Lão Khoai
21-03-2011, 09:58 PM
Kim Thánh Thán bản dịch Nhượng Tống
Văn Thánh Thán đọc lên nghe như cười cợt nhạo báng kẻ khác ,chất khinh bạc lồng lộng trong từng câu cú .Đúng là thứ văn chương không dành cho gánh rong , lính lệ .Xin tặng cho các hào kiệt PhiHuong ,Gàlangco,Nhachoa ,Culu
1. Ai bảo vở Mái Tây là dâm thư, người ấy ngày sau nhất định phải sa xuống ngục "nhổ lưỡi"! Sao vậy? Vở Mái Tây không phải bỡn, mà là văn hay của trời đất... Từ khi có Trời Đất tất nhiên trong khoảng đó phải có áng văn hay như thế. Không phải ai viết ra cũng được cả, mà là Trời Đất có phép tự mình không kết bỗng soạn lên. Nếu nhất định muốn bảo là của một người viết ra, thì Thánh Thán xin coi người ấy tức là hiện thân của Trời Đất.
2. Vở Mái Tây quyết không phải là dâm thư mà nhất định là một áng văn hay. Từ rầy trở đi, ai bảo là văn hay, ai bảo là dâm thư, Thánh Thán cũng mặc kệ! Kẻ thích văn xem đến cho là văn! Kẻ đã dâm xem đến cho là dâm, thế thôi!
3. Họ sở dĩ cho Mái Tây là dâm thư, chẳng qua chỉ vì trong vở có câu chuyện ấy… Nhưng thử nghĩ kỹ: chuyện ấy thì ngày nào không có? Chỗ nào không có? Có dễ trong Trời Đất có chuyện ấy, thì phế cả Trời Đất đi hay sao? Lại hỏi vì đâu mà có thân ta? Dễ cũng vất cả thân ta đi hay sao? Một bộ sách có vô số là những văn chương phong phú xinh đẹp như vậy, ta nên xét xem phong cảnh xinh đẹp như thế, là hạng văn chương gì? Sinh ra từ đâu? Đi đến chỗ nào? Đi thẳng ra sao? Uốn quanh ra sao? Mở ra thế nào? Chỗ nào đàng hoàng? Chỗ nào lẩn lút? Chỗ nào chấm giải? Chỗ nào bay qua? Đến như chuyện ấy, ta nên gác ra một bên, không nên bàn đến nữa!
4. Ai bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy chỉ nên đánh đòn, không cần dậy! Sao vậy? Chỉ vì từ bé hắn đã học một thầy đồ cùn, tai nghe vào rồi, nhớ chôn trong ruột. Chính mắt hắn cũng chưa được trông đến vở Mái Tây! Đánh đòn ra nghĩ cũng còn là oan!
5. Nếu mắt được coi đọc Mái Tây rồi mà cũng bảo là dâm thư, thì hạng đó có nên đánh đòn không? Thưa rằng: Đánh thế cũng là đánh oan! Vì hắn là hạng đồ cùn đó thôi. Lúc viết Mái Tây, người viết đã phát nguyện không cho họ đọc. Quả nhiên ngày nay họ không đọc!
6. Bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy thế mà có công đức lớn! Khi xưa viết Mái Tây, đã phát nguyện chỉ để cho các tài tử gấm vóc đời sau cùng đọc chứ không cho hạng gánh rong, hạng lính lệ cũng xúm vào đọc... Nay nếu không có hạng người ấy nắm tay, vung cánh, vỗ giường, đập ghế, chửi là dâm thư, thì thế tất ai ai cũng đọc, để tiết lộ hết cả cái hay, cái kín của Trời Đất! Thánh Thán rất không thích.
7. Sách Thế Thuyết Tân Ngữ nói: "Thiên Tiêu Dao Du" trong Trang Tử, rất là khó giải. "Đầu xuân rỗi việc, không lượng sức mình; cùng anh Trần Thụy Cung, mưa gió ngồi liền giường, đốt lò hương, rót chén rượu, đùa đẫy sung sướng, giải được suốt thiên. Từ nay trở đi, các bạn tài tử trong đời, đồng thanh tương ứng, hiểu cái lạ, tìm cái mới, hai chúng tôi xin đóng vai Chi Công Hứa Sử. (Điều này chắc chắn lạc ở bản phê bình cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh của Thánh Thán sang).
