PDA

View Full Version : Cô Đầu



Lão Khoai
09-02-2011, 03:59 AM
Đầu xuân nhớ bác PhiHuong


Nhà thơ Tú Mỡ (*) có mấy câu thơ gieo toàn vần trắc nói về không khí Hát Cô đầu hồi đầu Thế kỷ 19 rất ấn tượng


Họ kéo từng đàn xuống xóm hát / Lu bù ngày ấy sang đêm khác

Phen này ông quyết xuống Khâm Thiên / Mở tiệm cô đầu có lẽ phát.



“Khâm Thiên” tức “Xóm hát Cô đầu” hoặc “Phố Cô đầu”! Hát ở đây là hát Cô đầu như trong câu thơ của nhà thơ Tú Mỡ! Sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành, mỗi câu thơ của Tú Mỡ mỗi khi viết về đất Thăng Long ngàn năm văn vật đều là những “tư liệu lịch sử bằng thơ”. Vì thế khi tìm hiểu nghệ thuật hát Ca trù không thể không tìm hiểu tại sao lại có lúc gọi nó là Hát Cô đầu? Tại sao lại có cảnh tượng nhộn nhịp “kéo từng đàn xuống xóm hát” như thế và Hát Cô đầu thực sự là gì mà “mở tiệm cô đầu” dễ phát tài?

*

Cô đầu là một dạng kỹ nữ trong thời cận đại ở Việt Nam, phục vụ khách “Làng chơi” bằng ca hát và “Tình cảm”. Mức độ, liều lượng giữa ca hát và “Tình cảm” tùy thuộc vào “cảm hứng” giữa các ca nương (ả đào, cô đầu) và “khách làng chơi”! “Hát Cô đầu” thu hút khách bằng cả lời ca và nhan sắc của ca nương. Song không thể nói là ở đây chỉ có ca hát mà “chuyện Tình ái” tất nhiên sẽ xảy ra, tùy thuộc vào “cảm hứng” của đôi bên. Vì thế, “Hát Cô đầu” vẫn bị mang “tiếng xấu”, tất nhiên không phải “trần trụi” sắc dục như “Nhà Thổ”! Vì thế, thú chơi Cô đầu vừa được coi là thú chơi tao nhã vừa bị nhìn là không trong sạch, thậm chí đứng sau “Nhà Thổ” trong danh sách “Đen” . Thú chơi cô đầu thịnh hành nhất vào những năm thuộc Pháp và ở các tỉnh phía Bắc, với địa danh nổi nhất là phố Khâm Thiên ở Hà Nội. Cô đầu sống thành từng nhóm, trong các nhà chứa khách đến với thú chơi cô đầu.

Theo Từ điển tiếng Việt, cô đầu là một danh từ thuộc loại từ cũ, khẩu ngữ để chỉ các ả đào. Nhà thơ Trần Tế Xương chắc chắn là người rất hay đi hát cô đầu, có quan hệ và ân tình sâu nặng với các cô kỹ nữ này, ông còn có bài Tết tặng cô đầu trong đó có câu: Nhân sinh quý thích chí / Chẳng gì hơn hú hí với cô đầu !

Đại đa số các văn nhân tài tử đất Bắc trước 1954 đều mê đi hát cô đầu. Câu thơ “Họ kéo từng đàn xuống xóm hát” của Tú Mỡ và câu thơ vừa dẫn trên của Tú Xương đã cho ta thấy sự hoạt động của ca trù thật là sôi động, thú vị. Cái mối giao hảo, cái "quý thích chí" ấy của tài tử giai nhân ta thấy rất nhiều chứng cớ thể hiện qua những bài hát đề tặng nhau như là để kỷ niệm, để tỏ lòng ưu ái riêng tư. Dương Khuê cũng có đến mấy bài Gặp cô đầu cũ, Thăm cô đầu ốm, tặng cô Hai, cô Phẩm, cô Cúc… Và có lẽ quan Tổng đốc hồi đó làm hơi quá nên bị nội tướng cằn nhằn, ngắt véo chi đó bèn gửi tâm sự qua bài Vợ ghen với Cô Đào Oanh!!!

Về phía các ả đào, dĩ nhiên là phái đẹp ai lại làm thơ đền đáp những kẻ đã làm thơ tặng mình và các cô thiếu gì cách khác, nhiều khi cảm động hơn, như là mở hầu bao giốc hết tiền bạc dành dụm để người ta ăn học thành tài để rồi đôi khi còn trao luôn cả trái tim chung thủy nữa. Bài thơ Thú Cô đầu của Tú Xương đã nói được rất nhiều về chuyện “tình cảm” tài tử giai nhân đó:

Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,/ Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày.

Năm canh to nhỏ tình dơi chuột,/ Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây.

Êm ái cung đàn chen tiếng hát, /La đà kẻ tỉnh dắt người say.

Thú vui chơi mãi mà không chán,/ Vô tận kho trời hết lại vay.

Như thế, cả hai cụm từ Cô đầu và Ả đào đều để chỉ người hát-xướng chứ không phải để chỉ loại hình hát-xướng. Nhưng theo thói quen, khi người ta nói “Hát Cô đầu” hoặc “Hát Ả đào” là có ý chỉ tên gọi loại hình nghệ thuật xướng ca này. Vì thế, lâu nay, người ta vẫn quen nói và viết là “Hát ca trù hay hát ả đào là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam…”. Hoặc người ta quen nói và viết rằng: Hát Ca trù, hát cô đầu, hát Ả đào, hát nói là những tên gọi khác nhau của một loại hình xướng ca. Như Từ điển thuật ngữ văn học do NXB Giáo dục xuất bản năm 1992 trong mục từ Ca trù thì ngay dòng đầu tiên ghi là : Còn gọi là hát ả đào hay hát cô đầu. Như vậy, lâu nay vẫn tồn tại cách hiểu này: Ca trù tức là Hát Cô đầu, Hát ả đào, Hát nói. Có nghĩa cả bốn cụm từ ấy có nghĩa tương đương.

