữ gọi là để đọc sách cờ của các thành viên TLKĐ gửi thôi, biết đến bao giờ mới hiểu hết được KD. Rất nhiều người bảo Heghen khó đọc, nhưng em thấy ông Heghen viết đọc còn dễ chịu chán so với KD.
nhachoaloiviet
24-01-2011, 11:45 AM
Kinh Dịch sử dụng hệ nhị phân đầu tiên >>> đi đầu trong mô toán học và áp dụng cho tới tận bây giờ bác Khoai nhỉ. Liền là 1,đứt là 0,chỉ có vậy mà chứa cả vũ trụ,mọi đổi thay xoay vần hihi
Lão Khoai
24-01-2011, 12:08 PM
@ Bác Trannhien
Xin bác đừng đánh giá tôi cao quá ,tôi cũng mù mờ thôi Ngày trước mê đọc dịch là vì khoái cái khoản thuật số tử vi cũng có thời gian nghiên cứu qua Mai Hoa của Thiệu Khang Tiết ,Dã Hạc , Lục Nhâm ..vv.. Tuy nhiên cũng chỉ biết cái dụng mà thôi , thể thì vẫn loăng quăng lắm
Diễn giải về Dịch ,xưa có một số bộ do các tác giả như
-Cụ Phan Bội châu ,sách cụ viết hơi cổ hủ nên khó đọc lại rất buồn cười vì lối văn biền ngẫu như hào Lục Duơng thì cụ gọi là anh sáu ơi ,hào ngũ âm thì gọi chị năm ,,,,
-Cụ Ngô Tất tố thì có thêm lời bàn của Trình Dy và Chu Hy cùng các tiên nho ,bản dịch tuơng đối chính xác
-cụ Nguyễn Mạnh Bảo thì tán lung tung quá chạy ra thành gần 10 quyển nhưng không đưa được cái gì mới
-cụ Nguyễn duy Cần thì nói gì cũng mang cái tôi vào cũng không thích lắm
-cụ Nguyễn duy Tinh thì ok vì có thêm phần Hệ từ Thuọng truyện và Hạ Truyện do Khổng Tử san định
Có học giả Nguyễn hiến Lê trình bày khá mạch lạc ,tôi trích ra một đoạn nếu bác thích thì cho tôi mail tôi gửi chứ pốt lên đây ai mà coi
Chương 1
NGUỒN GỐC KINH DỊCH VÀ NỘI DUNG PHẦN KINH
NGUỒN GỐC:
Một sách bói mà thành sách triết.
Khắp thế giới có lẽ không có bộ sách nào kỳ dị như bộ Kinh Dịch.
Nó là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung hoa, sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó - tức bát quái - thì có thể sớm hơn vào cuối đời Ân, 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không do một người viết mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán nó mới có hình thức gần như hình thức ngày nay chúng ta được biết từ Tây Hán đến nay, trên 2.000 năm nữa, thời nào cũng có người tìm hiểu nó thêm, đem ý riêng của mình và tư tưởng của thời đại giọi vào nó, khiến cho ý nghĩa và công dụng của nó mỗi ngày một nhiều và một xa nguồn gốc.
Do đó, không thể gọi nó là tác phẩm của một nhà nào cả, không phải của Khổng gia cũng không phải của Lão gia, và Vũ Đồng, tác giả bộ Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn thư quán) gọi nó là tác phẩm chung của một phái, phái Dịch học, mà những người trong phái nầy gồm nhiều triết gia xu hướng khác nhau.
Mới đầu nó chỉ là sách bói, tới cuối đời Chu thành một sách triết lý tổng hợp những tư tưởng về vũ trụ quan, nhân sinh quan của dân tộc Trung Hoa thời Tiên Tần; qua đời Hán nó bắt đầu có màu sắc tượng số học, muốn giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục, tới đời Ngũ Đại nó được dùng trong môn lý số đời Tống nó thành lý học; ngày nay một số nhà bác học phương Tây như C.G Jung tâm lý gia nổi danh của Đức và Raymond de Becker (Pháp) muốn dùng nó để phân tích tiềm thức con người, coi nó là một phương pháp phân tâm học.
Điều kỳ dị nhất là môn "dịch học" nó chỉ dựng trên thuyết âm dương , trên một vạch liền ________ tượng trưng cho dương, một vạch đứt ___ ___ tượng trưng cho âm, hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới:Lục thập tứ quái .
Dùng sáu mươi bốn hình này, người Trung Hoa diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên tới những đồ dùng, những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống , xử thế...
Các ông "Thánh" Trung Hoa đó quả thực có một sáng kiến mới mẻ, một sức tưởng tượng, suy luận lạ lùng, khiến người phương Tây ngạc nhiên và có người Âu (J.Lavier) đã dùng một vài quẻ để giải thích một vài hiện tượng khoa học, sự tiến triển của khoa học.