8. Vở Mái Tây của Thánh Thán, chỉ cần nhận rõ được người xưa, cái đó không dám nhún mình. Đến như những câu phê trước và sau, đều là miệng đọc cho học trò, để mặc hắn viết, tịnh không có sửa chữa lại, nên câu văn có nhiều chỗ không được vừa ý. Vì: một là Thánh Thán vốn tính đại lãn! Hai là văn Mái Tây như châu ngọc bày ra trước mặt. Thánh Thán dù có sửa văn mình đến đâu đi nữa mà được việc gì! Thiên hạ đời sau tha thứ cho tôi những chỗ không được vừa ý, và xem cho tôi nhận rõ được cổ nhân.
9. Thánh Thán có phê sáu bộ sách tài tử (Trang-Tao-Sử ký-Luật thi Đỗ Phủ-Thủy Hử-Tây Sương). Vở Mái Tây tức là một. Nhưng thực ra thì cả sáu bộ Thánh Thán chỉ dùng một cặp mắt mà đọc vỡ. Ví như đọc Mái Tây, chính là dùng cặp mắt đọc Trang Tử, Sử ký mà đọc vỡ. Mà đọc Trang tử, Sử ký, cũng chỉ dùng cặp mắt đọc Mái Tây mà đọc vỡ. Các bạn tin tôi, hãy đưa vở Mái Tây cho học trò đọc thay cho Trang Tử, Sử ký.
10. Con em khi đến mười bốn, mười lăm: Như mặt trời ở phương Đông, sách nào chả đọc, quyết không có lẽ không đọc vở Mái tây. Nếu không mau đem vở này của Thánh Thán cho đọc thì thật là để cho chúng đọc vụng Mái Tây. Nếu để chúng đọc vở Mái Tây của Thánh Thán, thì cũng y như là đọc Trang Tử, Sử ký.
11. Con em khi muốn xem vở Mái Tây, nên dậy cho đọc Quốc Phong trước. Vì chuyện tả trong Mái Tây toàn là chuyện tả trong Quốc Phong. Nhưng văn Mái Tây viết, không có câu nào là không nhã nhặn, mà lại toàn bắt chước lối tả trong Quốc Phong, không có câu nào là không thấu thoát. Có thể chữa được cái bệnh viết văn nhã nhặn thì không thấu thoát, hay thấu thoát thì không nhã nhặn của các trẻ em.
12. Các con em trầm tĩnh, viết văn tất nhã nhặn, khổ về nỗi không thấu thoát! Các con em thông minh, viết văn tất thấu thoát khổ về nỗi không nhã nhặn! Như thế tuy là rẽ cương chia lối, nhưng thực là cùng bệnh mà khác chứng... Thế nào là cùng bệnh? Ấy là bệnh không biết biến đổi. Không biến đổi tức là không thấu thoát. Thế nào là hai chứng? Một chứng là đứng lại mà không biến đổi. Hai là chứng chạy đi mà không biến đổi. Đứng là mà không biến đổi, tuy có ra vẻ nhã nhặn, nhưng thực ra thì không nhã nhặn. Chạy đi mà không biến đổi, tuy có ra vẻ thấu thoát, nhưng thực ra không thấu thoát. Nếu thật nhã nhặn, nhất định phải thấu thoát. Nếu thật thấu thoát nhất định phải nhã nhặn. Hỏi ai có thể viết được như thế? Thưa rằng người viết Mái Tây có thể viết được như thế. Mà sở dĩ viết được như thế, chỉ là biết biến đổi đó thôi.
13. Các trẻ em đọc vở Mái Tây này rồi, sau sẽ luyện riêng được cặp mắt để đọc các bộ sách lạ khác. Tính ra vài trăm năm nữa, sách trong trời đất, bản nào cũng như mười mặt trời cùng mọc. Bấy giờ thì bao nhiêu những sách bất tất đọc, không đáng đọc, không thể đọc được cũng đã bỏ đi hết cả rồi! Đó thật là một chuyện rất sung sướng! Nhưng thực là bắt đầu tự vở Mái Tây này!
14. Tôi trước vì các con và các cháu, muốn cho chúng biết viết văn, có nhặt trong Tả Truyện, Chiến Quốc Sách, Trang Tử, Ly Tao, Công Cốc, Sử Ký, Hán Thư, cùng các văn của Hàn, Liễu, Tam, Tô, tất cả hơn một trăm bài, đề là "Tài Tử tất độc thư" vẫn muốn đem in, nhưng chẳng may gặp loạn, nhà nghèo không đủ tiền. Nay đã in được bản Mái Tây này cũng không cần nghĩ đến bộ ấy nữa.