*

1. Những quan niệm về Ca Trù: nguồn gốc và tên gọi

1.1.Ca trù là một hình thức “ca nhạc thính phòng”, thịnh hành từ thế kỷ 15, vốn là một loại ca nhạc trong cung đình, được sử dụng cho các buổi hát chúc thọ vua chúa và các buổi lễ trong triều đình, qua thời gian, ca trù dần dần phát triển rộng ra dân gian qua giới quan lại, đại gia, một số tầng lớp sĩ phu nho học giàu sang… và trở nên thông dụng. Tuy vậy ca trù khác với các loại hình dân ca khác ở chỗ nó có yêu cầu rất nghiêm ngặt quy định về số câu, số chữ, lời văn, quy định về đối ngẫu … có lẽ vì vậy mà ca trù vẫn được thưởng thức tập trung phần lớn ở tầng lớp có học thức cao rộng trong xã hội xưa.

Chữ trù có nghĩa là thẻ tre. Những người đào hát thường dùng các thanh tre làm phách khi hát và người nghe dùng “trù” (cái thẻ tre) để thưởng cho những chỗ hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình giá và thưởng tiền, vì thế mà có tên gọi là Ca trù.

Tư liệu sớm nhất có nói đến những chữ Ca Trù và Ả Đào là vào thế kỷ XV, căn cứ vào bài thơ Nghĩ hộ tám giáp bài văn thưởng cho cô đào được giải sáng tác trước năm 1500 của Tiến sĩ Lê Đức Mao, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Bài thơ này chép trong Lê tộc gia phả (A.1855) có hai lần nhắc đến 2 chữ ca trù, cho biết: hát cửa đình là hát để thờ thần trong dịp đầu xuân và việc hát ca trù đã có dùng thẻ để thưởng cho đào nương (ả đào). Như vậy, đình Đông Ngạc, Hà Nội là nơi diễn ra lệ hát Cửa đình từ rất sớm. Và đây cũng là nơi gìn giữ được tục lệ thưởng đào rất đặc sắc.

Trong cuốn "Thần chú thỉnh tiên - Ca trù thập cảnh Hà Tiên" do ông La Thành Đàm phiên dịch thơ nôm của Mạc Thiên Tích in năm 1907 tại Sài Gòn thì chữ Trù lại có thêm bộ nhân đứng - chữ này không có trong tự điển chữ Hán, có lẽ người viết đã muốn nhấn mạnh hơn nữa về thể loại hát này là: người hát (chữ nhân) cầm thẻ tre (chữ trù) làm phách. Ca trù còn có tên gọi khác là hát ả đào, hát nhà tơ… Sở dĩ gọi là hát ả đào là do ca sĩ hát thường là những cô gái xinh đẹp và son trẻ (má đào): Mặt tròn thu nguyệt. Mắt sắc dao cau. Vào, duyên khuê các. Ra, vẻ hồng lâu. Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban - Tạ (**). Dịu như mai - Trong như tuyết - Nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều.

Hát Ca trù có cả đào lẫn kép nhưng đào là chủ yếu nên được gọi là hát ả đào. Về sau, khoảng đầu TK XX mới gọi là hát cô đầu, hát nhà trò, Ca trù. Hát Cô đầu là tên gọi khá phổ biến bên cạnh cách gọi là Ca trù. Cách gọi Ca trù chủ yếu được dùng trong giới nghiên cứu ca nhạc, nghệ thuật và điều cần lưu ý là: Ca trù chưa phải được coi như một loại hình nghệ thuật và khu vực tồn tại của nó còn rất hạn hẹp và được coi là một “thú tiêu khiển” của một nhóm người “ăn chơi”, phóng đãng!...

Có nhiều cách giải thích hai cách gọi Cô đầu và Ả đào. Theo một sự tích từ cuối đời nhà Hồ (1400-1407), có người ca nữ họ Đào quê ở huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên, một bậc nữ nhi yêu nước, lập mưu giết được nhiều quân giặc Minh bằng “Mỹ nhân kế”: hát cho chúng nghe và chuốc rượu có thuốc mê, khi chúng “xỉu” thì kêu “quân ta” đến hạ thủ! Khi nàng chết, dân làng lập đền thờ và gọi thôn nàng cư ngụ là thôn Ả Đào. Sau đó những người làm nghề ca hát như nàng đều được gọi là ả đào. Ả đào thường ở chung với nhau một phường một xóm, ban ngày làm công việc đồng ruộng hoặc chăn tằm dệt vải y như các cô con gái thôn quê khác. Đến tối họ tới nhà quản giáp luyện tập múa hát và gõ phách do quản giáp và mấy ả đào già nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật chỉ bảo, khi có chỗ nào mời đến hát - tất nhiên là hình thức Ca Trù - thì mới đi hát. Vì thế, người ta thuận mồm gọi là Hát Ả Đào.Còn gọi là hát nhà tơ là vì ca trù thường do Ty Giáo phường quản lý, chữ "ty" còn có nghĩa (và đọc) là tơ nên gọi là hát nhà tơ.

Phần lớn các ả đào (ca nương - ca sĩ) thường ít nhiều thông hiểu chữ nghĩa mới có thể học, mới đọc được những bài thơ làm lời cho bài ca do các danh sĩ viết (câu thơ bóng bẩy, ý nghĩa cao sâu, nhiều điển tích…mà không phải ai cũng hiểu được). Họ còn phải luyện tập cả lễ nghi, cách ăn nói, đi đứng... vì thường xuyên tiếp xúc với “tầng lớp thượng lưu”, chốn quan quyền vua chúa...Họ cũng phải giữ gìn kiêng khem không được ăn no sợ kém hơi, không được uống rượu và dùng những gia vị chua cay sợ kém giọng và quan trọng hơn, họ còn phải trải qua những kỳ thi để xác nhận vị trí, tài năng, ngôi thứ trong phạm vi quản hạt của mình.

