Lâm Đệ
07-08-2011, 05:28 AM
Thân tặng ông chủ(đã chết ) Quán cà phê Nhân đuờng Lý thái Tổ Sài Gòn
http://farm4.static.flickr.com/3567/3324725380_f1d7625a38.jpg
“Ở chợ Dầu có hàng cà-phê… có một cô nàng bé bé xinh xinh”, Đấy là lời mở đầu bài hát “Cô hàng cà phê” của nhạc sĩ Canh Thân, sáng tác từ lâu lắm rồi, song không những nhiều người vẫn thuộc, mà một số các vị cao niên khi nghe lại có thể vẫn thấy phảng phất vài hình ảnh kỷ niệm… ở chợ Dầu!
Chợ Dầu thời đó, cái thuở nằm trong khu kháng chiến, chưa thuộc vùng tề, không khí sinh hoạt giống như chợ Vân Đình, chợ Đại, Cống Thần thuộc tỉnh Hà Đông, ngày ngày còn sợ máy bay Pháp oanh tạc, nhưng người ta, nhất là trai thanh gái lịch, vẫn qua lại, ra vào, ăn uống nhởn nhơ, mải mê mua bán hàng ngoại, như vải vóc, đồng hồ, bút máy, bật lửa… Hàng cà phê lúc ấy là một dịch vụ thương mại hiếm hoi, văn nghệ, mới mẻ, luôn luôn hấp dẫn “mấy anh nho nhỏ thường hay đến ngồi cười với cô”.
Lối húp cà phê đổ ra đĩa cho bớt nóng thì không đáng nói rồi. Đến như gọi ly cà phê để trước mặt, kiểu cách, mà mục đích chỉ là ngồi nghe nhạc khi tới Hầm Gió đường Võ Tánh hay Đêm Mầu Hồng ở đại lộ Nguyễn Huệ… cũng chẳng phải để thưởng thức cà phê hoàn toàn. Thưởng thức cà phê đòi hỏi không khí yên tĩnh, thanh thản, chọn lựa… Như thế, muốn cho đúng “gu”, muốn đã nghiền, phải lần mò tới những nơi chỉ lấy cà phê làm mục đích hoạt động chính của chủ nhân may ra mới có thể kể là người sành điệu.
Trước năm 1954 Hà Nội có cà phê Nhân là một trong hai tiệm nổi tiếng nhất. Nó nằm ở ngõ Bảo Khánh, gần phố Cầu Gỗ, trông sang quán giải khát Mụ Béo bên hồ Hoàn Kiếm, mà thỉnh thoảng tôi được hân hạnh theo ra đó, bố tôi thì kêu ấm trà Tầu trầm ngâm. Độc ẩm. Tôi thì chẳng chọn lựa, lần nào cũng vậy, được gọi cho ly nước đá chanh… lặng lẽ, thờ ơ, một mình, lâu lâu nghe tiếng leng keng của tầu điện di chuyển lên xuống từ phố Huế tới chợ Đồng Xuân, ngó chung quanh toàn là người lớn, bàn ghế, tranh ảnh, đồ đạc hơi cổ, thế mà cũng nhớ mãi và thấy rất hãnh diện.
Sau này vào nam những lần có bạn thân tới chơi, chúng tôi, làm như người lớn, hay kéo nhau ra đường Lý Thái Tổ gần nhà, tìm được một nơi khá lý tưởng, đó là tiệm cà phê Nhân, mỗi thằng làm cái “phin” đặc biệt, cà phê cứt chồn Ban Mê Thuột, tha hồ nói chuyện bù khú, tự do.
Quãng đường Lý Thái Tổ từ Nguyễn Tri-Phương tới Ngã Bẩy ngắn thôi, mặt hè lồi lõm nhiều chỗ chưa trải xi măng, ngoài mấy cửa hiệu bầy bán tràn lan cả rừng xe đạp, còn lại rất nhiều quán hàng, sạp bán vé số, xe bánh mì thịt nguội, nước mía… Ai không thích phở Tầu Bay, phở Tầu Thủy, xin ghé cơm tấm bì thịt nướng. Ăn chơi phải tùy theo thời gian sớm chiều, có bánh cam, đậu phộng luộc, bắp nướng, bò viên. Ai muốn thay đổi, bồi dưỡng thì băng qua bên đường vào gọi càri dê, dê hầm thuốc bắc, hủ tíu ngầu pín; quán hủ tíu ngầu pín của chú Ba rất hẹp, nhưng thực khách đông thật là đông
Chúng tôi tới khu phố này rất nhiều lần, nhưng phần lớn chỉ để vào tiệm cà phê Nhân, nhâm nhi cái café au lait, cầm điếu thuốc Ruby, rì rầm, to nhỏ, nhìn phố phường như kẻ bàng quan hờ hững.