15. Viết văn hay nhất là mắt nhìn chỗ này, tay tả chỗ kia, nếu có lúc mắt muốn nhìn chỗ này thì tay tất phải tả chỗ kia... Nếu không hiểu ý ấy, mắt nhìn chỗ nào, tay tả chỗ ấy, thì xem xong là hết ngay… Người viết Mái Tây thì hiểu ý ấy lắm.
16. Văn chương hay nhất là mắt nhìn chỗ này, song không tả ngay, lại từ xa tả lại. Khi thong thả tả tới nơi rồi, hãy dừng lại đó, lại từ chỗ xa khác, lại thong thả tả lại và khi sắp tới nơi rồi, lại dừng lại đó... Cứ thay đổi vài ba lần như thế, lần nào cũng từ chỗ xa xa, thong thả tả lại, khi sắp tới nơi, lại dừng lại đó… Chứ cũng không đủ chỗ mắt mình nhìn nữa, để cho người đọc thoáng trông thấy chỗ đó ở ngoài văn chương... Văn Mái Tây thuần dùng cách ấy. Văn Tả Truyện, Sử ký cũng thuần dùng cách ấy...
17. Văn chương hay nhất là trước hết nhằm vào một chỗ làm mục đích, rồi đem ngọn bút lượn đi, lượn lại, lượn lại lượn đi ở chung quanh nơi mục đích đó, không bắt lấy hẳn, cũng không buông ra hẳn, y như con sư tử bỡn quả cầu vậy. Cầu vốn chỉ có một quả. Nay ta thả con sư tử ra, nó lấy hết sức nhảy múa lượn quanh... Nhất thời bao nhiêu người trong rạp nhìn vào con sư tử đến hoa cả mắt... Thế nhưng nào có bởi đâu con sư tử!... Mọi người đem mắt nhìn sư tử. Sư tử chú mắt nhìn vào quả cầu. Nhẩy lượn tuy là sư tử, nhưng sư tử sở dĩ nhẩy lượn như thế, chính là vì quả cầu vậy. Vở Mái Tây cũng như Tả Truyện, Sử ký, thuần dùng phương pháp ấy.
18. Văn chương hay nhất là trong một phút ấy, con mắt linh lợi đã nhìn thấy, thì ngay trong phút ấy, bàn tay lanh lợi phải bắt lấy ngay. Vì rằng hơi sớm một phút cũng không thấy, hơi muộn một phút cũng không thấy, chẳng hiểu tại sao, vừa hay đến phút ấy bỗng dưng nhìn thấy. Nếu không bắt ngay lấy thì rồi không tìm ra nữa! Bao nhiêu văn của Mái Tây đều là tác giả tả trong một phút nào đó, con mắt linh lợi bỗng dưng nhìn thấy, liền bắt lấy cho mau. Vì thế mà truyền mãi đến bây giờ. Thử nghĩ từ nghìn muôn năm trở lại đây, biết bao nhiêu là văn hay mà người ta đã nhìn thấy... Chỉ vì không ai bắt lấy, để mặc cho nó như con trâu đất chạy xuống bể, chả còn tăm hơi gì nữa!
19. Từ rầy trở đi dù ai là tay tài tử tuyệt đời cũng chớ có nói rằng: Vở Mái Tây này giá tôi viết cũng nổi... Ví phỏng tác giả còn đến ngày nay, bảo đốt bản này đi, lại viết bản khác, cũng không thể viết lại được nữa! Ví phỏng tác giả là bậc người trời viết nổi một bản khác nữa, nhưng là thứ văn nhìn thấy ở trong một phút khác, lại bắt lấy bằng một cách khác, tức là lại có một lối viết khác, một lối văn khác, nghĩa là một bản khác chứ không phải bản này nữa!