Lề thói ca trù nhìn chung chặt chẽ, tốt đẹp, nhưng tiếc thay, đến đầu thế kỷ 20 thì tinh thần ấy suy kém dần. Cuộc sống hưởng lạc, sự ăn chơi phóng đãng ở chốn thị thành ngày càng phát triển – “Họ kéo từng đàn xuống xóm hát / Lu bù ngày ấy sang đêm khác”. Nhiều người không có tay nghề cũng nhào ra mở phường hát kiếm tiền – “Phen này ông quyết xuống Khâm Thiên / Mở tiệm cô đầu có lẽ phát”! Các quan viên đi hát thì không nhằm thưởng thức ca nhạc, văn chương, mà chỉ là dịp tụ họp bạn hữu hành lạc, kiếm tìm mỹ nhân! Về phía các ả đào, nhiều cô chỉ biết hát dăm ba câu, thậm chí không biết hát mà chỉ có chút nhan sắc và những ả đào này chỉ có bổn phận lo ép các quan viên uống thật nhiều rượu để chủ nhân Nhà trò (tức tiệm Cô đầu) kiếm lời. Họ chính là những cô đầu rượu, và sẵn sàng “chiều lòng” các quan viên! Đó là nguyên nhân gây ra tiếng xấu chung cho giới cầm ca.

1.2. Ca trù xuất xứ từ tục Hát cửa đình ở Hà Nội xưa

Cho đến nay chưa biết chắc tục hát cửa đình (còn gọi là ca trù, hát ả đào) ra đời từ bao giờ. Có khá nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù là nhạc dân gian của Hà Nội từ Tục hát cửa đình ở Hà Nội xưa. Dựa vào một vài sử liệu chép rằng: năm 1025 vua Lý Thái Tổ thấy có cô gái là Đào Thị giỏi nghề hát được nhiều người mến mộ nên tất cả các nữ ca sĩ đều cho gọi là Đào nương và dân gian gọi là ả đào. Có thể ca trù đã ra đời từ trước thời Lý, dân gian gọi là hát cửa đình sau đó phát triển đi vào cung đình phục vụ vua quan.


Ở làng Phú Mỹ xã Mỹ Đình huyện Từ Liêm Hà Nội còn nhà thờ Ca Công có tấm bia đá dựng thời Tự Đức thờ một ca nữ họ Vũ, xinh đẹp, hát hay được tuyển vào cung vua. Khi về già, bà về làng dạy con cháu dòng họ Vũ hát ca trù. Bà được vua cho cắm ruộng để hưởng lộc. Đến khi bà mất, dòng họ lập đền thờ, vua có sắc phong "Nam quốc danh ca Đào thị mẫu". Từ đó dòng họ Vũ ở Phú Mỹ lập giáo phường chuyên đi phục vụ trong các ngày hội làng ở huyện Từ Liêm.(st)

Lão Khoai
09-02-2011, 04:01 AM
Ca trù được phát triển mạnh vào thời Lê sơ, hiện nay có hai giáo phường nổi tiếng đều có đền thờ tổ, đó là giáo phường Lỗ Khê huyện Đông Anh (Hà Nội) và giáo phường Phú Đô huyện Từ Liêm (Hà Nội) thờ Đinh Dự(***) hiệu là Thanh Sà Đại vương và vợ là Mãn Đường Hoa công chúa. Ở đình làng Phú Đô hiện còn cuốn ngọc phả bằng chữ Hán do ông Đào Cử (***1) đỗ Tam giáp tiến sĩ năm Quang Thuận thứ 7 (1466) làm quan tới chức Hộ bộ thượng thư biên soạn. Nội dung có đoạn viết: Đinh Dự là con trai quan Khai quốc công thần là Đinh Lễ (***2) và bà vợ họ Trần quê ở làng Lỗ Khê. Ở Phú Đô còn thờ hai bà chúa có công chấn chỉnh giáo phường đó là Nguyễn Thị Phương và Nguyễn Thị An con gái ông Nguyễn Duy Tình người làng. Hai cô Phương và An vốn xinh đẹp hát hay. Một hôm cô Phương vào vùng Thập tam trại trong thành Thăng Long cắt cỏ, vừa cắt cô vừa hát, tình cờ gặp một vị hoàng thân trong triều Lê đi tới làm quen và kết làm vợ chồng. Sau đó vị hoàng thân lên ngôi là vua Lê Anh Tông (1557-1573) bà Phương được phong là Hoàng hậu, bà em cũng được đưa vào cung và phong làm An tuyên phi. Về sau hai người trở về làng dạy trai gái trong dòng họ Nguyễn Hát ca trù. Hàng năm đến ngày giỗ tổ (mùng 3 tháng 3), các giáo phường trong huyện Từ Liêm vẫn đến đền Ca Công ở Phú Đô tế lễ tổ nghề Ca trù.


Ngoài các giáo phường nổi tiếng đã kể trên, thông qua một số di vật cổ cho thấy còn có thêm một số giáo phường khác. Ở đình làng Văn Trì, xã Minh Khai, cũng huyện Từ Liêm còn tấm bia vuông bốn mặt dựng năm Chính Hòa thứ 21 (1701) cho biết ngôi đình của làng vốn là trụ sở của giáo phường huyện Từ Liêm, sau tổ chức này giải tán nên những người đại diện của giáo phường Phương Canh và Thượng ốc đứng ra bán cho dân làng Văn Trì, như vậy đã có thời tổ chức giáo phường quy mô toàn huyện.

