Lão Khoai
21-02-2011, 12:43 AM
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ đã quên mất cả nguyên văn:
Chàng như mây mùa thu
Thiếp như khói trong lò
Cao thấp tuy có khác
Một thả cũng tuyệt mù
Đọc lại bài thơ rất nhỏ, từng chữ, từng vần. Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi bài thơ, rớt lại chỉ còn một chút buâng khuâng không tên thì chợt lặng thinh đi vào cái buâng khuâng đó. Quanh một chữ. Tuyệt mù. Nghĩ đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng chim, nước không lưu giữ. Chim đâu lưu giữ lại đường bay? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và kệ.
Chợti hiểu tại sao những người lớn của nhân loại từ cổ thảy đều chỉ muốn nín thinh. Khổng Khưu, Lão Đam và Thích Ca Mâu Ni. Trời không nói, ta đâu muốn nói? Ta đâu có thuyết lời nào? Cái ta muốn nói, cái đó đâu có thể nói được? Cái đó, bất khả thuyết, bất khả tư nghị. Bất khả đạo.
Nói ra là bị kẹt.
Nhưng rồi Khổng Khưu vẫn nói, cả đời. Lão Đam thì nói đến 5.000 chữ Đạo Đức Kinh và Thích Ca Mâu Ni trong suốt 49 năm hoằng pháp, nguyên lời Đại Bát Nhã, đã nói ròng rã tới 22 năm.
Không nói cũng không xong.
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng không xong
Hai câu đầu một bài kệ của một Thiền sư Việt Nam sống giữa thế kỷ thứ 17, thiền sư Chân Nguyên. Hai câu kệ, một thế đứng chênh vênh giữa hai ngã hữu vô. Nói hay không nói? Chung cuộc, bài kệ đành phải chấm dứt bằng một nét chấm phá lửng lơ:
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng
Ngoài vườn tuyết rơi trắng và lạnh trong im sựng của trời và đất. Trong lò, củi nổ ròn tan, ngọn lửa thấp cao ấm màu hổ phách. Ngoài kia vắng lặng, trong lòng … vẫn chưa vắng lặng. vẫn thấy rằng…chưa ổn. Đẩy thêm củi vào lò. Củi gỗ cây phong phơi nỏ từ vào thu, lửa như bốc ngọn từ lòng gỗ. Mộc trung sinh hỏa? Mộc tận hỏa toàn diệt? Lửa sinh trong lòng gỗ. Gỗ hết lửa không còn. Lửa không còn, nghĩa là…sao? Lửa sẽ biến thái tuy vẫn tồn tại hay cũng như khói và mây, lửa sẽ trở về, sẽ đi vào lòng Cái đó, tuyệt mù?
Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện tri thức, chưa một vị Bồ Tát nào mô tả được hình tướng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng hiện hữu rất tự nhiên – mặt trời lại mọc lúc đêm tàn – nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô lượng, với vô lượng danh hiệu, mỗi danh hiệu là một khía cạnh đặc thù. Chân Tâm, Diệu Tâm, Minh Tâm, Bồ Đề Tâm, Giác Tánh, Chân Như, Phật Tánh, Pháp Giới Tánh, Không Tánh, Như Lai Tạng Tánh, Bát Nhã… cái tột không, cái diệu sắc, cái bất khả tư nghị, cái rốt ráo cuối cùng… , Cái đó, chính nó, đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra vấn trớ trêu, nhưng tại sao ray rức lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa với, nhòa dần, biến hẳn, tuyệt mù. Trong đêm đen mạt pháp còn lại chỉ là những vết tích mờ mờ ghi lại trong Kinh và Kệ. Những vết tích như những dấu chỉ đường. Vô lượng nẻo đường, vô lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh trong vô lượng chúng sinh, tùy theo từng cõi pháp. Nhưng cứu cánh chỉ là một. Cái đó.
Dõi theo cái đó “có cõi lấy ánh sáng của Phật làm phương tiện nói Pháp, có cõi lấy Bồ Tát làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy bóng mát cây Bồ Đề làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy hư không để nói pháp…”
Hít dài một hơi thuốc. Đầy phổi. Hơi thuốc nghe như có pha trộn nhiều mùi hương cũ tưởng đã phai, đã tuyệt mù. Mùi úa hoa Ngọc Lan, mùi ấm hoa Hồng, mùi ngái hoa Cau, mùi đạm hoa Sói, hoa Ngâu, mùi đắng hoa sấu nắng hè tháng sáu, mùi nồng hương đêm Dạ Lý.