20. Tôi nói con mắt linh lợi nhìn thấy bàn tay! Chợt nghĩ đến con em nhà người ta, có phải không nhìn thấy đâu, chỉ là vì không biết bắt lấy… Trông thấy là trời cho, nhưng bắt lấy phải cần đến người làm. Người viết Mái Tây, thật là vừa hiểu trông thấy lại vừa hiểu bắt lấy, nhưng khi các bạn đọc tìm đến bất tất phải học chỗ nhìn thấy, mà chỉ cần học cách bắt lấy của tác giả. Thánh Thán rất tiếc xưa nay bao nhỉêu là văn hay đã bị người đời nhìn thấy rồi mà không ai bắt lấy cả, để cho nó tự chìm đắm đi không còn có tăm hơi gì. Nay cho in vở Mái Tây này ra đời. Khắp trong thiên hạ ai cũng học được cách bắt lấy. Tôi tính ra xa một vài trăm năm nữa, thế gian tất thêm ra vô số là văn hay. Thật là một chuyện rất sướng!
21. Một lần tôi đương ăn cháo, muốn viết một bài. Lỡ vì cớ khác; không viết ngay được. Đến khi ăn cơm rồi mới viết, thì đã thấy tiếc cái bài mà mình nghĩ khi ăn cháo! Cái đó cũng ví như ta gieo con xúc xắc, hơi sớm, hơi muộn, hơi nặng, hơi nhẹ, hơi Đông, hơi Tây, một chút, tức là không phải sáu mặt ấy nữa rồi! Vậy mà kẻ ngu ngốc còn toan tranh lại, thật đáng tức cười biết mấy!
22. Sao tôi lại nói vậy? Tôi đã nghĩ: Nghìn muôn năm nay, ngày nào là ngày không có mây... Thế nhưng quyết không có chuyện mây hôm nay lại giống với mây hôm nọ. Sao vậy? Mây chỉ là hơi nước ở non sông bốc lên trên không bị làn gió nhẹ thổi dạt ra từng đám. Gió đã không có ý nhất định thì mây cũng không có khuôn nhất định. Hai bên không biết lẫn nhau, chẳng qua ngẫu nhiên như thế. Văn Mái Tây vốn không có ý nhất định và khuôn nhất định. Chẳng qua ngày đẹp song mát, bút tốt, tay rỗi, bỗng dưng viết lên, như gió thổi mây. Ví phỏng lúc khác lại viết có lẽ cũng có nhiều câu hay lắm. Thế nhưng lần này kể đã hay tuyệt rồi! Ta đừng bảo: lúc khác viết, không thể hay hơn thế! Nhưng cũng đừng bảo lúc khác viết còn có thể hay hơn thế vậy!
Văn Thánh Thán đọc lên nghe như cười cợt nhạo báng kẻ khác ,chất khinh bạc lồng lộng trong từng câu cú .Đúng là thứ văn chương không dành cho gánh rong , lính lệ .Xin tặng cho các hào kiệt PhiHuong ,Gàlangco,Nhachoa ,Culu
1. Ai bảo vở Mái Tây là dâm thư, người ấy ngày sau nhất định phải sa xuống ngục "nhổ lưỡi"! Sao vậy? Vở Mái Tây không phải bỡn, mà là văn hay của trời đất... Từ khi có Trời Đất tất nhiên trong khoảng đó phải có áng văn hay như thế. Không phải ai viết ra cũng được cả, mà là Trời Đất có phép tự mình không kết bỗng soạn lên. Nếu nhất định muốn bảo là của một người viết ra, thì Thánh Thán xin coi người ấy tức là hiện thân của Trời Đất.
2. Vở Mái Tây quyết không phải là dâm thư mà nhất định là một áng văn hay. Từ rầy trở đi, ai bảo là văn hay, ai bảo là dâm thư, Thánh Thán cũng mặc kệ! Kẻ thích văn xem đến cho là văn! Kẻ đã dâm xem đến cho là dâm, thế thôi!
3. Họ sở dĩ cho Mái Tây là dâm thư, chẳng qua chỉ vì trong vở có câu chuyện ấy… Nhưng thử nghĩ kỹ: chuyện ấy thì ngày nào không có? Chỗ nào không có? Có dễ trong Trời Đất có chuyện ấy, thì phế cả Trời Đất đi hay sao? Lại hỏi vì đâu mà có thân ta? Dễ cũng vất cả thân ta đi hay sao? Một bộ sách có vô số là những văn chương phong phú xinh đẹp như vậy, ta nên xét xem phong cảnh xinh đẹp như thế, là hạng văn chương gì? Sinh ra từ đâu? Đi đến chỗ nào? Đi thẳng ra sao? Uốn quanh ra sao? Mở ra thế nào? Chỗ nào đàng hoàng? Chỗ nào lẩn lút? Chỗ nào chấm giải? Chỗ nào bay qua? Đến như chuyện ấy, ta nên gác ra một bên, không nên bàn đến nữa!