1.3. Làng cổ Đông Ngạc: nơi có tục hát cửa đình đầu tiên



Làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm (Hà Nội), nằm bên sông Nhị, nơi có bến Ngác và chợ Vẽ nổi tiếng khắp kinh kỳ. Vào cái thuở đường thủy còn là huyết mạch giao thông thì bến Ngác khi ấy là một nơi trên bến dưới thuyền và chợ Vẽ là một "trung tâm thương mại". Đông Ngạc là tên chữ của làng Vẽ, vốn là một làng nổi tiếng về một số nghề thủ công truyền thống như chuyên sản xuất nem ("giò Chèm, nem Vẽ"), làm quang gánh, nặn nồi đất…



Hàng năm, vào ngày 9 tháng 2 âm lịch là ngày làng Đông Ngạc vào hội làng. Xưa làng Đông Ngạc vào đám, có hát ca trù mấy ngày liền, với nhiều nghi lễ trang trọng và nghiêm trang. Người được coi là sáng tác các bài hát cửa đình bằng quốc âm đầu tiên là Lê Đức Mao (****). Tương truyền hồi còn trẻ ông là người thông minh hiếu học, hay làm thơ. Nhân thấy hàng năm dân làng mở hội mừng xuân có mời các giáo phường về hát cửa đình, Lê Đức Mao nẩy ra ý định đặt bài hát có nội dung thiết thực để cho các cô đào hát mừng dân làng. Bài hát đầu tiên do Lê Đức Mao sáng tác theo thể lục bát và song thất lục bát nhan đề "Bát giáp thưởng đào văn" - ca ngợi quê hương giàu đẹp trong khung cảnh thanh bình.


2. Các hình thức, làn điệu Ca Trù

2.1. Trong lối Hát cửa đình nguyên thủy, sơ khai có nhiều làn điệu như: Giáo hương (Dâng hương), Giáo trống, Gửi thư, Đọc phú, Đọc thơ, Bắc phản, Chừ khi, Thét nhạc… đều có xuất xứ từ cách “diễn xướng” trong các nghi thức tế lễ cúng tế thần linh. Khi hát cửa đình phát triển ổn định thành hát ca trù (tạm quy định ước lệ là thuật ngữ hát cửa đình có trước thuật ngữ Ca trù - tức nghi thức hát tế lễ (hát cửa đình) có trước và hát giải trí (ca trù) có sau -, chứ thực ra thì lúc nào người ta cũng đánh dấu bằng giữa hai thuật ngữ này) thì có năm cung bậc chính là: Bắc, Pha, Huỳnh, Nam, Nao và một cung đặc biệt nữa là cung Phú. Ca trù có nhiều làn điệu khác nhau. Người ta căn cứ vào địa điểm hát để gọi tên lối hát ca trù bằng những cái tên như: Hát Cửa đình (hát ở đình, đền phục vụ việc tế lễ thành hoàng), hát Cửa quyền (cung đình vua chúa), hát Nhà tơ (hát ở dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý, ca quán)...

Ca trù là một nghệ thuật ca hát pha trộn nhạc với thơ và mỗi cuộc trình diễn ca trù là một cuộc hát đầy nghệ thuật trong đó diễn viên cũng như kẻ thụ hưởng đều là nghệ sĩ, cả hai tích cực tham gia vào công việc trình diễn, người thưởng thức không thể đóng một vai trò hoàn toàn thụ động. Mới đầu họ lắng nghe tâm sự của cổ nhân sống lại qua tiếng nhạc và lời ca, sau đó người nghe còn điểm xuyến bằng những tiếng trống chầu nó biểu lộ cái cá tính của mình.

Khi ca trù mới hình thành, còn giới hạn trong cung điện và đình đền miếu mạo thì các lối hát tương đối ít ỏi. Về sau, lúc đã phổ biến ra ngoài dân gian, nhờ các danh sĩ rành âm luật và các tay giáp phường nhiều tài hoa chế biến thêm nhiều điệu khác. Ngày nay ca trù có khoảng trên bốn mươi lối hát : bắc phản, hát nói, mưỡu, gửi thư, hát ru, tỳ bà, thét nhạc, chừ khi, nhịp ba, cung bắc, á phiên, múa bài bông ...

Khi âm luật đã ổn định, các văn nhân tài tử không muốn nghe mãi mấy lời hát cũ, bèn sáng tác những lời hát mới...lúc đó âm luật với văn chương trong ca trù kết hợp với nhau tạo thành những làn sóng nhạc dâng trào! Đó là khi tài tử gặp giai nhân – làn điệu Hát Nói vận động và đổi mới!

2.2.Cách thức của làn điệu Hát nói xuất hiện sớm nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ thứ 19 mới có những tác phẩm lưu danh muôn thuở nhờ sự góp mặt của các nhà thơ thuộc cỡ Thi bá, Thi vương như Nguyễn Công Trứ (1), Cao Bá Quát (2) ... Nguồn gốc của thể Hát nói trong văn chương Việt Nam được giải thích bằng những nguyên nhân và các sự việc sau đây.

Trước khi có Hát nói, ở Việt Nam đã có những bài hát cửa đình, cửa chùa, những bài thét nhạc… Những thể ca trong các dịp tế lễ đó chuyển dần công dụng và được các tao nhân, mặc khách tổ chức ngay trong những cuộc giải trí riêng của họ ở tư gia, phủ đệ. Hát nói là những nét dạo đầu của sự đổi mới trong thơ ca. Đầu TK 19, “Tây học” và sự ảnh hưởng của Thơ ca phương Tây, chủ yếu là Thơ Pháp, Hát nói chính là sáng tạo của các nhà nho phóng khoáng, thích tự do, ở đấy họ có thể gửi gắm những tư tưởng, cảm xúc vượt ra ngoài khuôn phép với cách diễn đạt cởi mở, rộng rãi hơn. Hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách thời xưa cho rằng Hát nói là một hình thức biến đổi của thể ngâm Song thất lục bát: Trong hát nói có Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu 7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước vận, yêu vận . Nhưng khi đã phát triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối ...
Trong các làn điệu ca trù thì làn điệu Hát Nói là phong phú nhất, nhiều nhà văn nhà thơ lớn cũng là những người say mê ca trù và để lại nhiều bài hát nói còn mãi cho đến nay như Cao Bá Quát với Tự tình, Hơn nhau một chữ thì, Phận hồng nhan có mong manh, Nhân sinh thấm thoắt, Nghĩ đời mà ngán cho đời; Nguyễn Công Trứ với Nợ tang bồng, Ngày tháng thanh nhàn, Kiếp nhân sinh, Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Trần ai ai dễ biết ai; Dương Khuê (3) với Hồng hồng, tuyết tuyết (tức Gặp đào Hồng đào Tuyết); Chu Mạnh Trinh (4) với Hương Sơn phong cảnh; Trần Tế Xương (5)với Hát cô đầu; Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (6) với Trời mắng, Xuân tình, Chưa say, Gặp Xuân... ; Nguyễn Khuyến (7) với Hỏi phỗng đá, Duyên nợ, Mẹ Mốc, Nguyễn Thượng Hiền (8) với Chơi chùa Thày,v.v…
Một bài hát nói tiêu chuẩn chỉ có 11 câu, câu cuối chỉ có 6 chữ và trong bài thường có một cặp câu đối bằng chữ Hán (thường là bảy chữ). Nếu phải thêm số câu vào bài, người ta thường thêm 4 hoặc 8 ... câu (cấp số nhân của 4) (Trừ trường hợp có các câu lục bát). Các nhà thơ viết các bài hát nói bằng cả hai thể chữ: chữ Nôm và chữ Hán.
3. Các thành phần trình diễn Ca Trù

