PDA

View Full Version : Đặc tính thi ca



Lão Khoai
21-06-2011, 10:04 AM
Trên phương diện tinh thần, thơ là nguồn cảm thông chung của nhân loại (Hegel). Về cấu trúc, thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung của loài người và làm thơ tức là làm thế nào cho ngôn ngữ trở thành một tác phẩm nghệ thuật (Paul Valéry). Về phương diện ngữ học, thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó (Jakobson).


Trẻ con hay hỏi: "Cái này là cái gì?" "Cái này làm bằng gì?". Triết học, nguồn cội của sự hiểu biết, cũng bắt nguồn từ việc muốn giải đáp những câu hỏi đơn giản nhất trong trí óc con người như Cái này là cái gì? Cái này làm bằng gì?

Sang thơ, nếu chúng ta đọc những câu ca dao sau đây:

Giã ơn cái cối, cái chày
Nửa đêm gà gáy, có mày có tao
Giã ơn cái cọc cầu ao
Nửa đêm gà gáy, có tao có mày.

thì "cái cối, cái chày, cái cọc, con trâu" đã trở thành bầu bạn, thành người, hay ít nhất, một bộ phận nào đó trong con người. Tại sao lối "đối thoại" trên đây lại là một đặc tính của nhi đồng? Vì trẻ con ưa nói chuyện với chó, mèo hay nắm lấy những vật bất động mà chơi, "giao thiệp" với những vật ấy như con người, tạo một đời sống tinh thần linh động cho mọi sinh vật và tĩnh vật.

Nhà thơ cũng thế: Hàn Mặc Tử chơi với trăng, ngủ với trăng, trong tuyệt đỉnh của đau thương, Hàn đã "dìm hồn xuống một vũng trăng êm, cho trăng ngập dần lên tới ngực". Phạm Duy bước theo người yêu, để cùng "nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu có lũ kỷ niệm trước sau" và Xuân Diệu

Chen lá lục, những búp lài mở cửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh
Vì gió im, và đêm cứ làm thinh
Ðoàn giây phút cũng lần khân, nghỉ đã.


Sâu hơn Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử tạo nên một bối cảnh phi thường mà gió, trăng, vạn vật, trời, đất ... đều đắm trong vũ trụ nhân sinh với những u sầu, bi lụy, đoạn trường của con ngưòi:

Bỗng đêm nay trước của bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu
Não nê lòng viễn khách giữa cơn mơ
Trời từ bi cảm động ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá
Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã


Vậy đặc tính của thơ là tạo đời sống tinh thần và thể xác cho vạn vật và cho những ý niệm trừu tượng như thời gian, không gian, dĩ vãng, kỷ niệm ... Bởi vì, nhà thơ, khi sáng tác đã hòa mình với vạn vật: con người, cỏ cây, đêm, ngày, hạt cát hay vũ trụ đều "bình đẳng" và có một linh hồn: Chúng ta thấy lại quan niệm tạo vật huyền đồng của Lão Trang trong tính nhi đồng của thi nhân


Khi viết:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không, mà Quang Dũng khơi trong ta nỗi nhớ thương, mất mát, nuối tiếc, ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời. Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh, tái tạo những gì đã mất, đồng thời phản ảnh tâm trạng chính mình. Nhà thơ không dùng ngôn ngữ để nhắn nhủ, giải thích, mà dùng ngôn ngữ để truyền cảm. "Thi nhân khơi gợi trong ta một trạng thái. Nhà thơ trao cho ta một công trình nghệ thuật, như họa sĩ cống hiến một bức tranh, nhạc sĩ tặng một khúc nhạc, chúng ta thẩm thấu nghệ thuật trong thơ, trong tranh, trong nhạc tùy theo tâm cảm, khả năng, trình độ và hoàn cảnh mỗi người. Thoát ra ngoài hệ thống ngôn ngữ bình thường, thơ là tiếng nói của nội tâm không giống một thứ tiếng nói nào khác Nhà thơ diễn tả mà không chỉ định, chỉ định mà không dùng tên. Tiếng nói của nhà thơ là tiếng nói gián tiếp bằng những tương quan, bằng những đồng âm, đồng cảm. Cùng là ngọn lửa, nhưng ngọn lửa của nhà thơ gợi trong ta những đắm say, cuồng nhiệt của cuộc đời (st)

