Lão Khoai
25-06-2011, 01:33 AM
Trong chuyến công cán Trung Hoa mùa thu năm ngoái, tôi có dịp ở lại Hàng Châu ít ngày.
Hàng Châu bây giờ là thủ phủ tỉnh Triết Giang.
Nghe nói, hơn hai nghìn hai trăm năm trước, Triết Giang thuộc Giang Nam, đất của Ngô Vương Tôn Quyền - người anh vợ bất đắc dĩ của Lưu Huyền Đức, vua Thục Hán thời Tam Quốc.
Trước đó khoảng ba bốn trăm năm, vào thời Xuân Thu, Triết Giang thuộc đất Việt của Việt Vương Câu Tiễn mà Hàng Châu là Kinh đô. Hàng Châu xưa còn được gọi là Tiền Đường thành, vì có sông Tiền Đường chảy quạ Hàng Châu cũng gần Cối Kê thành - Kinh đô thứ hai của Câu Tiễn - do Phạm Lãi xây dựng sau khi hai người được Ngô Vương Phù Sai thả về. Cũng vì việc thả Câu Tiễn và Phạm Lãi này, mà nước Ngô không còn tên trên bản đồ Trung Hoa thời Chiến Quốc nữa. Nó đã bị mất vào tay nước Việt.
Hàng Châu cũng là nơi sinh sống của La Bản, tức La Quán Trung biệt hiệu Hồ Hải tản nhân, tác giả bộ Tam quốc diễn nghĩa vĩ đại và cũng là đồng tác giả Thủy Hử truyện cùng với Thi Nại Am thời cuối Nguyên đầu Minh, tức cách đây độ dăm sáu trăm năm.
Hàng Châu cùng với Tô Châu, tức Cô Tô thành - nơi Ngũ Tử Tư xin được treo mắt lên cổng thành để đợi ngày nhìn quân Việt phá Ngô, mà từ ấy cũng thuộc về nước - là khởi điểm của "con đường tơ lụa" nổi tiếng xuyên qua Trung á để tới châu Âu...
Xem thế, đủ biết Hàng Châu đáng ở như thế nàọ Nhưng chuyện tôi gặp ở Hàng Châu thì mới thật là kỳ lạ!
Tôi ở nhà khách Tây Tử, thực ra là một biệt thự nơi mép nước trong cụm biệt thự du lịch bên bờ Tây Hồ, con hồ thơ mộng bậc nhất Trung Hoa.
Tây Tử là tên các văn nhân dùng để gọi Tây Thi tuyệt sắc - người con gái Việt giặt lụa bên khe Nhược Gia, núi La Sơn, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang mà Câu Tiễn đem dâng cho Phù Sai cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm rồi.
Cái bến thuyền bên nhà khách - nơi đưa đón khách vãn cảnh Tây Hồ - cũng được gọi là bến Tây Tử.
Vừa lạ nhà vừa vẩn vơ nghĩ chuyện Tây Thi - Phạm Lãi, Câu Tiễn - Phù Sai ngay trên quê hương của họ, tôi không sao ngủ được. Quãng 11 giờ khuya, khoác thêm chiếc áo ấm, tôi lững thững tản bộ dọc bến Tây Tử.
Bến vắng. Những ngọn đèn ẩn nơi mép nước rọi ánh sáng mạnh lên ngàn cây liễu thướt tha cao vút quanh hồ, tạo ra cả một chân trời mầu ngọc bích. Bên cái chân trời ngọc bích ấy là trời đêm mênh mông, loáng thoáng mấy vì sao. Trăng thu lên cao, tròn vành vạnh. Gió thu, sương thu, trăng thu và ánh sáng từ những cây liễu hắt xuống, làm cho mặt hồ càng thêm huyền ảo. Những con thuyền đã tắt hết đèn neo trên bến. Những "trạo nhi" - người chèo thuyền - chắc đã yên giấc ở nhà họ từ lâụ Chầm chậm tôi đi.
Đến chỗ ngoặt, vừa vòng qua một hòn giả sơn có trồng trúc và phù dung, chợt thấy một người con gái thướt tha như liễu bên mé nước, tay cầm chiếc đèn lồng nhỏ, lễ phép cúi chào và nói:
- Theo lời ước ban chiều, nay xin tới đón!
- Ước ư? - kinh ngạc, tôi hỏi lạị
Nàng đưa tôi một tờ giấy và bảo:
- Cái này chưa phải một lời ước sao?