3.1.Một nữ ca sĩ , thường gọi là "đào" hay "ca nương", sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp. Nói đến ca nương của Ca trù không thể không nói đến Ca nương Quách Thị Hồ (1909 –2001) là một nghệ nhân ca trù nổi tiếng. Bà là người đầu tiên đưa tiếng hát ca trù của Việt Nam ra nước ngoài. Năm 1988, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Bà sinh năm 1909 tại làng Ngọc Bộ, xã Long Hưng, huyện Văn Giang, Hưng Yên (trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, nơi sản sinh nhiều làn điệu quan họ). Bà sinh ra trong một gia đình có nghiệp đàn hát lâu đời. Mẹ bà cũng là một ả đào có tiếng. Ngay từ nhỏ, bà Hồ đã sống trong tiếng đàn phách, rồi được mẹ truyền nghề đàn hát. Năm 1930, bà đi ra Hà Nội hát, sau đó làm chủ nhà hát Vạn Thái ở phố Bạch Mai. Bà trở thành đào nương nổi tiếng cùng với bà Nguyễn Thị Phúc. Sau Cách mạng tháng 8, rồi kháng chiến chống Pháp, bà đi hát ở Vĩnh Yên, Phú Thọ, Thái Nguyên.

Năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, bà làm cộng tác viên cho chuyên mục ngâm thơ của Đài tiếng nói VN cùng với bà Nguyễn Thị Phúc. Do hoàn cảnh lúc này nghệ thuật ca trù bị coi là “tàn dư của chế độ phong kiến cũ” nên những đào kép đều từ bỏ nghề. Năm 1976, Giáo sư Trần Văn Khê từ Pháp trở về Hà Nội và tìm gặp các nghệ nhân ca trù. Tại đây ông đã ghi âm tiếng hát của bà đem đi giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu Quốc tế về Âm nhạc đã trao tặng bà bằng danh dự cho công lao "gìn giữ một di sản nghệ thuật truyền thống quí báu của Việt Nam, một vốn quí của nhân loại". Năm 1983, băng ghi âm tiếng hát của bà đại diện cho Việt Nam đã được xếp hạng nhất tại Liên hoan Quốc tế Âm nhạc Truyền thống châu Á ở Bình Nhưỡng (Triều Tiên). Năm 1984, bà tham gia bộ phim tư liệu Nghệ thuật ca trù của đạo diễn Ngô Đặng Tuất và hội ngộ cùng các nghệ nhân khác như Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó Đình Kỳ… Quách Thị Hồ đã trở thành nghệ nhân ca trù tiêu biểu của Việt Nam.

Bà sở hữu một giọng hát đặc biệt, cùng tiếng phách điêu luyện đã chinh phục nhiều người thưởng thức. Ta có thể thấy những lời khen tặng tối đa về giọng hát của bà Quách Thị Hồ như:

Có người ví tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi một tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ.

Chất giọng khỏe, đanh, sắc như đổ vàng vào tai người nghe, chất giọng đầy uy quyền có thể hiếp đáp được người nghe.
Trong khoảng thời gian dài 1955-1975, nghệ thuật ca trù không có chỗ đứng do bị coi là “tàn tích của chế độ phong kiến cũ”. Nhiều đào nương kép đàn đã phải bỏ nghề. Nhưng chỉ có bà Quách Thị Hồ là người dám tự nhận mình là một cô đào, sống nghề hát Ca trù, như câu nói dũng cảm mà bà đã từng nói: "Tôi sẵn sàng đeo biển trước ngực đi trên phố để nói tôi là người hát Ca trù". Năm 1978, khi tiếng hát ca trù lần đầu tiên được vang danh trên thế giới, bà đã được ghi nhận là một trong những nghệ nhân ca trù tiêu biểu. Cũng từ đây, nghệ thuật ca trù đã dần được khôi phục, và được biết đến là một trong những di sản quý báu của Việt Nam và nhân loại. Có thể nói Ca nương Quách Thị Hồ là người đã có công đóng góp lớn trong việc khôi phục, quảng bá và phát triển nghệ thuật ca trù.

3.2. Một nhạc công nam giới thường gọi là "kép", chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát.

Điểm đặc biệt trong ca trù là thanh nhạc và khí nhạc đi song song với nhau và mỗi loại đều có nét đặc thù. Về thanh nhạc, ngoài hát tuồng có những kỹ thuật phong phú và độc đáo còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền khác đều không có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như ca trù. Thể hiện rõ nhất là khi đào nương cất tiếng hát, kỹ thuật hát rất điêu luyện, không cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ. Hát trong cửa đình không cần ngân nga. Hát “thính phòng” có cách đổ hột, đổ con kiến làm cho tiếng hát thêm duyên, có khi như tiếng nức nở, thở than quyện vào lòng người.

3.3.Người thưởng ngoạn, gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát: đánh trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống.

Vì là nghệ thuật “âm nhạc thính phòng”, không gian trình diễn ca trù có phạm vi nhỏ hẹp. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là "tức tịch", nghĩa là "ngay ở chiếu". Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản.