PhiHuong
23-06-2011, 02:23 AM
ĐỈNH ẢO- MỘT ĐỜI THƠ (Nam Dao)

thuannghia | 13 June, 2011 23:58

Đỉnh Ảo, Một Đời Thơ

Của Tác giả Nam Dao




alt
BÙI GIÁNG (1926- 1998)
(tranh ghép bằng lá cây của Thuận Nghĩa)

Thơ Bùi Giáng. Phải nói, nhiều người đã xưng tụng thơ Giáng. Cũng nhiều người, nhăn mặt kêu, thơ đang hay bỗng trửng giỡn, mất hay. Nhưng nói gì thì nói, ai cũng nhận rằng Bùi Giáng là một nhà thơ. Và là một huyền thoại sống.

Tôi biết một đêm ăn trộm bằng ba năm làm, không chơi trò ru rú rúc rào, nhưng xin thưa với Đười Ươi thi sĩ những bài thơ của anh mà tôi trân trọng. Trong tập Mưa Nguồn (1963), bài Người đi đâu,với

Trời vi vút én liệng vòng hớt hả.

Đi đi em nguồn giậy mộng chiêm bao.

Về thao thức canh chầy tìm trở lại.

Bốn chân trời người đứng ở nơi nao.

Rồi bài Phương Hà, nhất là đoạn:

Trời tuổi trẻ bụi nào về vây hãm.

Giữa mịt mờ trăng nước lạnh liên miên.

Hoài vọng uổng bên nỗi đời thê thảm.

Hờn núi sông anh lạc xứ xa miền.



Trong Mắt Buồn, hai dòng như chuỗi hạt trai, rằng:

Bây giờ riêng đối diện tôi.

Còn hai con mắt khóc người một con.



Cuối cùng, Mai Sau Em Về, trác tuyệt bất ngờ là hai câu:

Em về mấy thế kỷ sau.

Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy không.

Đến tập Lá Hoa Cồn (cũng 1963), tôi yêu lục bát Bùi Giáng, và nhận ra anh là đứa em cuối cùng của Tố Như Tử (chứ chẳng phải Nguyễn- Bính- ca- dao hay Phạm- Thiên- Thư- vô -thanh - vì- không- đủ -đoạn- trường). Với Dệt Áo, hãy nghe:

Áo vàng xin dệt cho em.

Tơ vàng ai lựa sợi mềm tay đan

Mai sau để lại hoe vàng.

Cầm nghe có thịt da nàng ở trong.

Còn Sa Mạc Phát Tiết, đoạn cuối khiến châu thân lạnh toát rợn người:

Thưa em trời chẳng cho gần.

Đường vô hạn trắng tử phần ban trưa.

Đêm vần vũ bạc phau xưa.

Hồn sa mạc phát tiết mưa ra ngoài.



Bây giờ, lần dở Ngàn Thu Rớt Hột ( lại cũng 1963) và nghe Bùi Giáng lên cơn tếu trong Gởi thôn nữ Vĩnh Trinh, kêu ca:

Tấm quần em rách đường tơ
Cỏ trong mình mẩy bâng quơ mọc nhiều,

rồi sau lại hỏi:

Bây giờ em đứng nơi đâu
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao ?


Chưa hết, làm xong mấy khổ lục bát, Giáng tái bút:

Gắng thu xếp gấp rồi vào. Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không. Trong này thiên hạ rất đông. Ăn mặc thật đẹp nhưng trông không mặn mà bằng em.