Tiệm cà phê Nhân ở Sài Gòn tương đối sáng sủa và sạch sẽ, nằm trên trục giao thông của xe bus từ trường đua Phú Thọ tới chợ Bến Thành, giữa chốn quan chiêm tấp nập, chẳng bài trí sang trọng đèn xanh đèn đỏ, cũng không rộng lắm, bốn năm cái bàn gỗ kê song song hai bên tường, ghế đẩu cũng bằng gỗ, bây giờ hàng quán bình dân ở Sài Gòn vẫn dùng ghế đẩu nhưng là nhựa, thấp hơn, bền và tiện hơn, ngăn cách phía trong là một tủ kính chừa lối ra vô, không khí ấm cúng, quang cảnh mộc mạc, một lúc có thể tiếp khoảng hai chục khách là tối đa, giá cả phải chăng, đồ ăn thức uống hấp dẫn.
Phần lớn mấy quán cà phê đều phục vụ cả khách hàng muốn uống trà Tầu, hàng cà phê ở chợ Dầu xưa kia cũng vậy. Nay vì miền Nam khí hậu nóng bức, mục trà Tầu chẳng được ai hoan nghênh nên đã bị loại bỏ, mấy bộ ấm chén nhỏ xíu mầu da lươn nằm im lìm trong tủ kính chỉ để làm cảnh, bù lại tiệm cà phê Nhân đã khai thác thêm bánh cuốn điểm tâm, bánh đậu xanh, bánh gai, thuốc lá… làm khách hàng tới đây có thêm nhu cầu được phục vụ thoải mái, và, quan trọng là không cảm thấy phải vội vàng, đóng chốt bao lâu chủ nhân cũng chẳng để ý, vì có bao giờ tiệm hết chỗ ngồi đâu! Tuy nhiên vào những buổi trưa oi ả, đôi khi có luồng gió thổi từ phía chợ cá trước mặt ùa sang cũng làm khó chịu bởi “cái mùi nồng mặn ấy”.
Làm ngụm cà phê, rít hơi Cotab, bóc phong bánh đậu xanh Bảo Hiên, mấy cử chỉ này “đi” với nhau nhịp nhàng rất hợp, rất gần gụi, không giống như khi dùng trà. Uống trà là một nghệ thuật cao hơn, thanh nhã hơn, trịnh trọng hơn, thậm chí còn phải biết cách pha, cách uống nên nó đã được nhiều người nâng thành Đạo. Trà Đạo. Chả hiểu phải vậy không, ông Lưu Văn Vịnh đã viết trong cuốn Bốn lần leo núi Tản: “Uống trà giống như nắm tay Thúy Vân, mà uống cà phê như nằm ngủ với Thúy Kiều.” Sự ví von này gợi ra những hình ảnh thật lãng mạn, trữ tình.
Chúng tôi kéo nhau tới đóng vai khách hàng thường xuyên của tiệm cà phê Nhân nhiều năm tháng nắng mưa, nhẵn mặt, từ lúc còn ở trung học đi xe đạp cho tới khi sinh viên
“Lâu quá, không thấy ghé, lại tưởng là...” Ông chủ tiệm thường “chào” tôi một câu bỏ lửng như vậy
Một lần tôi hỏi, phải đây là tiệm cà phê từ Hà Nội “di cư” vào chăng, thì được trả lời: Không hẳn vậy, hai bên chỉ là họ hàng với nhau. Ông chủ ở Sài Gòn dáng cao lớn, khoảng hơn bẩy chục, nhưng trông còn khỏe mạnh, lúc nào cũng tươi cười, vui vẻ, thẳng thắn. Là một cựu sĩ quan Tây, có thời gian phục vụ bên Tầu, nay về hưu ở Sài Gòn, mở tiệm, hoạt động cho bớt thì giờ nhàm chán, đã mượn đỡ cái tên hiệu của người nhà để mời gọi thêm khách Bắc kỳ cũ.