Sự kiện dùng hai vạch để giảng vũ trụ, xã hội đó thật ít ai quan niệm nổi, cho nên ngay người Trung Hoa đã tạo ra nhiều truyền thuyết để giải thích nguồn gốc Kinh Dịch.
Lão Khoai
24-01-2011, 12:11 PM
Truyền thuyết về Kinh Dịch.
Những truyền thuyết đó nhiều khi mâu thuẫn, vô lý, như huyền thoại, nhưng vì có nhiều người tin chắc hoặc “đành phải chấp nhận vì không có thuyết nào hơn cho nên chúng ta cần biết qua, chứ đi sâu thì theo tôi, chỉ mất thì giờ vô ích.
1. Truyền thuyết vua Phục Hy tạo ra bát quái:
Theo Từ Hải thì Phục Hy còn có tên là Bào Hy, Thái Hạo v.v. . . là một trong ba ông vua thời Thái cổ, hai ông kia là Tọai Nhân, Thần Nông. Phục Hy dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật, tạo ra bát quái và thư khế (văn tự, khế ước).
Không hiểu Phục Hy ở thế kỷ nào, có sách nói là thế kỷ 43, có sách nói là thế kỷ 34 trước Tây Lịch ông làm vua 115 năm, truyền được 15 đời, rồi tới Tọai Nhân dạy dân dùi cây hay cọ hai miếng gỗ với nhau mà lấy lửa. Thần Nông dạy làm ruộng.
Như vậy thì Phục Hy không phải là tên một người (cũng như Sào Thị, Tọai Nhân Thị, Thần Nông Thị), chỉ là một tên người đời sau đặt ra để tượng trưng một thời đại, thời đại dân tộc Trung Hoa còn ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn, hái lượm, chưa thể có văn tự được muốn ghi chép việc gì thì dùng cách buộc nút (kết thằng) hoặc lấy đá nhọn gạch những vạch lên một khúc cây như một số dân tộc lạc hậu hiện nay còn sống thưa thớt ở giữa Phi Châu, Úc Châu, Nam Mỹ Châu.
Nói bát quái thì có từ thời đó, cách thời chúng ta năm, sáu ngàn năm thì nó chỉ có thể là những vạch để đánh dấu cho dễ nhớ, như những con số thôi, chứ không có gì khác (chúng tôi sẽ trở lại điểm này ở đoạn sau) a) Thiên Hệ từ thượng truyện – Chương 11: - Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra trang chữ, thánh nhân phỏng theo” (Hà Xuất Đồ, Lạc Xuất Thư, Thánh Nhân Tắc Chi) Tuy đọan đó không nói rõ, nhưng đặt nó vào toàn thiên thì phải hiểu rằng Phục Hy phỏng theo bức đồ hiện ra ở sông Hà, trang chữ hiện ra ở Sông Lạc để vạch ra bát quái.
b) Thiên Hệ tử hạ truyện, Chương 2 chép rõ hơn: * Ngày xưa họ Bào Hi (tức Phục Hi) cai trị thiên hạ , ngửng lên thì xem các hình tượng trên trời, cúi xuống thì xem các phép tắc ở dưới đất, xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi với trời đất (của từng miền), gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi làm ra bát quái, để thông suốt các đức thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật (Cổ giả Bào – có người đọc là Bao Hi thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn dữ thiên địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, ư thị thủy tác bát quái dĩ thông thần minh chí đức, dĩ loại vạn vật chí tình).
Như vậy là ngay trong Kinh Dịch đã có hai thuyết mâu thuẫn nhau rồi, Âu dương Tu, một văn hào đời Bắc Tống đã vạch ra chỗ mâu thuẫn đó trong tập: Dịch đồng Tử Vấn. Đại ý ông bảo: Đọan trên (chương 11 thượng truyện) nói rằng bát quái là do trời sai long mã ở sông Hà đội lên mà giao cho Phục Hi, không phải do người làm ra (phi nhân chi sở vi, thị thiên chi sở giáng đã), đọan dưới (chương 2 hạ truyện) lại bảo bát quái là do người làm (Phục Hi xem các hiện tượng trên trời dưới đất mà vạch ra), bức đồ hiện trên sông Hà không dự gì tới (thị nhân chi sở vi, hà đồ bất dự yên), vậy thì biết tin thuyết nào?
Câu “ “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi” dẫn trên lại mù mờ nữa, vì chữ thánh nhân đó không chỉ rõ ai, một ông thánh hay nhiều ông thánh ?
Có người hiểu là 2 ông thánh. Phục Hy và vua Vũ nhà Hạ (2-205-2.197) Do đó phát sinh ra tới 4 thuyết:
- Phục Hy xem xét các hiện tượng trên trời mà vạch ra bát quái (người đời sau gọi là Tiên thiên Bát Quái) - Phục Hy phỏng theo Hà Đồ (bức đồ hiện ở sông Hà) mà vạch ra bát quái.
