Lâm Đệ
21-07-2011, 11:02 AM
Thân tặng nghệ sĩ Tranbinh
SỞ TỪ
【卜居】
屈原既放,三年不得復見,竭知盡忠,而蔽鄣於讒,心煩意亂,不知所從。 乃往見太卜鄭詹尹曰:
-”余有所疑,原因先生決之。”詹尹乃端策拂龜曰:
-”君 將何以教之?”
屈原曰:
-”吾寧悃悃款款,朴以忠乎? 將送往勞來,斯無窮乎? 寧誅鋤草茅,以力耕乎? 將游大人,以成名乎? 寧正言不諱,以危身乎? 將從俗富貴,以媮生乎? 寧超然高舉,以保真乎? 將哫訾栗斯,喔咿嚅兒,以事婦人乎? 寧廉潔正直,以自清乎? 將突梯滑稽,如脂如韋,以潔楹乎? 寧昂昂若千裡之駒乎? 將氾氾若水中之鳧乎? 與波上下,偷以全吾軀乎? 寧與騏驥亢軛乎?將隨駑馬之跡乎? 寧與黃鵠比翼乎?將興雞鹜爭食乎? 此孰吉孰凶?何去何從?
世溷濁而不清: 蟬翼為重,千鈞為輕﹔黃鐘毀棄,瓦釜雷鳴﹔ 讒人高張,賢士無名。 吁嗟默默兮,誰知吾之廉貞?”
詹尹乃釋策而謝曰:
-”夫尺有所短,寸有所長,物有所不足,智有所不明, 數有所不逮,神有所不通,用君之心,行君之意。龜策誠不能知事。”
Bốc cư
Khuất Nguyên bị đuổi bỏ, ba năm không được gặp lại vua, tận trí tận trung mà bị lời gièm pha che lấp, lòng phiền, ý loạn, không biết nên ra ra sao, mới lại thăm quan thái bốc Trịnh Thiềm Doãn, nói:
- Tôi có điều nghi, xin tiên sinh quyết cho.
Thiềm Doãn sủa ngay lại cỏ thi, phủi mai rùa, hỏi:
- Ông muốn dạy tôi việc gì?
Khuất Nguyên đáp:
- Tôi nên khẩn khẩn, khoản khoản, thành thực để hết lòng trung chăng? Hay nên đưa đón theo đời để khỏi khốn cùng? Nên bừa giẫy cỏ lau để hết sức làm ruộng chăng? Hay nên giao du với kẻ sang để cầu danh? Nên nói thẳng chẳng kiêng nể gì để nguy thân chăng? Hay nên theo thói tục, cầu giàu sang để sống cẩu thả? Nên siêu nhiên xuất thế để giữ thiên chân chăng? Hay nên nịnh hót, khúm núm, xun xoe, gượng nói gượng cười để hầu hạ đàn bà? Nên liêm khiết, chính trực để được trong sạch chăng? Hay nên tròn trĩnh, trơn tru như mỡ, như da để được như cái cột bóng? Nên ngang tàng như con ngựa thiên lý chăng? Hay nên lênh đênh như con vịt ở trên mặt nước cùng nhấp nhô với sóng để bảo toàn lấy thân? Nên chạy đua với loài ngựa hèn? Nên cùng bay với loài chim hoàng hộc chăng? Hay nên cùng tranh ăn với gà vịt? Đường nào cát, đường nào hung? Bỏ đường nào, theo đường nào? Đời hỗn trọc mà không thanh thì cánh con ve là nặng mà nghìn cân là nhẹ; chuông vàng thì bỏ nát còn nồi đất thì kêu vang; kẻ gièm pha thì lên chân, người hiền sĩ thì vô danh. Than ôi! Biết nói gì đây? Ai biết ta là trong sạch?
Thiềm Doãn đặt cỏ thi xuống mà tạ rằng:
- Thước có khi ngắn, mà tấc có khi dài; vật có chỗ không đủ mà trí có chỗ không sách; số có chỗ đoán không tới mà thần có chỗ không thông. Ông cứ theo lòng ông mà làm đúng ý ông. Cỏ thi và mai rùa thật không biết được việc ấy.
Nguyễn Hiến Lê dịch
http://www.hoasontrang.us/trungvan/wp-content/uploads/2007/11/khuatnguyen1.jpg
Ngư phủ
Khuất Nguyên đã bị đuổi bỏ, thơ thẩn ở bên bờ sông bờ đầm, vừa đi vừa hát ở bên chằm, nhan sắc tiều tụy, hình dung khô héo. Có ông lão đánh cá trông thấy, hỏi:
- Ông phải là Tam lư đại phu đấy chăng? SAo mà đến nỗi thế?