Anh viết cứ như thật! Em nào chịu cho nổi cơ chứ?

Đến Màu Hoa Trên Ngàn ( lại lại 1963), Bùi Giáng vẫn cứ phong độ, thơ trào ra, có tệ thì thi thoảng xuống mức thường thường bậc trung, nhưng chỗ này chỗ kia vẫn lấp lánh những ánh sao băng kỳ diệu. Em về mấy thế kỷ sau lại được lập lại (sau đó thêm một lần nữa thì phải) trong bài Em Về Ra Sao. Xin chép:

Em về mấy thế kỷ sau.

Hồn ngân tiết điệu câu chào vọng qua.

Em đi lòng độ giang hà.

Cỏ mùa thu mọc chớm già chợt non.



A, cái tứ thơ lạ, em về nhưng lại mấy thế kỷ sau, tại sao hở em?

Chỉ nội một năm 1963, Bùi Giáng ra thêm Màu Hoa Trên Ngàn, tức là 5 tập thơ. Thêm vào , Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I và I I, rồi Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger, là hai cuốn sách lý luận biên khảo. Và chỉ một năm thôi, là thừa cho một đời văn: anh đả để dấu ấn Bùi Giáng trong văn học và thi ca. Từ 1955 đến 1975, Giáng viết khoảng 46 (47?) tác phẩm, đủ thể loại, từ sách Giáo Khoa đến Dịch Thuật. Sau 75, anh không sung sức như trước, nhưng thơ anh thấm thía trạnh lòng hơn, và cũng hoài nghi hơn, đôi khi có chút uỷ mị chua xót, nhưng gì thì gì, vẫn ngộ nghĩnh. Tôi chép ba bài tôi cảm:
Bao giờ

Bằng bút chì đen

Tôi chép bài thơ

Trên tường vôi trắng

Bằng bút chì trắng

Tôi chép bài thơ


Trên lá lục hồng

Bằng cục than hồng

Tôi đốt bài thơ

Từng phút từng giờ



Tôi cười tôi khóc bâng quơ

Người nghe cười khóc có ngờ chi không



Một đời

Một đời đâu chốn đâu nơi

Đâu người đi kẻ ở đời đâu đâu

Em đi từ tỉnh mộng đầu

Một mình anh ở mang sầu trăm năm

Em từ vô tận xa xăm

Trùng lai chất vấn: từ trăm năm nào?


Gió

Gió qua đồi núi cheo leo

Gió chào em Mọi bên đèo đầu truông

Giữa đèo rốt cuộc một muôn

Bên giòng suối mát cởi truồng ngồi chơ

Nhân vì có việc qua đồi

Thấy em xinh đẹp tôi ngồi ngắm em

Thế rồi công việc bỏ quên


Chỉ còn có biết ngắm em thôi mà

Về sau khắp bến giang hà

Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông



Phải nói, bài Bao Giờ hay, có chất Apollinaire, một nhà thơ người Pháp Giáng trân trọng. Bài Một Đời trung trung, được câu chót, bất ngờ, nâng cấp bài thơ lên một tầng siêu hình. Bài chót, Gió, mới đọc thì thường, quá thường, loại thơ kể chuyện. Nhưng không hiểu sao nó ám ảnh. Em Mọi man sơ nay thay những kiều nữ môi son má phấn Kim Cương, Malyn MốngLồ, Bizít Bàđô? Sao thế nhỉ? Thơ lại thơi thới, hân hoan, giản dị, thực thà, ngộ nghĩnh và trẻ thơ. Nhất là vào những phút cuối đời! Sao trẻ thơ được thế nhỉ?