- Phục Hy phỏng theo cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư ( trang chữ xuất hiện ở sông Lạc) mà vạch ra bát quái, Hà Đồ và Lạc Thư vậy là cùng xuất hiện trong đời Phục Hi (thuyết này của Du Diễm đời Tống).
Lạc Thư không xuất hiện ở đời Phục Hy mà xuất hiện trong đời vua Vũ nhà Hạ, nghĩa là khoảng một hai ngàn năm sau, và vua Vũ phỏng theo nó để vạch ra bát quái (người đời sau gọi là Hậu thiên bát quái). Bát quái này cũng y hệt bát quái trên, chỉ có vị trí các hình là khác thôi (tôi sẽ xét trong một đọan sau) và để đặt ra Cửu trù hồng phạm, tức chín lọai về qui phạm lớn của trời đất, nói cho dễ hiểu là chín phương pháp để cai trị thiên hạ. Nhưng Cửu trù hồng phạm chẳng liên quan gì tới Kinh Dịch cả.
Về Hà Đồ, truyền thuyết bảo rằng đời Phục Hy có một con Long mã (lòai ngựa thần, hình thù như con rồng mình xanh lục có vằn đỏ, xuất hiện trên sông Hòang Hà, đội một bản dồ, bản đồ đó là sách mệnh trời ban cho Phục Hi để trị thiên hạ. Những đời sau mỗi khi có thánh vương xuất hiện như đời vua Nghêu, vua Thuấn . . .đều được trời ban cho Hà Đồ.
Còn về Lạc Thư thì trong khi vua Vũ trị thủy, thấy một con rùa thần cũng do trời sai xuống hiện lên ở sông Lạc – một chi nhánh của sông Hòang Hà – trên lưng có những nét đếm từ 1 đến 9.
Thuyết Hà Đồ chắc khá phổ biến ở đời Chu, chính Khổng tử cũng tin. Luận ngữ, Thiên tử Hản, bài 8, ông than thở với môn đồ: “chim Phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông (Hòang) Hà, ta hết hy vọng rồi” (Phượng điểu bất chí, Hà bất xuất đồ, ngô dĩ hỉ phù!” Chim Phụng và Hà đồ mà xuất hiện là điềm thánh vương ra đời, Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương không ra đời, đạo của ông không sao thi hành được. Có thể ông cũng tin rằng đời Phục Hi có Hà Đồ xuất hiện, còn như ông có cho rằng Phục Hi phỏng theo Hà đồ mà vạch ra bát quái hay không thì không có gì làm chắc (trong một chương sau, chúng tôi sẽ chỉ rõ Hệ từ truyện thượng và hạ không phải của ông viết).
Cờ_Cơm
24-01-2011, 01:33 PM
Bát quái suy lai huyền dịêu lý
Lục hào sưu tận quỉ thần cơ !
trannhien
24-01-2011, 03:11 PM
Cám ơn Bác Khoai !
Sách về kinh dịch thì em có 02 quyển: một của Ngô Tất Tố, một của Nguyễn Hiến Lê, nhưng thú thật em đọc thấy mơ màng quá nên nản.
Bác Khoai khiêm tốn đấy thôi, chứ kiến thức của em chả biết đến khi nào mới mù mờ được như Bác :D
PhiHuong
25-01-2011, 02:20 AM
Kinh Dịch là một bộ sách hay quí hiếm ở trên đời, do bậc Thánh Nhân sáng tác. Nó có nguồn gốc huyền bí cũng như nội dung bên trong vậy, xem mà hiểu được là khó, dùng được lại càng khó hơn !. Kinh Dịch dị bản không ít, nhất là ngày nay dịch giả (uyên thâm) nhiều như lá tre cộng thêm (khoa học) thực dụng. Cho nên chỗ nào chưa thấu liền quyết ngay rằng :"Phải thế này... thế khác...". Cũng vì nhẽ ấy, việc sưu tầm chính bản xưa khó lắm thay !.
Phihuong từng thấy trong một bản chữ Hán viết thế này :
"Hữu hệ từ thượng hệ truyện viết : Hà xuất đồ Lạc xuất thư, Thánh Nhân tắc chi"
- (Trên là lời hệ từ thượng hệ truyện nói rằng : Sông Hà ra đồ, sông Lạc ra thư, ông Thánh Nhân bắt chước đấy)
Phụ lục: Khổng Thị viết : (Khổng An Quốc) "Hà đồ giả Phục Hy Thị vượng thiên hạ, Long Mã xuất đồ toại tắc kỳ văn, tự nhất chí thập dĩ hoạch bát quái. Ngũ thập ngũ điểm tại mã tích, kỳ toàn mao chi đồ hữu như tinh tượng".