Sau này, theo chỗ tôi biết thì tiệm cà phê Nhân ở Hà Nội vẫn còn đó, vẫn được khách hàng chiếu cố nồng nhiệt, bây giờ càng ngày càng sầm uất với đèn ống neon nhấp nháy ngoài mặt tiền, tranh của họa sĩ nổi tiếng trang trí nội thất, lầu một, lầu hai bầy biện sang trọng, tiếp viên qua lại phục vụ nhộn nhịp. Sự phát đạt về kinh tế là điều đáng mừng chẳng những cho gia đình mà gián tiếp cho cả xã hội, nhưng, trường hợp này đối với khách nghiền cà phê, quang cảnh mới có làm hơi ngơ ngác một chút, vì nó đã mất hẳn cái không khí bình thản, mộc mạc, ấm cúng, giản dị, yên lặng quen thuộc xưa.
Tiệm cà phê Nhân Sài Gòn không “tiến nhanh, tiến mạnh” như đồng nghiệp cùng tên ở Hà Nội, lúc nào nó cũng bình bình, bơ bơ, giống cuộc sống không bon chen của người ưa thả nổi, an phận, nhỏ bé, bình thường. Tuy nhiên vì cuộc sống, nên nó cũng cần giữ những căn bản của người mua kẻ bán. Còn nhớ lúc đầu có lần bị tính tiền nhiều hơn giá biểu trên bảng thực đơn chút xíu, chưa kịp hỏi ra sao, thì đã được ông chủ thản nhiên giải thích, đó là vì gọi thêm đường bỏ vào cà phê! Nhưng về sau, mấy lần, gọi thêm đường như thế, lại chẳng bị tính tiền, nhắc ông thì ông cười đáp, cũng thản nhiên: “Người quen, có chút đường!”
Còn một điều phải kể, được coi như “người quen” bởi không bao giờ ăn uống ghi sổ, giống như một số khách hàng, cũng quen, nhưng vì cho tiện đã tích lũy để lâu lâu cộng lại trả một lần cho đỡ mất thì giờ mà chủ nhân thường không thích bởi cần vốn và cảm thấy bất trắc.
Là học trò nghèo, tối tối kiếm thêm tiền bằng cách kèm trẻ tại tư gia, ngoài khoản mua sách báo, hớt tóc, còn thì đem tới cà phê Nhân thù tạc bạn bè, chứ có biết để làm gì đâu (!) Lại nữa, thấy cô Nga, con gái ông chủ, không tỏ ý léng phéng, mắt la mày lém, mà chỉ coi như anh em tự nhiên trong gia đình. Hồi đó tôi đang trồng cây si cô cháu thằng bạn và thằng bạn thì lại bận rộn “gò” nhỏ bạn của cháu nó, nên bọn “gà què ăn quẩn cối xay” dù sao cũng phải thủ cẳng, giữ ý lẫn nhau, ra cái điều đứng đắn, chứ thả ra thì ngây thơ bé nhỏ gì, nam nữ cỡ này nhốt chung với nhau là có chửa ngay ấy chứ lỵ, một lũ tồng ngồng cả rồi, đúng như cụ Tản Đà mô tả trong bài thơ “Nhớ chị hàng cau”:
Ai đương độ ấy lăm răm mắt,
Tớ đã ngày nay lún phún râu!
Tôi không biết ông chủ tiệm tên gì, ổng có hai người con gái. Cô Nga và bà vợ luôn túc trực giúp thu tiền, trông hàng, pha cà phê, dẹp bàn, nhưng cô gái lớn thì tuyệt đối chẳng bao giờ, cô chỉ xuất hiện khi dắt chiếc xe Velo Solex ra phố hay từ bên ngoài về nhà lướt qua nghiêm trang, lặng lẽ.
Thế rồi “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, vào khoảng tháng 10 năm 1975 tôi tình cờ gặp ông chủ tiệm cà phê Nhân ở trại tạm trú Indiantown Gap, Pennsylvania. Phong cảnh lúc này như mới vào Thu, lá cây đã vàng, người di tản buồn đối diện cái lạnh đầu tiên trên đất lạ, qua lại giữa những dãy barracks co ro với mấy chiếc áo mùa Đông cũ, lòe loẹt do hội Hồng Thập tự cung cấp. Tôi bất chợt thấy ông cũng co ro trên đường. Nhìn ông thật bất ngờ, mới đó mà sọm hẳn đi, nét mặt âu sầu, chán nản, khác hẳn hồi trước. Ông được bốc sang đây bằng máy bay Mỹ theo gia đình người con gái lớn, bà vợ và cô Nga thì vẫn ở Sài Gòn. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông bà lại quyết định theo kiểu Âu Cơ và Lạc Long Quân như thế!