Bài Hồng Hồng, Tuyết Tuyết (còn có tên khác là Gặp Đào Hồng, Đào Tuyết) của Dương Khuê vừa là bài thơ chuẩn mực cho thể Hát Nói trong Ca trù vừa chứa đựng trong nó biết bao cảm xúc của tác giả “quan viên” và các Đào Nương:(st)

6789
09-02-2011, 11:49 AM
Ở HP có 1 quán hát "cô đầu" kiểu mới,rất nổi tiếng...Từ già tới trẻ đều biết tên,từ trai lẫn gái cũng lờ mờ nắm chút thông tin về nó.Đến cả những người chưa từng vào ghé tới cũng biết trong đó có món gì...hehehehe.
@Lão Khoai: Huynh sẽ được "anh" má mì ở đó chăm sóc cẩn thận nếu có dịp...:)).

Cờ_Cơm
09-02-2011, 03:40 PM
Ở HP có 1 quán hát "cô đầu" kiểu mới,rất nổi tiếng...Từ già tới trẻ đều biết tên,từ trai lẫn gái cũng lờ mờ nắm chút thông tin về nó.Đến cả những người chưa từng vào ghé tới cũng biết trong đó có món gì...hehehehe.
@Lão Khoai: Huynh sẽ được "anh" má mì ở đó chăm sóc cẩn thận nếu có dịp...:)).


Karaoke hả Bác ?

nhachoaloiviet
09-02-2011, 07:10 PM
có phải quán Khoa học-Thể thao-Văn hóa không anh ??

6789
09-02-2011, 09:32 PM
Karaoke hả Bác ?

Khiếp bác Cờ_Cơm quá,tinh ghê,cứ tưởng bác chỉ luận bàn Kinh Dịch hoặc Đạo Lý...gì gì đó,ai dè mấy cha này còn "hư" hơn em.
@Nhachoa: Chú mày chính hiệu Hải Phòng...hehe!

dohuuthuc
09-02-2011, 11:21 PM
Xưa thì đánh cờ, hát cô đầu, nay thì đánh cờ, hát karaoke. ... toàn ở ngoài đường , vợ nhà trông chờ mòn mỏi tới khuya.

Minh Ngọc
09-02-2011, 11:42 PM
Nghe hát cô đầu ngày xưa là mê nghệ thuật, cảm mến tài ca hát của nhau.
Chứ đâu có phải như mấy anh 6789 hay nhạc hoa hát bằng tay đâu??? :))

6789
10-02-2011, 01:04 AM
Nghe hát cô đầu ngày xưa là mê nghệ thuật, cảm mến tài ca hát của nhau.
Chứ đâu có phải như mấy anh 6789 hay nhạc hoa hát bằng tay đâu??? :))

Ô hay,hát bằng "tay" cũng là đam mê "nghệ thuật" ấy chứ anh ui...hihi.Đặc biệt em mới dám khoe chứ còn "cô giáo dậy hát" kiểu đó ở đâu cũng có mà :D.Em mến tài mấy cô ở đó lắm!! Mấy bác hay đến HP công tác xa nhà rất "hâm mộ" chỗ ấy đấy...hehe.

nhachoaloiviet
10-02-2011, 11:50 AM
Nghe hát cô đầu ngày xưa là mê nghệ thuật, cảm mến tài ca hát của nhau.
Chứ đâu có phải như mấy anh 6789 hay nhạc hoa hát bằng tay đâu??? :))

Bác Trí lại nghĩ tội cho em rồi. Em là người mộ nghệ thuật,yêu ca hát thật mà. Cho nên cô đầu nào không có tài nhất quyết không màng. Quán Khoa học-Thể thao- Văn hóa bây giờ láo nháo pháo ăn xe lắm,mất đi cái tinh tuýcuar thương hiệu.
Lần em Huynh và anh Lâm người mẫu về HP mấy anh em đã cùng hát cho nhau nghe rất tình cảm,không có sự can thiệp nào cả bác ơi hihi. Thiện tai thiện tai!

hyh
10-02-2011, 05:15 PM
Nghe hát cô đầu ngày xưa là mê nghệ thuật, cảm mến tài ca hát của nhau.
Chứ đâu có phải như mấy anh 6789 hay nhạc hoa hát bằng tay đâu??? :))
Bác Minh Ngọc cứ nói quá ra.
Thật ra thì các cô đầu ngày xưa cũng biết làm thơ, họa thơ, phổ nhạc.
Cũng có những tài tử văn nhân và cô đầu xướng họa rất tao nhã.
Nhưng đó chỉ là số ít mà thôi, thường thấy trong văn chương của mấy ông sợ vợ.
Thật ra thì nó có cái hay hơn Karaoke, nhưng nó cũng có nhiều cái tệ hơn cả Karaoke.
Ngày xưa cũng có cô đầu quyết tâm bán nghệ không bán thân, trừ khi gặp người tri kỷ.
Ngày nay cũng đầy cô cave cũng chỉ bán nghệ không bán thân, có khi còn cương quyết hơn cả cô đầu ngày xưa.
Nhưng phải nói tác phẩm nói về cô đầu hay nhất là truyện Thề non nước của Tản Đà (Không nhớ là Giấc mộng lớn hay Giấc mộng con nữa)

PhiHuong
12-02-2011, 04:10 PM
Kủ tiên sinh có bài viết rất hay ! tóm lược nhiều tình tiết của nghệ thuật Ca Trù. Vài năm gần đây có một số sách khảo cứu về nghệ thuật này. Cái hay của bài hát nói là câu đầu tiên thường dùng thơ chữ, rồi sau mới là thơ nôm, tựa như song thất lục bát mà lại chẳng phải. Câu kết chỉ dùng sáu chữ ngắt ngang, nhưng vẫn kéo dài cái tình nhân thế miên man bất tận !. Toàn bài đa phần 11 câu rồi bỏ lửng ...
--------------------------------------


Hát cửa Đình

Tại đình làng, ngày lễ thành hoàng, lễ các vị thần có công với nước với dân đã được các triều đại phong tặng là ngày mở hội với quy mô rộng lớn, trọng thể. Ngày "thần đản" cũng như ngày "thánh đản", ngày sinh nhật vua chúa, được tổ chức phỏng theo nghi lễ của triều đình. Nghi lễ ấy được thể hiện trong hát cửa đình mà các giáo phường đã khai thác từ nghi lễ dân gian, do các ả đào trình diễn để tế thần và chúc tụng dân làng.