Khuất Nguyên đáp:
- Thiên hạ đều đục, một mình ta trong, thiên hạ đều say, một mình ta tỉnh, cho nên bị đuổi bỏ.
Ông lão đánh cá nói:
- Thánh nhân không câu nệ việc gì mà biết tùy thời thay đổi. Người đời đều đục thì sao không khuấy thêm bùn, đập thêm sóng cho đục một thể? Thiên hạ đều say thì sao không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải nghĩ sâu, làm khác người để bị đuổi bỏ?
Khuất Nguyên đáp;
- Tôi nghe nói, mới gội đầu tất chải mũ, mới tắm xong tất thay áo; có đâu đem cái thân trong sạch mà chịu vật nhơ nhớp được? Thà nhảy xuống sông Tương, vùi thân trong bụng cá, chứ sao đang trắng lôm lốp mà chịu vấy bụi cát của thế tục?
Ông lão đánh cá nghe xong, mỉm cười, gõ giầm hát rằng:
“Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước đục chảy ra,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân“.
Hát xong, đi thẳng, không thêm một
Bài nầy là truyền thuyết do người nước Sở ghi lại để tưởng nhớ Khuất Nguyên sau khi ông đã qua đời. Nhân vật Khuất Nguyên (340-278 trước CN) là tác giả chính của những bài “Sở từ” nổi tiếng. Ông tên thật là Bình, người trong hoàng tộc nước Sở, học rộng, nhiều tài, nhưng bị vua ghét bỏ vì nghe lời gièm pha của kẻ xấu, buồn bã mới viết ra thiên “Ly tao” để bộc bạch nỗi lòng, sau ôm một phiến đá nhảy xuống sông Mịch La tự vận. Còn “Sở từ” là một hình thức ca dao mới được Khuất Nguyên và một số người khác làm ra trong khoảng thế kỷ thứ III, IV trước CN trên cơ sở gia công, sáng tạo và phát triển từ những ca dao dân gian đương thời; có thể coi Sở từ là một loại văn xuôi có vần, đến đời Hán mới được tập hợp chung lại thành tập sách.(st)
SỞ TỪ
【卜居】
屈原既放,三年不得復見,竭知盡忠,而蔽鄣於讒,心煩意亂,不知所從。 乃往見太卜鄭詹尹曰:
-”余有所疑,原因先生決之。”詹尹乃端策拂龜曰:
-”君 將何以教之?”
屈原曰:
-”吾寧悃悃款款,朴以忠乎? 將送往勞來,斯無窮乎? 寧誅鋤草茅,以力耕乎? 將游大人,以成名乎? 寧正言不諱,以危身乎? 將從俗富貴,以媮生乎? 寧超然高舉,以保真乎? 將哫訾栗斯,喔咿嚅兒,以事婦人乎? 寧廉潔正直,以自清乎? 將突梯滑稽,如脂如韋,以潔楹乎? 寧昂昂若千裡之駒乎? 將氾氾若水中之鳧乎? 與波上下,偷以全吾軀乎? 寧與騏驥亢軛乎?將隨駑馬之跡乎? 寧與黃鵠比翼乎?將興雞鹜爭食乎? 此孰吉孰凶?何去何從?
世溷濁而不清: 蟬翼為重,千鈞為輕﹔黃鐘毀棄,瓦釜雷鳴﹔ 讒人高張,賢士無名。 吁嗟默默兮,誰知吾之廉貞?”
詹尹乃釋策而謝曰:
-”夫尺有所短,寸有所長,物有所不足,智有所不明, 數有所不逮,神有所不通,用君之心,行君之意。龜策誠不能知事。”
Bốc cư
Khuất Nguyên bị đuổi bỏ, ba năm không được gặp lại vua, tận trí tận trung mà bị lời gièm pha che lấp, lòng phiền, ý loạn, không biết nên ra ra sao, mới lại thăm quan thái bốc Trịnh Thiềm Doãn, nói:
- Tôi có điều nghi, xin tiên sinh quyết cho.
Thiềm Doãn sủa ngay lại cỏ thi, phủi mai rùa, hỏi:
- Ông muốn dạy tôi việc gì?