- Phụ lục: (Ông An Quốc họ Khổng nói rằng : Đồ sông Hà ấy họ Phục Hy trị trong thiên hạ, con Long Mã ra đồ bèn bắt chước thửa văn, từ một đến mười lấy vạch tám quẻ. Năm mươi nhăm điểm ở sống lưng con Long Mã, thửa đồ quanh lông có như tượng sao).
"Lạc thư giả Vũ trị thủy thời, Thần Qui phụ văn nhi liệt ư bối, hữu số chí cửu. Vũ toại nhân nhi đốc chi dĩ thành cửu loại."
-(Thư sông Lạc ấy là thời vua Vũ trị thủy, con Rùa thần cõng văn mà bầy trên lưng, có số tới chín, Vua Vũ bèn nhân mà tin thứ bậc đấy, lấy nên chín Trù)...
Như đoạn trên đây thì vua Phục Hy phỏng theo bức đồ trên mình con Long Mã mà làm ra tiên thiên bát quái. Vua Đại Vũ phỏng theo hình vẽ trên lưng con Thần Qui mà làm ra hậu thiên bát quái.
Lại như thuyết nào nói rằng vua Toại Nhân cũng liên quan tới Kinh Dịch thì rất đáng ngờ vậy !. Phihuong thấy sách xưa nói vua Toại Nhân sinh ra trước đời vua Phục Hy. Vua Toại Nhân là một trong hai vua đời Nhị Quân, còn vua Phục Hy thuộc đời Ngũ Đế, sau nữa là Viêm Đế Thần Nông. Nay trích nguyên văn một đoạn chữ Hán :
.....
"Hữu Sào, Toại Nhân
Nhị quân kế tác
Giáo dân sào lỗ
Cố viết hữu sào
Viên cập Toại Nhân
Giáo dân hỏa thực
Đế Phục Hy thị
Thừa vận nhi hưng ...
_(Vua Hữu Sào, vua Toại Nhân, hai vua thay đời trước mà làm, dậy dân đào hang, cho nên nói rằng có tổ.
Bèn kịp vua Toại Nhân dậy dân dùng lửa làm chín đồ ăn. Hoàng Đế họ Phục Hy noi theo vận mà dấy lên) ...
Lão Khoai
25-01-2011, 02:24 AM
Bác PhiHuong nhất định phải là người ăn nằm với Dịch đã lâu ,sơ căn hồ dễ nói được thế
PhiHuong
25-01-2011, 03:02 AM
Bác PhiHuong nhất định phải là người ăn nằm với Dịch đã lâu ,sơ căn hồ dễ nói được thế
Cái này thì Kủ tiên sinh nói đúng quá ! Phihuong cũng có chút duyên với đạo Dịch ... hihi ...
PhiHuong
28-01-2011, 03:39 AM
Kủ tiên sinh thực hiện cải cách nhanh qua ! đã thành 02 topic rồi.
- Đạo Dịch luôn biến đổi theo thời, nhưng lý Dịch cũng có nguồn thì phải ?.
Sách xưa ghi : Dịch là tâm thuật, xem Dịch phải để trống rỗng lòng mình, lại nói : theo dòng tìm nguồn. Thật là khó hiểu !.
Ôi ! Chí tai Dịch hồ ! suy nghĩ còn chưa đủ, nào dám lạm bàn.
Lão Khoai
28-01-2011, 05:40 AM
xem Dịch phải để trống rỗng lòng mình, lại nói : theo dòng tìm nguồn. Thật là khó hiểu !.
Ôi ! Chí tai Dịch hồ ! suy nghĩ còn chưa đủ, nào dám lạm bàn.
Thì có trống rỗng mới theo dòng tìm nguồn đuợc chứ bác .Lòng đặc nghẹt thì tìm sao thấy hihih
PhiHuong
28-01-2011, 03:14 PM
Thì có trống rỗng mới theo dòng tìm nguồn đuợc chứ bác .Lòng đặc nghẹt thì tìm sao thấy hihih
hihi ... Trống rỗng là để thông với Quỷ Thần, suy tư là để theo dòng tìm nguồn. Đạo với thời như vậy đó.
Chứ đặc nghẹt thì thấy thế nào được, Kủ tiên sinh nhỉ ?.
Lão Khoai
28-01-2011, 09:44 PM
hihi ... Trống rỗng là để thông với Quỷ Thần, suy tư là để theo dòng tìm nguồn. Đạo với thời như vậy đó.
Chứ đặc nghẹt thì thấy thế nào được, Kủ tiên sinh nhỉ ?.
Đặc nghẹt thì mình chỉ muốn ...Nâng chén tiêu sầu thôi bác ạ
Powered by vBulletin® Version 4.2.1 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.