Nhưng người ta, tuổi đời đã tới xế chiều, sức khỏe hao mòn dần dần đến khi không còn nữa, thì vợ chồng vẫn có hạnh phúc chứ! Hạnh phúc vợ chồng bấy giờ là gì nếu chẳng phải gần gụi để tâm sự, an ủi, nương tựa sớm khuya. Cái hạnh phúc lúc này cũng cần thiết, rất cần thiết, vì nếu không, “lấy ai là người nghe em kể chuyện thu phong”.
Nhìn ông cụ, chợt nhớ đến người bạn vẫn cùng uống cà phê thuở nào Lúc xuất trại, ông về Cali. Tôi xuống thủ đô Richmond Virginia, sau đó, dĩ nhiên tôi vẫn giữ liên lạc. Cô gái lớn đối với gia đình tôi đã thân thiện
Sau đó, tôi cũng như nhiều kẻ khác, cuộc sống lúc đầu khá vất vả. Ngày ấy tôi chưa biết Valentine’s Day, Mother’s Day là cái gì. Một hôm trên đường cuốc bộ đi làm, tới ngã tư đèn xanh đèn đỏ Monument và Kensington Ave, tôi chào người bán hoa ở vỉa hè như thường lệ, nhưng khác với thường lệ ông già da đen tươi cười trao cho tôi một cành hoa, đến chỗ làm, hỏi bạn mới biết hôm ấy là Father’s Day. Tôi quen thân với ổng từ bữa đó.
Từ bữa đó tới hôm nay, thời gian đã hơn 30 năm, biết bao nhiêu thay đổi, với thật nhiều bỡ ngỡ lúc ban sơ, tôi đến thành phố này rồi lang thang mấy tiểu bang khác làm việc bây giờ lại trở về… Và nếu tôi chẳng tình cờ bách bộ thơ thẩn ở góc vỉa hè làm sao biết và nhớ ông già da đen bán hoa năm xưa đã chết khi nhìn một phiến đá khiêm tốn, vuông vắn, im lìm nằm trên bãi cỏ như tấm mộ bia do flower vendor and friend thực hiện với hàng chữ: “He sold flowers at this corner for half a century.”
Vì vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống mới mà bẵng một thời gian tôi không biết gia đình ông cựu chủ tiệm cà phê Nhân bên Cali thế nào, cho tới một hôm đột ngột tình cờ được tin, hung tín, từ một người quen: Ông cụ đã qua đời!
Tôi âm thầm với nỗi ám ảnh qua những hình bóng cũ. Tuổi già cứ đến từ từ, “tuổi già giọt lệ như sương”. Nhớ lại, sau thời gian mỗi người một hướng, thư từ lui tới với gia đình người con ở Cali cứ nhạt dần, cứ thưa dần, chẳng biết viết gì, rồi mất địa chỉ lúc nào không hay. Bây giờ cũng chẳng thể kể lể báo tin buồn này cho ai vì thằng bạn cùng tôi từng uống cà phê trước đây đã yên nghỉ đâu đó trong lòng đất
Sự liên hệ giữa tôi và ông chủ tiệm cà phê Nhân bắt đầu khoảng cuối thập niên 50. Khi gần, lúc xa trong một xã hội thật nhiều “nỗi truân chuyên”, cho tới thời gian gặp nhau ở Pennsylvania, để rồi mỗi người mỗi ngả vĩnh viễn.Tôi chẳng dám coi ông như bằng hữu, sự quen biết qua lại chỉ nhàn nhạt, gặp gỡ bao giờ cũng mừng, cũng vui, thăm hỏi chuyện trò. Xa cách thì vẫn giữ trong bụng mấy hình ảnh, kỷ niệm này nọ, để đôi khi giữa những lần làm việc cực nhọc lại nhớ đến nhau, và như thế, hẳn chúng tôi không phải chỉ là người dưng hoàn toàn, dù chưa bao giờ mời nhau được một ly cà phê.