Hát Cửa Đình

Theo sử sách cũ, hát ả đào đã xuất hiện từ đầu thời Lý, vào thế kỷ thứ XI, khi kinh đô Thăng Long mới được thành lập. Bấy giờ ca nữ đều gọi là ả đào, và nhạc công là kép đàn. Đào kép của hát ả đào được đào tạo trong các giáo phường vừa là vườn ươm nghệ thuật vừa là tổ chức hành nghề. Trong hội làng tại các cửa đình, giáo phường cử các ả đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc để tế thần và chúc tụng mua vui giải trí cho dân làng. Từ đó hát cửa đình đã hình thành và phát triển ở khắp nơi nội ngoại thành Thăng Long, đáp ứng được yêu cầu thẩm mỹ của nhân dân trong những ngày hội, ngoài việc phục vụ nghi lễ. Hát cửa đình thường kéo dài cả ngày cả đêm, có khi suốt mấy ngày liền. Cho nên ngày xưa thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre, để ghi điểm thưởng cho đào kép. Khi thưởng gõ tiếng "cách" vào tang trống chầu, rồi ném một thẻ. Hát xong cứ theo số thẻ thưởng mà lĩnh tiền. Do đó các ả đào hát ở cửa đình mà lĩnh thưởng bằng thẻ thì gọi là hát thẻ, theo chữ Hán, trù là thẻ, nên tục cũng gọi lối hát đó là ca trù. Những ngày hội hè đình đám, tế thần ở đình, ả đào vừa hát vừa múa, làm trò vui cho dân làng xem, nên lại có tên là hát nhà trò. Lúc ả đào chỉ đứng gõ sênh hát, gọi là hát gõ. Từ đó, ả đào nào có nhiều học trò, nghệ thuật bản thân đã lão luyện vào hàng đầu mới được mệnh danh là cô đầu (từ đó có tên gọi là hát cô đầu). Sau này, trong công chúng, danh từ ả đào và cô đầu thường bị gọi tràn lan không phân biệt.

Hát cửa đình Lỗ Khê :

Từ Hà Nội qua sông Đuống lên phía đông bắc chừng 30 cây số sẽ tới mảnh đất Lỗ Khê (Liên Hà, Đông Anh) vốn xưa có tên là Tổng Rỗ. Giáo phường Lỗ Khê là nơi còn giữ được gần như nguyên vẹn di tích và sinh hoạt của giáo phường xưa và cũng là nơi còn duy trì được nền nếp hát cửa đình. Đó là nơi thờ vợ chồng ông bà Đinh Dự - Đường Hoa, những người đầu tiên truyền bá nghề đàn phách ca múa, lập ra giáo phường Lỗ Khê và mở ra lối hát cửa đình truyền thống của Thăng Long - Hà Nội. Đinh Dự là con trai Đinh Lễ, tướng tài của Lê Lợi. Thần tích có ghi chép lại rằng: "Một hôm bà mẹ là Trần Minh Châu mộng thấy rắn xanh bò thẳng vào bọc bà, từ đấy bà có mang, tới ngày mùng sáu tháng tư năm Quý Tỵ (1413), bà sinh con trai, diện mạo khôi ngô, hình dung tuấn tú. Người con đó chính là Đinh Dự. Được theo cha trên đường diệt giặc Minh, dựng đồn trại tại Lỗ Khê, bấy giờ Đinh Dự đã 12 tuổi, học vấn tinh thông, xướng ca đàn phách giỏi hơn người. Nhân dịp vui xuân tại chùa Thiên Thai thuộc trang Đông Cứu, Gia Bình, Đinh Dự gặp một cô gái rất đẹp tên Đường Hoa Tiên Hải, vốn quê ở động Nga Sơn, Thanh Hóa, đang trên đường đi dạy hát các giáo phường. Hai người kết duyên và trở về Lỗ Khê mở giáo phường, truyền bá hát ả đào khắp vùng. Nhiều cô đào phường Lỗ Khê đi lấy chồng xa, tuy đã mở mang thêm họ ả đào ở đó, nhưng hằng năm vẫn trở về Lỗ Khê trong những ngày giỗ tổ.

Hát thờ Lỗ Khê :

Theo tục lệ xưa, giáo phường Lỗ Khê làm lễ tế tổ sư tại đền thờ Ca công vào ngày sinh và ngày hóa của hai ông bà Đinh Dự (mồng sáu tháng tư và 13 tháng mười âm lịch). Hát thờ tổ khác với hát thờ thành hoàng làng ở đình là lúc mở đầu buổi lễ, đào kép phải ngâm hai khúc Nộn Mai (gọi nôm là Non Mai) và khúc hát Hồng Hạnh mà ngoài ra không bao giờ được hát ở bất cứ cửa đình nào khác. Non Mai do kép ngâm từng tiếng một, đào ngâm lại. Hồng Hạnh do đào ngâm. Kế tiếp là hát giai, trong đó có các làn điệu đặc sắc như hát ru huê tình (rút từ hát xẩm). Ba mươi sáu giọng là một khúc hát liên hoàn, chuyển điệu đủ năm cung bậc khác nhau, chuyển sang mọi thứ giọng: sa mạc, bồng mạc, xướng tế, đò đưa, huê tình, trống quân, nói sử, sai lên đồng, kể chuyện, thổng thiên thai, hát cách, chầu văn, hãm, tỳ bà, cung bắc, dựng tỳ bà... và kết thúc bằng giọng cung huỳnh. Tất cả các giọng hòa hợp thành thể thống nhất có sức gợi cảm diệu kỳ. Những buổi hát thờ thật là náo nhiệt, tưng bừng, tràn đầy không khí say sưa nghệ thuật, chan chứa ân tình, ngưỡng mộ tổ sư.