[sưu tầm].
- Có ảnh nhà thơ nhưng tôi copy lại không được ? %%-

Johnny
23-06-2011, 09:01 AM
http://svth.net/up/images/95081359441502974026.jpg (http://svth.net/up/)
(chân dung của Bùi Giáng xưa)

Theo dòng thơ của "PhiHuong" về cố thi sĩ họ Bùi, qua đây tôi xin trích gửi tặng các bạn vài bài lục bát tứ tuyệt - một loại đặc sản không lẫn vào đâu được của ông mà nhiều người có nói: "Ông viết thơ, làm thơ cứ như ta lấy cái gì đó từ trong túi ra vậy". "Ngủ ra thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ." Đặt bút là viết và viết một mạch không ngừng. Phải chăng đây là một thiên tài hiếm thấy vậy!

Từ giã
"Người mộc mạc trái tim cũ kỹ
Với hai tay bắt lộn vòm trời
Chiều qua mang một cõi đời
Đi về lẽo đẽo giữa đời đi qua…"

Rong chơi
"Ngao du tuế nguyệt thập thành
Nắng mưa chìm nỗi đã đành lâm ly
Hoàng hôn vĩnh dạ thuận tùy
Bình minh tái tặng nhu mỳ cho em. "

Mai sau em về
"Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
Ta đi còn gởi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù..."

Áo xanh
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều đi qua.
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.

Nhưng, có lẽ lời tự giới thiệu bằng thơ sau đây của ông mới là “tuyệt diệu hảo từ” khi "quê nhà chỉ còn là giấc mộng đã qua, thân thế cũng chỉ là một nỗi đời hư huyễn":

"Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm..."

Hay:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.

(Ðó là vô căn Bùi Giáng)

Nói về ông là nói về cả 1 kho tàng "lục bát tứ tuyệt". Trong đó có hai câu (2 câu ông viết về Thúy Kiều mà mãi sau này khi nhắc về ông người ta thường nhớ ngay ra rằng:

"Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay"

Đúng là "Bùi Giáng"! Thơ của ông chỉ để cảm nhận. Quả là khó hiểu quá, phải không?!!! Chính điều đó làm ra một "Bùi Giáng" tuyệt vời!

Johnny
23-06-2011, 09:33 AM
HIỆN TƯỢNG "BÙI GIÁNG"

... Trên báo Văn, số 26 tháng 8 năm 1984, Mai Thảo kể lại rằng khi hỏi về cái lực viết phi phàm của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền lắc đầu cười: "Chịu, không giải thích được. [...] Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận, vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ."

Vẫn theo lời Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, thuật lại: "Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng, buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm bẩy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc."

Mai Thảo kể tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi Giáng: "Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón thôi [...] Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi."

Về những cơn điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập Thơ Bùi Giáng (5): "Chỉ có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm 1992) anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh, là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa đường vung tay, điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng [...] Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình."

Ðó là hiện tượng Bùi Giáng, qua lời kể của những người thân trong giới văn học.
(Trích bài của Thụy Khê - Sóng Từ Trường II - về hiện tượng BÙI GIÁNG)

Lão Khoai
23-06-2011, 09:38 AM
Thơ Bùi Giáng thì kỳ vỹ phi thuờng ,nhưng có những bài đọc tới đọc lui vẫn không biết ông nói gì vừa buồn cười , vừa thú vị


Với Bùi Giáng dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.

Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù

(Mùa xuân chiêm bao)

Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, "cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một "con đường chưa ai tới" Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ:

Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên

(Người điên)

Đến bài này thì chịu thua

...Một hai hai một di hài
Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma
Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà?
Và thân thể máu me và thịt xương...

...Ma đên ỳ nẽ ô mà
Xơ tin ô đố đâu là đến đây
Xền nô đô thí xi đầy
Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn
A tin a tỉ oan hồn
Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu
Người ơi ô ướt dấu bèo
ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu
Lừng bay thân thế pha mù
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân

(Ðạm Tiên)


Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây

"Hai cô bán phở dịu dàng
Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn ta"
-Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
Tình thương ẩn mặt từ trong
Nội tâm vô tận mà long đong vì
Phong tao phấn đại tương nghi
Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là.

(Tặng quán phở Huyền Trân) (st)