Tôi tiếc là chuyến về thăm nhà mới đây, tới đường Lý Thái Tổ, để ý tìm, nhưng không còn trông thấy tiệm cà phê Nhân, không định được rõ vị trí của chốn xưa từng lui tới. “Thương hải biến vi tang điền.” Bà chủ tiệm cà phê Nhân gốc người Hà Nội quý phái trôi nổi nơi đâu? Còn ở quê nhà hay đã “đoàn tụ” với người con lớn, hay đã “về” cùng người chồng mà thời cuộc làm xa cách bao năm! Ôi, “những người muôn năm cũ”.(st)
http://farm4.static.flickr.com/3567/3324725380_f1d7625a38.jpg
“Ở chợ Dầu có hàng cà-phê… có một cô nàng bé bé xinh xinh”, Đấy là lời mở đầu bài hát “Cô hàng cà phê” của nhạc sĩ Canh Thân, sáng tác từ lâu lắm rồi, song không những nhiều người vẫn thuộc, mà một số các vị cao niên khi nghe lại có thể vẫn thấy phảng phất vài hình ảnh kỷ niệm… ở chợ Dầu!
Chợ Dầu thời đó, cái thuở nằm trong khu kháng chiến, chưa thuộc vùng tề, không khí sinh hoạt giống như chợ Vân Đình, chợ Đại, Cống Thần thuộc tỉnh Hà Đông, ngày ngày còn sợ máy bay Pháp oanh tạc, nhưng người ta, nhất là trai thanh gái lịch, vẫn qua lại, ra vào, ăn uống nhởn nhơ, mải mê mua bán hàng ngoại, như vải vóc, đồng hồ, bút máy, bật lửa… Hàng cà phê lúc ấy là một dịch vụ thương mại hiếm hoi, văn nghệ, mới mẻ, luôn luôn hấp dẫn “mấy anh nho nhỏ thường hay đến ngồi cười với cô”.
Lối húp cà phê đổ ra đĩa cho bớt nóng thì không đáng nói rồi. Đến như gọi ly cà phê để trước mặt, kiểu cách, mà mục đích chỉ là ngồi nghe nhạc khi tới Hầm Gió đường Võ Tánh hay Đêm Mầu Hồng ở đại lộ Nguyễn Huệ… cũng chẳng phải để thưởng thức cà phê hoàn toàn. Thưởng thức cà phê đòi hỏi không khí yên tĩnh, thanh thản, chọn lựa… Như thế, muốn cho đúng “gu”, muốn đã nghiền, phải lần mò tới những nơi chỉ lấy cà phê làm mục đích hoạt động chính của chủ nhân may ra mới có thể kể là người sành điệu.
Trước năm 1954 Hà Nội có cà phê Nhân là một trong hai tiệm nổi tiếng nhất. Nó nằm ở ngõ Bảo Khánh, gần phố Cầu Gỗ, trông sang quán giải khát Mụ Béo bên hồ Hoàn Kiếm, mà thỉnh thoảng tôi được hân hạnh theo ra đó, bố tôi thì kêu ấm trà Tầu trầm ngâm. Độc ẩm. Tôi thì chẳng chọn lựa, lần nào cũng vậy, được gọi cho ly nước đá chanh… lặng lẽ, thờ ơ, một mình, lâu lâu nghe tiếng leng keng của tầu điện di chuyển lên xuống từ phố Huế tới chợ Đồng Xuân, ngó chung quanh toàn là người lớn, bàn ghế, tranh ảnh, đồ đạc hơi cổ, thế mà cũng nhớ mãi và thấy rất hãnh diện.
Sau này vào nam những lần có bạn thân tới chơi, chúng tôi, làm như người lớn, hay kéo nhau ra đường Lý Thái Tổ gần nhà, tìm được một nơi khá lý tưởng, đó là tiệm cà phê Nhân, mỗi thằng làm cái “phin” đặc biệt, cà phê cứt chồn Ban Mê Thuột, tha hồ nói chuyện bù khú, tự do.
Quãng đường Lý Thái Tổ từ Nguyễn Tri-Phương tới Ngã Bẩy ngắn thôi, mặt hè lồi lõm nhiều chỗ chưa trải xi măng, ngoài mấy cửa hiệu bầy bán tràn lan cả rừng xe đạp, còn lại rất nhiều quán hàng, sạp bán vé số, xe bánh mì thịt nguội, nước mía… Ai không thích phở Tầu Bay, phở Tầu Thủy, xin ghé cơm tấm bì thịt nướng. Ăn chơi phải tùy theo thời gian sớm chiều, có bánh cam, đậu phộng luộc, bắp nướng, bò viên. Ai muốn thay đổi, bồi dưỡng thì băng qua bên đường vào gọi càri dê, dê hầm thuốc bắc, hủ tíu ngầu pín; quán hủ tíu ngầu pín của chú Ba rất hẹp, nhưng thực khách đông thật là đông
Chúng tôi tới khu phố này rất nhiều lần, nhưng phần lớn chỉ để vào tiệm cà phê Nhân, nhâm nhi cái café au lait, cầm điếu thuốc Ruby, rì rầm, to nhỏ, nhìn phố phường như kẻ bàng quan hờ hững.