Khuất Nguyên đáp:
- Tôi nên khẩn khẩn, khoản khoản, thành thực để hết lòng trung chăng? Hay nên đưa đón theo đời để khỏi khốn cùng? Nên bừa giẫy cỏ lau để hết sức làm ruộng chăng? Hay nên giao du với kẻ sang để cầu danh? Nên nói thẳng chẳng kiêng nể gì để nguy thân chăng? Hay nên theo thói tục, cầu giàu sang để sống cẩu thả? Nên siêu nhiên xuất thế để giữ thiên chân chăng? Hay nên nịnh hót, khúm núm, xun xoe, gượng nói gượng cười để hầu hạ đàn bà? Nên liêm khiết, chính trực để được trong sạch chăng? Hay nên tròn trĩnh, trơn tru như mỡ, như da để được như cái cột bóng? Nên ngang tàng như con ngựa thiên lý chăng? Hay nên lênh đênh như con vịt ở trên mặt nước cùng nhấp nhô với sóng để bảo toàn lấy thân? Nên chạy đua với loài ngựa hèn? Nên cùng bay với loài chim hoàng hộc chăng? Hay nên cùng tranh ăn với gà vịt? Đường nào cát, đường nào hung? Bỏ đường nào, theo đường nào? Đời hỗn trọc mà không thanh thì cánh con ve là nặng mà nghìn cân là nhẹ; chuông vàng thì bỏ nát còn nồi đất thì kêu vang; kẻ gièm pha thì lên chân, người hiền sĩ thì vô danh. Than ôi! Biết nói gì đây? Ai biết ta là trong sạch?
Thiềm Doãn đặt cỏ thi xuống mà tạ rằng:
- Thước có khi ngắn, mà tấc có khi dài; vật có chỗ không đủ mà trí có chỗ không sách; số có chỗ đoán không tới mà thần có chỗ không thông. Ông cứ theo lòng ông mà làm đúng ý ông. Cỏ thi và mai rùa thật không biết được việc ấy.
Nguyễn Hiến Lê dịch
http://www.hoasontrang.us/trungvan/wp-content/uploads/2007/11/khuatnguyen1.jpg
Ngư phủ
Khuất Nguyên đã bị đuổi bỏ, thơ thẩn ở bên bờ sông bờ đầm, vừa đi vừa hát ở bên chằm, nhan sắc tiều tụy, hình dung khô héo. Có ông lão đánh cá trông thấy, hỏi:
- Ông phải là Tam lư đại phu đấy chăng? SAo mà đến nỗi thế?
Khuất Nguyên đáp:
- Thiên hạ đều đục, một mình ta trong, thiên hạ đều say, một mình ta tỉnh, cho nên bị đuổi bỏ.
Ông lão đánh cá nói:
- Thánh nhân không câu nệ việc gì mà biết tùy thời thay đổi. Người đời đều đục thì sao không khuấy thêm bùn, đập thêm sóng cho đục một thể? Thiên hạ đều say thì sao không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải nghĩ sâu, làm khác người để bị đuổi bỏ?
Khuất Nguyên đáp;
- Tôi nghe nói, mới gội đầu tất chải mũ, mới tắm xong tất thay áo; có đâu đem cái thân trong sạch mà chịu vật nhơ nhớp được? Thà nhảy xuống sông Tương, vùi thân trong bụng cá, chứ sao đang trắng lôm lốp mà chịu vấy bụi cát của thế tục?
Ông lão đánh cá nghe xong, mỉm cười, gõ giầm hát rằng:
“Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước đục chảy ra,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân“.
Hát xong, đi thẳng, không thêm một
Bài nầy là truyền thuyết do người nước Sở ghi lại để tưởng nhớ Khuất Nguyên sau khi ông đã qua đời. Nhân vật Khuất Nguyên (340-278 trước CN) là tác giả chính của những bài “Sở từ” nổi tiếng. Ông tên thật là Bình, người trong hoàng tộc nước Sở, học rộng, nhiều tài, nhưng bị vua ghét bỏ vì nghe lời gièm pha của kẻ xấu, buồn bã mới viết ra thiên “Ly tao” để bộc bạch nỗi lòng, sau ôm một phiến đá nhảy xuống sông Mịch La tự vận. Còn “Sở từ” là một hình thức ca dao mới được Khuất Nguyên và một số người khác làm ra trong khoảng thế kỷ thứ III, IV trước CN trên cơ sở gia công, sáng tạo và phát triển từ những ca dao dân gian đương thời; có thể coi Sở từ là một loại văn xuôi có vần, đến đời Hán mới được tập hợp chung lại thành tập sách.(st)