Lão Khoai
26-03-2011, 06:15 AM
Thơ CAO BÁ QUÁT
Tác giả: Sinh năm 1809, mất 1854, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, người huyện Gia Lâm, Hà Nội, đỗ cử nhân năm 1831, được giữ chức Hành Tẩu ở bộ lễ. Đời ông nhiều sóng gió, từng bị bắt , tống ngục, tra tấn và đày sang Inđônêxia, Cămpuchia. Năm 1853 ông tổ chức khởi nghĩa và bị giết chết trong chiến trận (1854). Ông còn là nhà thơ lớn, tác giả hơn 1000 bài thơ các loại.
Thăm lại nơi đọc sách
Khóm liễu bên tường nay đã lớn.
Thư phòng không sách, cảnh tàn hoang.
Nhớ những đêm mưa, trời nổi gió,
Sáng dậy đầy hiên ngập lá vàng.
. Sáng sớm ra đi từ phố Nghĩa Quảng
Tiếng gà eo óc gáy đầu thôn.
Sao Hôm gác núi, mảnh trăng tròn.
Gió rừng, lá rụng, lưng lừa lạnh.
Khách dậy, lên đường rời Thạch Môn.
Đề vách quán Thanh Phong
Nỗi buồn khẽ chạm vẫn gây đau.
Trăng thanh gió mát vẫn buồn rầu.
Đèn như hạt đỗ, chăn bông lạnh.
Tình buồn quả thật nặng và sâu.
Tác giả: Sinh năm 1809, mất 1854, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, người huyện Gia Lâm, Hà Nội, đỗ cử nhân năm 1831, được giữ chức Hành Tẩu ở bộ lễ. Đời ông nhiều sóng gió, từng bị bắt , tống ngục, tra tấn và đày sang Inđônêxia, Cămpuchia. Năm 1853 ông tổ chức khởi nghĩa và bị giết chết trong chiến trận (1854). Ông còn là nhà thơ lớn, tác giả hơn 1000 bài thơ các loại.
Thăm lại nơi đọc sách
Khóm liễu bên tường nay đã lớn.
Thư phòng không sách, cảnh tàn hoang.
Nhớ những đêm mưa, trời nổi gió,
Sáng dậy đầy hiên ngập lá vàng.
. Sáng sớm ra đi từ phố Nghĩa Quảng
Tiếng gà eo óc gáy đầu thôn.
Sao Hôm gác núi, mảnh trăng tròn.
Gió rừng, lá rụng, lưng lừa lạnh.
Khách dậy, lên đường rời Thạch Môn.
Đề vách quán Thanh Phong
Nỗi buồn khẽ chạm vẫn gây đau.
Trăng thanh gió mát vẫn buồn rầu.
Đèn như hạt đỗ, chăn bông lạnh.
Tình buồn quả thật nặng và sâu.