Tiệm cà phê Nhân ở Sài Gòn tương đối sáng sủa và sạch sẽ, nằm trên trục giao thông của xe bus từ trường đua Phú Thọ tới chợ Bến Thành, giữa chốn quan chiêm tấp nập, chẳng bài trí sang trọng đèn xanh đèn đỏ, cũng không rộng lắm, bốn năm cái bàn gỗ kê song song hai bên tường, ghế đẩu cũng bằng gỗ, bây giờ hàng quán bình dân ở Sài Gòn vẫn dùng ghế đẩu nhưng là nhựa, thấp hơn, bền và tiện hơn, ngăn cách phía trong là một tủ kính chừa lối ra vô, không khí ấm cúng, quang cảnh mộc mạc, một lúc có thể tiếp khoảng hai chục khách là tối đa, giá cả phải chăng, đồ ăn thức uống hấp dẫn.
Phần lớn mấy quán cà phê đều phục vụ cả khách hàng muốn uống trà Tầu, hàng cà phê ở chợ Dầu xưa kia cũng vậy. Nay vì miền Nam khí hậu nóng bức, mục trà Tầu chẳng được ai hoan nghênh nên đã bị loại bỏ, mấy bộ ấm chén nhỏ xíu mầu da lươn nằm im lìm trong tủ kính chỉ để làm cảnh, bù lại tiệm cà phê Nhân đã khai thác thêm bánh cuốn điểm tâm, bánh đậu xanh, bánh gai, thuốc lá… làm khách hàng tới đây có thêm nhu cầu được phục vụ thoải mái, và, quan trọng là không cảm thấy phải vội vàng, đóng chốt bao lâu chủ nhân cũng chẳng để ý, vì có bao giờ tiệm hết chỗ ngồi đâu! Tuy nhiên vào những buổi trưa oi ả, đôi khi có luồng gió thổi từ phía chợ cá trước mặt ùa sang cũng làm khó chịu bởi “cái mùi nồng mặn ấy”.
Làm ngụm cà phê, rít hơi Cotab, bóc phong bánh đậu xanh Bảo Hiên, mấy cử chỉ này “đi” với nhau nhịp nhàng rất hợp, rất gần gụi, không giống như khi dùng trà. Uống trà là một nghệ thuật cao hơn, thanh nhã hơn, trịnh trọng hơn, thậm chí còn phải biết cách pha, cách uống nên nó đã được nhiều người nâng thành Đạo. Trà Đạo. Chả hiểu phải vậy không, ông Lưu Văn Vịnh đã viết trong cuốn Bốn lần leo núi Tản: “Uống trà giống như nắm tay Thúy Vân, mà uống cà phê như nằm ngủ với Thúy Kiều.” Sự ví von này gợi ra những hình ảnh thật lãng mạn, trữ tình.
Chúng tôi kéo nhau tới đóng vai khách hàng thường xuyên của tiệm cà phê Nhân nhiều năm tháng nắng mưa, nhẵn mặt, từ lúc còn ở trung học đi xe đạp cho tới khi sinh viên
“Lâu quá, không thấy ghé, lại tưởng là...” Ông chủ tiệm thường “chào” tôi một câu bỏ lửng như vậy
Một lần tôi hỏi, phải đây là tiệm cà phê từ Hà Nội “di cư” vào chăng, thì được trả lời: Không hẳn vậy, hai bên chỉ là họ hàng với nhau. Ông chủ ở Sài Gòn dáng cao lớn, khoảng hơn bẩy chục, nhưng trông còn khỏe mạnh, lúc nào cũng tươi cười, vui vẻ, thẳng thắn. Là một cựu sĩ quan Tây, có thời gian phục vụ bên Tầu, nay về hưu ở Sài Gòn, mở tiệm, hoạt động cho bớt thì giờ nhàm chán, đã mượn đỡ cái tên hiệu của người nhà để mời gọi thêm khách Bắc kỳ cũ.