Ráng chiều miền đồi Bắc Việt đổ rộng một nền gạch Bát tràng. Gốc cau, gốc đại, ngọn cỏ kẽ tường, cánh hoa bèo tím ngắt bờ ao, tất cả lóe lên trong nắng muộn, . Nắng nhạt rồi tắt ngấm. Đất lẫn với trời. Từ bàng bạc sương khói dâng lên một cõi pháp thành hình, chúng sanh mộc mạc hiền lành chỉ có một phật hiệu để làm phật sự. Vọng ra từ đó mái chùa cong vát chữ đao, cổng tam quan thềm đá nhẵn lì – không phải là những ngôn từ hiểm trở Lăng Già, Bát Nhã, Pháp Hoa hay Viên Giác mà chỉ Phật hiệu đó, mà chỉ A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Có thế thôi, mỗi chiều ngày xưa Việt Nam. Có thế thôi, nhưng mỗi chiều bình thản vẫn trở về trên vầng trán hai sương một nắng những bà mẹ Việt Nam. Nén nhang đốt lên, khói nhang vẫn vươn cao và thẳng tắp. Như mây mùa thu, vẫn tuyệt mù. Như đã thuộc nằm lòng con đường trở về nơi đó, nơi mà Kinh và Kệ từ xưa vẫn hằng hướng tới. Nơi đó, tắt lời. Cõi đó rốt ráo vô ngôn, vắng lặng, lấy hư không mà làm phật sự. Một đóa sen giơ cao, một nụ cười đáp lại. Trong yên lặng. Cõi đó, chân kinh?
Lăng Già là tên một ngọn núi nằm giữa biển Nam, nơi vua Dạ Thoa thỉnh Đức Phật lên thuyết pháp. Núi đó cao vời vợi nhìn xuống biển sâu, đá đứng thẳng như tường, trơn như mỡ, không có lối đi lên. Phải có phép thần thông, hoặc được Đức Phật sử dụng nội lực vô lượng giúp cho mới có thể tới được. Lời Phật nói Pháp truyền xa, rộng và sâu, vọng ra tới vô lượng số cõi Phật, được ghi lại bằng Phạn tự gọi là Kinh Lăng Già. Kinh này sau được thiền sư Cầu Na Bạt Đà La dịch ra Hán và đến thế kỷ thứ 20 thì chuyển sang Việt ngữ.Tự lời tiên tri của Bồ Đề Đạt Ma khoảng tiền bán thế kỷ thứ 6 đến nay, nhiều lần 500 năm qua, tôi giật mình tự hỏi cái mà đức Thế Tôn muốn dạy lại đỉnh Lăng Già – Cái đó – qua ba chặng đường chuyển ngữ từ Phạn qua Hán đến Việt không biết còn rớt lại chút nào trong những trang Kinh tôi đọc đêm qua. Hay còn lại chỉ là ngôn từ, chỉ là danh tướng ?
Nghe tin Bồ Đề Đạt Ma cập bến Quảng Châu, Lương Võ Đế vội thỉnh Người đến kinh đô. Vua hỏi :
- Trẩm chép kinh xây chùa, độ Tăng, đúc chuông, tạc tượng. Có công đức gì không ?
Người vắn tắt : - không.
Vua lặng thinh một lát lại hỏi : - Đối diện Trẩm là ai vậy ?
Người rằng : - không biết.
Cuộc đối thoại ngắn ngủi : Hai lần khẳng định và hai lần phủ định. Có, không. Nhà vua cố chấp. Bồ Đề Đạt Ma động lòng từ bi, mở ra một đường phương tiện. Không, Không công đức. Không có Bồ Đề Đạt Ma. Không có Trẩm. Không có gì hết. Ngay cả cái không Hãy hiểu rằng rốt ráo, không cũng lại là không
Khá lâu. Buâng khuâng nghĩ đến niềm khắc khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao hàng phục vọng tâm? Làm sao an trụ chân tâm?
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Như gần như xa, nhưng vẫn ở đó, câu trả lời vẫn ở đó, từ thuở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng, vọng ra từ kẽ đá Phân Kinh, mờ mờ, ảo ảo, như gần như xa, có mà không, không như có, như mộng như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như chớp biển ngoài khơi, như bóng hình lãng đãng trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như giọt sương mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả lời vẫn ở đó,
Này Tu Bồ Đề. Hãy nghe lời đá nói rằng :
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Biết rồi… nhưng khốn một nỗi, căn cơ thô lậu, tâm thức lại hay lưu luyến tiếng tơ tiếng trúc, cho nên chân tuy đĩnh đạc bước thẳng mà vẫn thích tạt ngang vào nơi ca lâu tửu quán, giọng cất lên muốn bàn câu đạo lý vô tình vẫn họa cùng một điệu với tiếng cười hô hố của đám lãng tử sông hồ.(st)
Chàng như mây mùa thu
Thiếp như khói trong lò
Cao thấp tuy có khác
Một thả cũng tuyệt mù
Đọc lại bài thơ rất nhỏ, từng chữ, từng vần. Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi bài thơ, rớt lại chỉ còn một chút buâng khuâng không tên thì chợt lặng thinh đi vào cái buâng khuâng đó. Quanh một chữ. Tuyệt mù. Nghĩ đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng chim, nước không lưu giữ. Chim đâu lưu giữ lại đường bay? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và kệ.