Tôi cầm tờ giấy, soi vào đèn lồng của nàng. Trên tờ giấy là bài thơ ngắn "Gửi Tây Thi". Bài thơ như sau:
Lầu Tây Tử ta tìm người trong sách
Giai nhân xưa cười nói ở đâu nào?
Bến Tây Tử bao lần đưa đón khách
Ta là ai trong chán vạn phong lưu?
Ước gì gặp kẻ khuynh thành ấy
Xem người xưa giờ khác bao nhiêu?
Thì đây chính là nét chữ của tôi, tờ giấy của tôi, bài thơ của tôi! Ban chiều, tôi cũng vơ vẩn bên hồ, rồi đem thả chính tờ giấy này, xuống đúng chỗ này. Sung sướng và sợ hãi, tôi bật hỏi:
- Tây Tử! Nàng đấy ư? Lại thế được ư?
Nàng chưa trả lời mà cười và đọc một bài từ:
Trường Giang (hề) cuồn cuộn chảy về đông
Sóng vùi dập (hề) hết anh hùng
Được, thua, phải, trái (hề) thoắt thành không
Non xanh (hề) nguyên vẻ cũ
Mấy độ (hề) bóng tà hồng!
Khách thơ (hề) xin mời lên thuyền liễu
Một bầu rượu (hề) vui vẻ tương phùng
Xưa nay (hề) bao nhiêu việc
Phó mặc (hề) nói cười không.
Đọc rồi, nàng quay ra mặt hồ, cầm chiếc đèn lồng huơ lên ba vòng. Tự nhiên thấy một con thuyền liễu, mui bằng cỏ lau, rẽ nước cập bến, không một tiếng động. Đứng ở cuối thuyền là một người đàn ông cao lớn đội nón dứa, mặc quần áo vải thô, đi dép cỏ. Nàng nhìn tôi và bảo:
- Con thuyền này chờ khách đã lâu rồi!
Tôi trỏ người đàn ông trên thuyền:
- Kia là...
- Bạn thiếp. Như người đời vẫn nói. Đó là Phạm tướng quân.
- Là Phạm Lãi ư?
Người đàn ông bỏ nón, cung kính vái chào theo kiểu ngày xưa, thay cho việc trả lời.... thong thả sẽ tiếp ...( ST )
Hàng Châu bây giờ là thủ phủ tỉnh Triết Giang.
Nghe nói, hơn hai nghìn hai trăm năm trước, Triết Giang thuộc Giang Nam, đất của Ngô Vương Tôn Quyền - người anh vợ bất đắc dĩ của Lưu Huyền Đức, vua Thục Hán thời Tam Quốc.
Trước đó khoảng ba bốn trăm năm, vào thời Xuân Thu, Triết Giang thuộc đất Việt của Việt Vương Câu Tiễn mà Hàng Châu là Kinh đô. Hàng Châu xưa còn được gọi là Tiền Đường thành, vì có sông Tiền Đường chảy quạ Hàng Châu cũng gần Cối Kê thành - Kinh đô thứ hai của Câu Tiễn - do Phạm Lãi xây dựng sau khi hai người được Ngô Vương Phù Sai thả về. Cũng vì việc thả Câu Tiễn và Phạm Lãi này, mà nước Ngô không còn tên trên bản đồ Trung Hoa thời Chiến Quốc nữa. Nó đã bị mất vào tay nước Việt.
Hàng Châu cũng là nơi sinh sống của La Bản, tức La Quán Trung biệt hiệu Hồ Hải tản nhân, tác giả bộ Tam quốc diễn nghĩa vĩ đại và cũng là đồng tác giả Thủy Hử truyện cùng với Thi Nại Am thời cuối Nguyên đầu Minh, tức cách đây độ dăm sáu trăm năm.
Hàng Châu cùng với Tô Châu, tức Cô Tô thành - nơi Ngũ Tử Tư xin được treo mắt lên cổng thành để đợi ngày nhìn quân Việt phá Ngô, mà từ ấy cũng thuộc về nước - là khởi điểm của "con đường tơ lụa" nổi tiếng xuyên qua Trung á để tới châu Âu...
Xem thế, đủ biết Hàng Châu đáng ở như thế nàọ Nhưng chuyện tôi gặp ở Hàng Châu thì mới thật là kỳ lạ!