Sau này, theo chỗ tôi biết thì tiệm cà phê Nhân ở Hà Nội vẫn còn đó, vẫn được khách hàng chiếu cố nồng nhiệt, bây giờ càng ngày càng sầm uất với đèn ống neon nhấp nháy ngoài mặt tiền, tranh của họa sĩ nổi tiếng trang trí nội thất, lầu một, lầu hai bầy biện sang trọng, tiếp viên qua lại phục vụ nhộn nhịp. Sự phát đạt về kinh tế là điều đáng mừng chẳng những cho gia đình mà gián tiếp cho cả xã hội, nhưng, trường hợp này đối với khách nghiền cà phê, quang cảnh mới có làm hơi ngơ ngác một chút, vì nó đã mất hẳn cái không khí bình thản, mộc mạc, ấm cúng, giản dị, yên lặng quen thuộc xưa.
Tiệm cà phê Nhân Sài Gòn không “tiến nhanh, tiến mạnh” như đồng nghiệp cùng tên ở Hà Nội, lúc nào nó cũng bình bình, bơ bơ, giống cuộc sống không bon chen của người ưa thả nổi, an phận, nhỏ bé, bình thường. Tuy nhiên vì cuộc sống, nên nó cũng cần giữ những căn bản của người mua kẻ bán. Còn nhớ lúc đầu có lần bị tính tiền nhiều hơn giá biểu trên bảng thực đơn chút xíu, chưa kịp hỏi ra sao, thì đã được ông chủ thản nhiên giải thích, đó là vì gọi thêm đường bỏ vào cà phê! Nhưng về sau, mấy lần, gọi thêm đường như thế, lại chẳng bị tính tiền, nhắc ông thì ông cười đáp, cũng thản nhiên: “Người quen, có chút đường!”
Còn một điều phải kể, được coi như “người quen” bởi không bao giờ ăn uống ghi sổ, giống như một số khách hàng, cũng quen, nhưng vì cho tiện đã tích lũy để lâu lâu cộng lại trả một lần cho đỡ mất thì giờ mà chủ nhân thường không thích bởi cần vốn và cảm thấy bất trắc.
Là học trò nghèo, tối tối kiếm thêm tiền bằng cách kèm trẻ tại tư gia, ngoài khoản mua sách báo, hớt tóc, còn thì đem tới cà phê Nhân thù tạc bạn bè, chứ có biết để làm gì đâu (!) Lại nữa, thấy cô Nga, con gái ông chủ, không tỏ ý léng phéng, mắt la mày lém, mà chỉ coi như anh em tự nhiên trong gia đình. Hồi đó tôi đang trồng cây si cô cháu thằng bạn và thằng bạn thì lại bận rộn “gò” nhỏ bạn của cháu nó, nên bọn “gà què ăn quẩn cối xay” dù sao cũng phải thủ cẳng, giữ ý lẫn nhau, ra cái điều đứng đắn, chứ thả ra thì ngây thơ bé nhỏ gì, nam nữ cỡ này nhốt chung với nhau là có chửa ngay ấy chứ lỵ, một lũ tồng ngồng cả rồi, đúng như cụ Tản Đà mô tả trong bài thơ “Nhớ chị hàng cau”:
Ai đương độ ấy lăm răm mắt,
Tớ đã ngày nay lún phún râu!
Tôi không biết ông chủ tiệm tên gì, ổng có hai người con gái. Cô Nga và bà vợ luôn túc trực giúp thu tiền, trông hàng, pha cà phê, dẹp bàn, nhưng cô gái lớn thì tuyệt đối chẳng bao giờ, cô chỉ xuất hiện khi dắt chiếc xe Velo Solex ra phố hay từ bên ngoài về nhà lướt qua nghiêm trang, lặng lẽ.
Thế rồi “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, vào khoảng tháng 10 năm 1975 tôi tình cờ gặp ông chủ tiệm cà phê Nhân ở trại tạm trú Indiantown Gap, Pennsylvania. Phong cảnh lúc này như mới vào Thu, lá cây đã vàng, người di tản buồn đối diện cái lạnh đầu tiên trên đất lạ, qua lại giữa những dãy barracks co ro với mấy chiếc áo mùa Đông cũ, lòe loẹt do hội Hồng Thập tự cung cấp. Tôi bất chợt thấy ông cũng co ro trên đường. Nhìn ông thật bất ngờ, mới đó mà sọm hẳn đi, nét mặt âu sầu, chán nản, khác hẳn hồi trước. Ông được bốc sang đây bằng máy bay Mỹ theo gia đình người con gái lớn, bà vợ và cô Nga thì vẫn ở Sài Gòn. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông bà lại quyết định theo kiểu Âu Cơ và Lạc Long Quân như thế!