Chợti hiểu tại sao những người lớn của nhân loại từ cổ thảy đều chỉ muốn nín thinh. Khổng Khưu, Lão Đam và Thích Ca Mâu Ni. Trời không nói, ta đâu muốn nói? Ta đâu có thuyết lời nào? Cái ta muốn nói, cái đó đâu có thể nói được? Cái đó, bất khả thuyết, bất khả tư nghị. Bất khả đạo.
Nói ra là bị kẹt.
Nhưng rồi Khổng Khưu vẫn nói, cả đời. Lão Đam thì nói đến 5.000 chữ Đạo Đức Kinh và Thích Ca Mâu Ni trong suốt 49 năm hoằng pháp, nguyên lời Đại Bát Nhã, đã nói ròng rã tới 22 năm.
Không nói cũng không xong.
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng không xong
Hai câu đầu một bài kệ của một Thiền sư Việt Nam sống giữa thế kỷ thứ 17, thiền sư Chân Nguyên. Hai câu kệ, một thế đứng chênh vênh giữa hai ngã hữu vô. Nói hay không nói? Chung cuộc, bài kệ đành phải chấm dứt bằng một nét chấm phá lửng lơ:
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng
Ngoài vườn tuyết rơi trắng và lạnh trong im sựng của trời và đất. Trong lò, củi nổ ròn tan, ngọn lửa thấp cao ấm màu hổ phách. Ngoài kia vắng lặng, trong lòng … vẫn chưa vắng lặng. vẫn thấy rằng…chưa ổn. Đẩy thêm củi vào lò. Củi gỗ cây phong phơi nỏ từ vào thu, lửa như bốc ngọn từ lòng gỗ. Mộc trung sinh hỏa? Mộc tận hỏa toàn diệt? Lửa sinh trong lòng gỗ. Gỗ hết lửa không còn. Lửa không còn, nghĩa là…sao? Lửa sẽ biến thái tuy vẫn tồn tại hay cũng như khói và mây, lửa sẽ trở về, sẽ đi vào lòng Cái đó, tuyệt mù?
Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện tri thức, chưa một vị Bồ Tát nào mô tả được hình tướng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng hiện hữu rất tự nhiên – mặt trời lại mọc lúc đêm tàn – nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô lượng, với vô lượng danh hiệu, mỗi danh hiệu là một khía cạnh đặc thù. Chân Tâm, Diệu Tâm, Minh Tâm, Bồ Đề Tâm, Giác Tánh, Chân Như, Phật Tánh, Pháp Giới Tánh, Không Tánh, Như Lai Tạng Tánh, Bát Nhã… cái tột không, cái diệu sắc, cái bất khả tư nghị, cái rốt ráo cuối cùng… , Cái đó, chính nó, đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra vấn trớ trêu, nhưng tại sao ray rức lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa với, nhòa dần, biến hẳn, tuyệt mù. Trong đêm đen mạt pháp còn lại chỉ là những vết tích mờ mờ ghi lại trong Kinh và Kệ. Những vết tích như những dấu chỉ đường. Vô lượng nẻo đường, vô lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh trong vô lượng chúng sinh, tùy theo từng cõi pháp. Nhưng cứu cánh chỉ là một. Cái đó.
Dõi theo cái đó “có cõi lấy ánh sáng của Phật làm phương tiện nói Pháp, có cõi lấy Bồ Tát làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy bóng mát cây Bồ Đề làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy hư không để nói pháp…”
Hít dài một hơi thuốc. Đầy phổi. Hơi thuốc nghe như có pha trộn nhiều mùi hương cũ tưởng đã phai, đã tuyệt mù. Mùi úa hoa Ngọc Lan, mùi ấm hoa Hồng, mùi ngái hoa Cau, mùi đạm hoa Sói, hoa Ngâu, mùi đắng hoa sấu nắng hè tháng sáu, mùi nồng hương đêm Dạ Lý.