4. Ai bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy chỉ nên đánh đòn, không cần dậy! Sao vậy? Chỉ vì từ bé hắn đã học một thầy đồ cùn, tai nghe vào rồi, nhớ chôn trong ruột. Chính mắt hắn cũng chưa được trông đến vở Mái Tây! Đánh đòn ra nghĩ cũng còn là oan!
5. Nếu mắt được coi đọc Mái Tây rồi mà cũng bảo là dâm thư, thì hạng đó có nên đánh đòn không? Thưa rằng: Đánh thế cũng là đánh oan! Vì hắn là hạng đồ cùn đó thôi. Lúc viết Mái Tây, người viết đã phát nguyện không cho họ đọc. Quả nhiên ngày nay họ không đọc!
6. Bảo Mái Tây là dâm thư, người ấy thế mà có công đức lớn! Khi xưa viết Mái Tây, đã phát nguyện chỉ để cho các tài tử gấm vóc đời sau cùng đọc chứ không cho hạng gánh rong, hạng lính lệ cũng xúm vào đọc... Nay nếu không có hạng người ấy nắm tay, vung cánh, vỗ giường, đập ghế, chửi là dâm thư, thì thế tất ai ai cũng đọc, để tiết lộ hết cả cái hay, cái kín của Trời Đất! Thánh Thán rất không thích.
7. Sách Thế Thuyết Tân Ngữ nói: "Thiên Tiêu Dao Du" trong Trang Tử, rất là khó giải. "Đầu xuân rỗi việc, không lượng sức mình; cùng anh Trần Thụy Cung, mưa gió ngồi liền giường, đốt lò hương, rót chén rượu, đùa đẫy sung sướng, giải được suốt thiên. Từ nay trở đi, các bạn tài tử trong đời, đồng thanh tương ứng, hiểu cái lạ, tìm cái mới, hai chúng tôi xin đóng vai Chi Công Hứa Sử. (Điều này chắc chắn lạc ở bản phê bình cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh của Thánh Thán sang).
8. Vở Mái Tây của Thánh Thán, chỉ cần nhận rõ được người xưa, cái đó không dám nhún mình. Đến như những câu phê trước và sau, đều là miệng đọc cho học trò, để mặc hắn viết, tịnh không có sửa chữa lại, nên câu văn có nhiều chỗ không được vừa ý. Vì: một là Thánh Thán vốn tính đại lãn! Hai là văn Mái Tây như châu ngọc bày ra trước mặt. Thánh Thán dù có sửa văn mình đến đâu đi nữa mà được việc gì! Thiên hạ đời sau tha thứ cho tôi những chỗ không được vừa ý, và xem cho tôi nhận rõ được cổ nhân.
9. Thánh Thán có phê sáu bộ sách tài tử (Trang-Tao-Sử ký-Luật thi Đỗ Phủ-Thủy Hử-Tây Sương). Vở Mái Tây tức là một. Nhưng thực ra thì cả sáu bộ Thánh Thán chỉ dùng một cặp mắt mà đọc vỡ. Ví như đọc Mái Tây, chính là dùng cặp mắt đọc Trang Tử, Sử ký mà đọc vỡ. Mà đọc Trang tử, Sử ký, cũng chỉ dùng cặp mắt đọc Mái Tây mà đọc vỡ. Các bạn tin tôi, hãy đưa vở Mái Tây cho học trò đọc thay cho Trang Tử, Sử ký.
10. Con em khi đến mười bốn, mười lăm: Như mặt trời ở phương Đông, sách nào chả đọc, quyết không có lẽ không đọc vở Mái tây. Nếu không mau đem vở này của Thánh Thán cho đọc thì thật là để cho chúng đọc vụng Mái Tây. Nếu để chúng đọc vở Mái Tây của Thánh Thán, thì cũng y như là đọc Trang Tử, Sử ký.
11. Con em khi muốn xem vở Mái Tây, nên dậy cho đọc Quốc Phong trước. Vì chuyện tả trong Mái Tây toàn là chuyện tả trong Quốc Phong. Nhưng văn Mái Tây viết, không có câu nào là không nhã nhặn, mà lại toàn bắt chước lối tả trong Quốc Phong, không có câu nào là không thấu thoát. Có thể chữa được cái bệnh viết văn nhã nhặn thì không thấu thoát, hay thấu thoát thì không nhã nhặn của các trẻ em.