Theo địa chí văn hóa dân gian Thăng Long Đông Đô Hà Nộii.

(sưu tầm).

dohuuthuc
12-02-2011, 09:41 PM
Người ta đồn rằng ông tổ của nghiệp ca hát thờ chung với ông tổ của nghiệp ăn mày phải không các bác ?

phematranhtien
13-02-2011, 12:10 AM
Người ta đồn rằng ông tổ của nghiệp ca hát thờ chung với ông tổ của nghiệp ăn mày phải không các bác ?

Nghe ông bà xưa trong Nam phần nói : Tam đỉnh Tổ nghiệp cầm ca (Tổ cải lương) là cùng thờ chung Tổ ăn mày .

PhiHuong
13-02-2011, 12:38 AM
Người ta đồn rằng ông tổ của nghiệp ca hát thờ chung với ông tổ của nghiệp ăn mày phải không các bác ?

Bác Thực hỏi một câu chung chung quá, chẳng thực tí nào ! ca hát thể loại gì mới được chứ ?. Vọng cổ, quan họ, hát chèo, hay hát xoan ... Mặc dù vẫn biết đang nói về ca trù, nhưng nghe câu hỏi vẫn thấy khó trả lời !.
Chỉ có hát Xẩm mới liên quan đến câu hỏi của bác thôi.
-Ngoài những khí cụ như sênh phách, trống chầu ... thì hát Ca Trù dùng đàn Đáy, còn hát Xẩm dùng đàn Nhị hoặc đàn Bầu.

-----------------------------------------------------

Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha Trần Thánh Tông có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, hai mắt mù loà nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơ bụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa.Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, nhà vua vời ông vào hát và nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống. Hát xẩm đã ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã lập ra một giải thưởng mang tên Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhà báo có công lao, đóng góp cho lĩnh vực âm nhạc truyền thống và trao giải lần đầu tiên năm 2008.

Theo chính sử thì vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử con vua Thánh Tông tên là Khảm, sau lên ngôi là vua Nhân Tông; một người con nữa là Tả Thiên vương. Vì vậy nguồn gốc hát xẩm là dựa trên thánh tích chứ không truy được ra trong chính sử.

(sưu tầm).

Lão Khoai
13-02-2011, 03:28 AM
Tính ra bác Phihuong phải sống trên trăm tuổi rồi mới sành các món chơi như thế

Lão Khoai
13-02-2011, 10:26 PM
Thủ pháp bác có phần nhanh nhẹn bác Phihuong ạ ,nhưng mà hô hô tôi đã copy lại rồi ,bác dấu thế nào đuợc bút sa tất gà phải chết .sẽ tìm cách báo thù hihiih

Cờ_Cơm
14-02-2011, 01:11 AM
Khiếp bác Cờ_Cơm quá,tinh ghê,cứ tưởng bác chỉ luận bàn Kinh Dịch hoặc Đạo Lý...gì gì đó,ai dè mấy cha này còn "hư" hơn em.
@Nhachoa: Chú mày chính hiệu Hải Phòng...hehe!


Mỗi lần đệ ghé Hải Phòng đều có đến đường bao Nguyễn Văn Linh thăm quán Không Tiền Về (KTV) đấy Bác ạ :) !

6789
14-02-2011, 01:41 AM
Mỗi lần đệ ghé Hải Phòng đều có đến đường bao Nguyễn Văn Linh thăm quán Không Tiền Về (KTV) đấy Bác ạ :) !

Đó,chính là nó đấy...hihi.Bây giờ nó có New Khoa Học- Thể Thao-Văn Hóa nữa rùi,các "cô đầu" đến từ khắp vùng miền đất nước,trên tầng thượng có cắt tóc,gội đầu,nhổ râu....bằng răng....hehehe! Cậu nhachoa lại nói "láo nháo pháo ăn xe" thì cũng đúng.Xe phải khác Pháo chứ.

CXQ
14-02-2011, 02:04 AM
Lờ mờ đoán ra loại hình nghệ thuật gì rồi :))

nhachoaloiviet
14-02-2011, 10:48 AM
Đó,chính là nó đấy...hihi.Bây giờ nó có New Khoa Học- Thể Thao-Văn Hóa nữa rùi,các "cô đầu" đến từ khắp vùng miền đất nước,trên tầng thượng có cắt tóc,gội đầu,nhổ râu....bằng răng....hehehe! Cậu nhachoa lại nói "láo nháo pháo ăn xe" thì cũng đúng.Xe phải khác Pháo chứ.

Hihi năm ngoái em đi với đội bạn vào đấy ngồi chơi, tụi bạn nó đều có bạn gái quan tâm, em bảo em muốn ngồi yên thân, nó tưởng em trêu, mấy cô bé gọi bạn vào sàm sỡ em, em nổi máu bảo : đừng động vào người anh, anh bị di ứng giống cái. Hehe thế các bé mới để cho ngồi yên uống rượu. Hài!
Mấy cô gái mà sành sỏi quá, làm người ta mất hết cảm xúc! Ôi cái cuộc đời này!

6789
14-02-2011, 01:16 PM
Hihi năm ngoái em đi với đội bạn vào đấy ngồi chơi, tụi bạn nó đều có bạn gái quan tâm, em bảo em muốn ngồi yên thân, nó tưởng em trêu, mấy cô bé gọi bạn vào sàm sỡ em, em nổi máu bảo : đừng động vào người anh, anh bị di ứng giống cái. Hehe thế các bé mới để cho ngồi yên uống rượu. Hài!
Mấy cô gái mà sành sỏi quá, làm người ta mất hết cảm xúc! Ôi cái cuộc đời này!

Thế thì nếu có đi,mời ông...ở nhà..hi!

nhachoaloiviet
15-02-2011, 03:26 PM
Em nói thật đấy, lắm lúc em buồn cười lắm