Ráng chiều miền đồi Bắc Việt đổ rộng một nền gạch Bát tràng. Gốc cau, gốc đại, ngọn cỏ kẽ tường, cánh hoa bèo tím ngắt bờ ao, tất cả lóe lên trong nắng muộn, . Nắng nhạt rồi tắt ngấm. Đất lẫn với trời. Từ bàng bạc sương khói dâng lên một cõi pháp thành hình, chúng sanh mộc mạc hiền lành chỉ có một phật hiệu để làm phật sự. Vọng ra từ đó mái chùa cong vát chữ đao, cổng tam quan thềm đá nhẵn lì – không phải là những ngôn từ hiểm trở Lăng Già, Bát Nhã, Pháp Hoa hay Viên Giác mà chỉ Phật hiệu đó, mà chỉ A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Có thế thôi, mỗi chiều ngày xưa Việt Nam. Có thế thôi, nhưng mỗi chiều bình thản vẫn trở về trên vầng trán hai sương một nắng những bà mẹ Việt Nam. Nén nhang đốt lên, khói nhang vẫn vươn cao và thẳng tắp. Như mây mùa thu, vẫn tuyệt mù. Như đã thuộc nằm lòng con đường trở về nơi đó, nơi mà Kinh và Kệ từ xưa vẫn hằng hướng tới. Nơi đó, tắt lời. Cõi đó rốt ráo vô ngôn, vắng lặng, lấy hư không mà làm phật sự. Một đóa sen giơ cao, một nụ cười đáp lại. Trong yên lặng. Cõi đó, chân kinh?
Lăng Già là tên một ngọn núi nằm giữa biển Nam, nơi vua Dạ Thoa thỉnh Đức Phật lên thuyết pháp. Núi đó cao vời vợi nhìn xuống biển sâu, đá đứng thẳng như tường, trơn như mỡ, không có lối đi lên. Phải có phép thần thông, hoặc được Đức Phật sử dụng nội lực vô lượng giúp cho mới có thể tới được. Lời Phật nói Pháp truyền xa, rộng và sâu, vọng ra tới vô lượng số cõi Phật, được ghi lại bằng Phạn tự gọi là Kinh Lăng Già. Kinh này sau được thiền sư Cầu Na Bạt Đà La dịch ra Hán và đến thế kỷ thứ 20 thì chuyển sang Việt ngữ.Tự lời tiên tri của Bồ Đề Đạt Ma khoảng tiền bán thế kỷ thứ 6 đến nay, nhiều lần 500 năm qua, tôi giật mình tự hỏi cái mà đức Thế Tôn muốn dạy lại đỉnh Lăng Già – Cái đó – qua ba chặng đường chuyển ngữ từ Phạn qua Hán đến Việt không biết còn rớt lại chút nào trong những trang Kinh tôi đọc đêm qua. Hay còn lại chỉ là ngôn từ, chỉ là danh tướng ?
Nghe tin Bồ Đề Đạt Ma cập bến Quảng Châu, Lương Võ Đế vội thỉnh Người đến kinh đô. Vua hỏi :
- Trẩm chép kinh xây chùa, độ Tăng, đúc chuông, tạc tượng. Có công đức gì không ?
Người vắn tắt : - không.
Vua lặng thinh một lát lại hỏi : - Đối diện Trẩm là ai vậy ?
Người rằng : - không biết.
Cuộc đối thoại ngắn ngủi : Hai lần khẳng định và hai lần phủ định. Có, không. Nhà vua cố chấp. Bồ Đề Đạt Ma động lòng từ bi, mở ra một đường phương tiện. Không, Không công đức. Không có Bồ Đề Đạt Ma. Không có Trẩm. Không có gì hết. Ngay cả cái không Hãy hiểu rằng rốt ráo, không cũng lại là không
Khá lâu. Buâng khuâng nghĩ đến niềm khắc khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao hàng phục vọng tâm? Làm sao an trụ chân tâm?
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Như gần như xa, nhưng vẫn ở đó, câu trả lời vẫn ở đó, từ thuở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng, vọng ra từ kẽ đá Phân Kinh, mờ mờ, ảo ảo, như gần như xa, có mà không, không như có, như mộng như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như chớp biển ngoài khơi, như bóng hình lãng đãng trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như giọt sương mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả lời vẫn ở đó,
Này Tu Bồ Đề. Hãy nghe lời đá nói rằng :
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Biết rồi… nhưng khốn một nỗi, căn cơ thô lậu, tâm thức lại hay lưu luyến tiếng tơ tiếng trúc, cho nên chân tuy đĩnh đạc bước thẳng mà vẫn thích tạt ngang vào nơi ca lâu tửu quán, giọng cất lên muốn bàn câu đạo lý vô tình vẫn họa cùng một điệu với tiếng cười hô hố của đám lãng tử sông hồ.(st)