12. Các con em trầm tĩnh, viết văn tất nhã nhặn, khổ về nỗi không thấu thoát! Các con em thông minh, viết văn tất thấu thoát khổ về nỗi không nhã nhặn! Như thế tuy là rẽ cương chia lối, nhưng thực là cùng bệnh mà khác chứng... Thế nào là cùng bệnh? Ấy là bệnh không biết biến đổi. Không biến đổi tức là không thấu thoát. Thế nào là hai chứng? Một chứng là đứng lại mà không biến đổi. Hai là chứng chạy đi mà không biến đổi. Đứng là mà không biến đổi, tuy có ra vẻ nhã nhặn, nhưng thực ra thì không nhã nhặn. Chạy đi mà không biến đổi, tuy có ra vẻ thấu thoát, nhưng thực ra không thấu thoát. Nếu thật nhã nhặn, nhất định phải thấu thoát. Nếu thật thấu thoát nhất định phải nhã nhặn. Hỏi ai có thể viết được như thế? Thưa rằng người viết Mái Tây có thể viết được như thế. Mà sở dĩ viết được như thế, chỉ là biết biến đổi đó thôi.
13. Các trẻ em đọc vở Mái Tây này rồi, sau sẽ luyện riêng được cặp mắt để đọc các bộ sách lạ khác. Tính ra vài trăm năm nữa, sách trong trời đất, bản nào cũng như mười mặt trời cùng mọc. Bấy giờ thì bao nhiêu những sách bất tất đọc, không đáng đọc, không thể đọc được cũng đã bỏ đi hết cả rồi! Đó thật là một chuyện rất sung sướng! Nhưng thực là bắt đầu tự vở Mái Tây này!
14. Tôi trước vì các con và các cháu, muốn cho chúng biết viết văn, có nhặt trong Tả Truyện, Chiến Quốc Sách, Trang Tử, Ly Tao, Công Cốc, Sử Ký, Hán Thư, cùng các văn của Hàn, Liễu, Tam, Tô, tất cả hơn một trăm bài, đề là "Tài Tử tất độc thư" vẫn muốn đem in, nhưng chẳng may gặp loạn, nhà nghèo không đủ tiền. Nay đã in được bản Mái Tây này cũng không cần nghĩ đến bộ ấy nữa.
15. Viết văn hay nhất là mắt nhìn chỗ này, tay tả chỗ kia, nếu có lúc mắt muốn nhìn chỗ này thì tay tất phải tả chỗ kia... Nếu không hiểu ý ấy, mắt nhìn chỗ nào, tay tả chỗ ấy, thì xem xong là hết ngay… Người viết Mái Tây thì hiểu ý ấy lắm.
16. Văn chương hay nhất là mắt nhìn chỗ này, song không tả ngay, lại từ xa tả lại. Khi thong thả tả tới nơi rồi, hãy dừng lại đó, lại từ chỗ xa khác, lại thong thả tả lại và khi sắp tới nơi rồi, lại dừng lại đó... Cứ thay đổi vài ba lần như thế, lần nào cũng từ chỗ xa xa, thong thả tả lại, khi sắp tới nơi, lại dừng lại đó… Chứ cũng không đủ chỗ mắt mình nhìn nữa, để cho người đọc thoáng trông thấy chỗ đó ở ngoài văn chương... Văn Mái Tây thuần dùng cách ấy. Văn Tả Truyện, Sử ký cũng thuần dùng cách ấy...
17. Văn chương hay nhất là trước hết nhằm vào một chỗ làm mục đích, rồi đem ngọn bút lượn đi, lượn lại, lượn lại lượn đi ở chung quanh nơi mục đích đó, không bắt lấy hẳn, cũng không buông ra hẳn, y như con sư tử bỡn quả cầu vậy. Cầu vốn chỉ có một quả. Nay ta thả con sư tử ra, nó lấy hết sức nhảy múa lượn quanh... Nhất thời bao nhiêu người trong rạp nhìn vào con sư tử đến hoa cả mắt... Thế nhưng nào có bởi đâu con sư tử!... Mọi người đem mắt nhìn sư tử. Sư tử chú mắt nhìn vào quả cầu. Nhẩy lượn tuy là sư tử, nhưng sư tử sở dĩ nhẩy lượn như thế, chính là vì quả cầu vậy. Vở Mái Tây cũng như Tả Truyện, Sử ký, thuần dùng phương pháp ấy.