Tôi ở nhà khách Tây Tử, thực ra là một biệt thự nơi mép nước trong cụm biệt thự du lịch bên bờ Tây Hồ, con hồ thơ mộng bậc nhất Trung Hoa.
Tây Tử là tên các văn nhân dùng để gọi Tây Thi tuyệt sắc - người con gái Việt giặt lụa bên khe Nhược Gia, núi La Sơn, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang mà Câu Tiễn đem dâng cho Phù Sai cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm rồi.
Cái bến thuyền bên nhà khách - nơi đưa đón khách vãn cảnh Tây Hồ - cũng được gọi là bến Tây Tử.
Vừa lạ nhà vừa vẩn vơ nghĩ chuyện Tây Thi - Phạm Lãi, Câu Tiễn - Phù Sai ngay trên quê hương của họ, tôi không sao ngủ được. Quãng 11 giờ khuya, khoác thêm chiếc áo ấm, tôi lững thững tản bộ dọc bến Tây Tử.
Bến vắng. Những ngọn đèn ẩn nơi mép nước rọi ánh sáng mạnh lên ngàn cây liễu thướt tha cao vút quanh hồ, tạo ra cả một chân trời mầu ngọc bích. Bên cái chân trời ngọc bích ấy là trời đêm mênh mông, loáng thoáng mấy vì sao. Trăng thu lên cao, tròn vành vạnh. Gió thu, sương thu, trăng thu và ánh sáng từ những cây liễu hắt xuống, làm cho mặt hồ càng thêm huyền ảo. Những con thuyền đã tắt hết đèn neo trên bến. Những "trạo nhi" - người chèo thuyền - chắc đã yên giấc ở nhà họ từ lâụ Chầm chậm tôi đi.
Đến chỗ ngoặt, vừa vòng qua một hòn giả sơn có trồng trúc và phù dung, chợt thấy một người con gái thướt tha như liễu bên mé nước, tay cầm chiếc đèn lồng nhỏ, lễ phép cúi chào và nói:
- Theo lời ước ban chiều, nay xin tới đón!
- Ước ư? - kinh ngạc, tôi hỏi lạị
Nàng đưa tôi một tờ giấy và bảo:
- Cái này chưa phải một lời ước sao?
Tôi cầm tờ giấy, soi vào đèn lồng của nàng. Trên tờ giấy là bài thơ ngắn "Gửi Tây Thi". Bài thơ như sau:
Lầu Tây Tử ta tìm người trong sách
Giai nhân xưa cười nói ở đâu nào?
Bến Tây Tử bao lần đưa đón khách
Ta là ai trong chán vạn phong lưu?
Ước gì gặp kẻ khuynh thành ấy
Xem người xưa giờ khác bao nhiêu?
Thì đây chính là nét chữ của tôi, tờ giấy của tôi, bài thơ của tôi! Ban chiều, tôi cũng vơ vẩn bên hồ, rồi đem thả chính tờ giấy này, xuống đúng chỗ này. Sung sướng và sợ hãi, tôi bật hỏi:
- Tây Tử! Nàng đấy ư? Lại thế được ư?
Nàng chưa trả lời mà cười và đọc một bài từ:
Trường Giang (hề) cuồn cuộn chảy về đông
Sóng vùi dập (hề) hết anh hùng
Được, thua, phải, trái (hề) thoắt thành không
Non xanh (hề) nguyên vẻ cũ
Mấy độ (hề) bóng tà hồng!
Khách thơ (hề) xin mời lên thuyền liễu
Một bầu rượu (hề) vui vẻ tương phùng
Xưa nay (hề) bao nhiêu việc
Phó mặc (hề) nói cười không.
Đọc rồi, nàng quay ra mặt hồ, cầm chiếc đèn lồng huơ lên ba vòng. Tự nhiên thấy một con thuyền liễu, mui bằng cỏ lau, rẽ nước cập bến, không một tiếng động. Đứng ở cuối thuyền là một người đàn ông cao lớn đội nón dứa, mặc quần áo vải thô, đi dép cỏ. Nàng nhìn tôi và bảo:
- Con thuyền này chờ khách đã lâu rồi!
Tôi trỏ người đàn ông trên thuyền:
- Kia là...
- Bạn thiếp. Như người đời vẫn nói. Đó là Phạm tướng quân.
- Là Phạm Lãi ư?
Người đàn ông bỏ nón, cung kính vái chào theo kiểu ngày xưa, thay cho việc trả lời.... thong thả sẽ tiếp ...( ST )