18. Văn chương hay nhất là trong một phút ấy, con mắt linh lợi đã nhìn thấy, thì ngay trong phút ấy, bàn tay lanh lợi phải bắt lấy ngay. Vì rằng hơi sớm một phút cũng không thấy, hơi muộn một phút cũng không thấy, chẳng hiểu tại sao, vừa hay đến phút ấy bỗng dưng nhìn thấy. Nếu không bắt ngay lấy thì rồi không tìm ra nữa! Bao nhiêu văn của Mái Tây đều là tác giả tả trong một phút nào đó, con mắt linh lợi bỗng dưng nhìn thấy, liền bắt lấy cho mau. Vì thế mà truyền mãi đến bây giờ. Thử nghĩ từ nghìn muôn năm trở lại đây, biết bao nhiêu là văn hay mà người ta đã nhìn thấy... Chỉ vì không ai bắt lấy, để mặc cho nó như con trâu đất chạy xuống bể, chả còn tăm hơi gì nữa!
19. Từ rầy trở đi dù ai là tay tài tử tuyệt đời cũng chớ có nói rằng: Vở Mái Tây này giá tôi viết cũng nổi... Ví phỏng tác giả còn đến ngày nay, bảo đốt bản này đi, lại viết bản khác, cũng không thể viết lại được nữa! Ví phỏng tác giả là bậc người trời viết nổi một bản khác nữa, nhưng là thứ văn nhìn thấy ở trong một phút khác, lại bắt lấy bằng một cách khác, tức là lại có một lối viết khác, một lối văn khác, nghĩa là một bản khác chứ không phải bản này nữa!
20. Tôi nói con mắt linh lợi nhìn thấy bàn tay! Chợt nghĩ đến con em nhà người ta, có phải không nhìn thấy đâu, chỉ là vì không biết bắt lấy… Trông thấy là trời cho, nhưng bắt lấy phải cần đến người làm. Người viết Mái Tây, thật là vừa hiểu trông thấy lại vừa hiểu bắt lấy, nhưng khi các bạn đọc tìm đến bất tất phải học chỗ nhìn thấy, mà chỉ cần học cách bắt lấy của tác giả. Thánh Thán rất tiếc xưa nay bao nhỉêu là văn hay đã bị người đời nhìn thấy rồi mà không ai bắt lấy cả, để cho nó tự chìm đắm đi không còn có tăm hơi gì. Nay cho in vở Mái Tây này ra đời. Khắp trong thiên hạ ai cũng học được cách bắt lấy. Tôi tính ra xa một vài trăm năm nữa, thế gian tất thêm ra vô số là văn hay. Thật là một chuyện rất sướng!
21. Một lần tôi đương ăn cháo, muốn viết một bài. Lỡ vì cớ khác; không viết ngay được. Đến khi ăn cơm rồi mới viết, thì đã thấy tiếc cái bài mà mình nghĩ khi ăn cháo! Cái đó cũng ví như ta gieo con xúc xắc, hơi sớm, hơi muộn, hơi nặng, hơi nhẹ, hơi Đông, hơi Tây, một chút, tức là không phải sáu mặt ấy nữa rồi! Vậy mà kẻ ngu ngốc còn toan tranh lại, thật đáng tức cười biết mấy!
22. Sao tôi lại nói vậy? Tôi đã nghĩ: Nghìn muôn năm nay, ngày nào là ngày không có mây... Thế nhưng quyết không có chuyện mây hôm nay lại giống với mây hôm nọ. Sao vậy? Mây chỉ là hơi nước ở non sông bốc lên trên không bị làn gió nhẹ thổi dạt ra từng đám. Gió đã không có ý nhất định thì mây cũng không có khuôn nhất định. Hai bên không biết lẫn nhau, chẳng qua ngẫu nhiên như thế. Văn Mái Tây vốn không có ý nhất định và khuôn nhất định. Chẳng qua ngày đẹp song mát, bút tốt, tay rỗi, bỗng dưng viết lên, như gió thổi mây. Ví phỏng lúc khác lại viết có lẽ cũng có nhiều câu hay lắm. Thế nhưng lần này kể đã hay tuyệt rồi! Ta đừng bảo: lúc khác viết, không thể hay hơn thế! Nhưng cũng đừng bảo lúc khác viết còn có thể hay hơn thế vậy!