Nhưng người ta, tuổi đời đã tới xế chiều, sức khỏe hao mòn dần dần đến khi không còn nữa, thì vợ chồng vẫn có hạnh phúc chứ! Hạnh phúc vợ chồng bấy giờ là gì nếu chẳng phải gần gụi để tâm sự, an ủi, nương tựa sớm khuya. Cái hạnh phúc lúc này cũng cần thiết, rất cần thiết, vì nếu không, “lấy ai là người nghe em kể chuyện thu phong”.
Nhìn ông cụ, chợt nhớ đến người bạn vẫn cùng uống cà phê thuở nào Lúc xuất trại, ông về Cali. Tôi xuống thủ đô Richmond Virginia, sau đó, dĩ nhiên tôi vẫn giữ liên lạc. Cô gái lớn đối với gia đình tôi đã thân thiện
Sau đó, tôi cũng như nhiều kẻ khác, cuộc sống lúc đầu khá vất vả. Ngày ấy tôi chưa biết Valentine’s Day, Mother’s Day là cái gì. Một hôm trên đường cuốc bộ đi làm, tới ngã tư đèn xanh đèn đỏ Monument và Kensington Ave, tôi chào người bán hoa ở vỉa hè như thường lệ, nhưng khác với thường lệ ông già da đen tươi cười trao cho tôi một cành hoa, đến chỗ làm, hỏi bạn mới biết hôm ấy là Father’s Day. Tôi quen thân với ổng từ bữa đó.
Từ bữa đó tới hôm nay, thời gian đã hơn 30 năm, biết bao nhiêu thay đổi, với thật nhiều bỡ ngỡ lúc ban sơ, tôi đến thành phố này rồi lang thang mấy tiểu bang khác làm việc bây giờ lại trở về… Và nếu tôi chẳng tình cờ bách bộ thơ thẩn ở góc vỉa hè làm sao biết và nhớ ông già da đen bán hoa năm xưa đã chết khi nhìn một phiến đá khiêm tốn, vuông vắn, im lìm nằm trên bãi cỏ như tấm mộ bia do flower vendor and friend thực hiện với hàng chữ: “He sold flowers at this corner for half a century.”
Vì vật lộn với những khó khăn trong cuộc sống mới mà bẵng một thời gian tôi không biết gia đình ông cựu chủ tiệm cà phê Nhân bên Cali thế nào, cho tới một hôm đột ngột tình cờ được tin, hung tín, từ một người quen: Ông cụ đã qua đời!
Tôi âm thầm với nỗi ám ảnh qua những hình bóng cũ. Tuổi già cứ đến từ từ, “tuổi già giọt lệ như sương”. Nhớ lại, sau thời gian mỗi người một hướng, thư từ lui tới với gia đình người con ở Cali cứ nhạt dần, cứ thưa dần, chẳng biết viết gì, rồi mất địa chỉ lúc nào không hay. Bây giờ cũng chẳng thể kể lể báo tin buồn này cho ai vì thằng bạn cùng tôi từng uống cà phê trước đây đã yên nghỉ đâu đó trong lòng đất
Sự liên hệ giữa tôi và ông chủ tiệm cà phê Nhân bắt đầu khoảng cuối thập niên 50. Khi gần, lúc xa trong một xã hội thật nhiều “nỗi truân chuyên”, cho tới thời gian gặp nhau ở Pennsylvania, để rồi mỗi người mỗi ngả vĩnh viễn.Tôi chẳng dám coi ông như bằng hữu, sự quen biết qua lại chỉ nhàn nhạt, gặp gỡ bao giờ cũng mừng, cũng vui, thăm hỏi chuyện trò. Xa cách thì vẫn giữ trong bụng mấy hình ảnh, kỷ niệm này nọ, để đôi khi giữa những lần làm việc cực nhọc lại nhớ đến nhau, và như thế, hẳn chúng tôi không phải chỉ là người dưng hoàn toàn, dù chưa bao giờ mời nhau được một ly cà phê.
Tôi tiếc là chuyến về thăm nhà mới đây, tới đường Lý Thái Tổ, để ý tìm, nhưng không còn trông thấy tiệm cà phê Nhân, không định được rõ vị trí của chốn xưa từng lui tới. “Thương hải biến vi tang điền.” Bà chủ tiệm cà phê Nhân gốc người Hà Nội quý phái trôi nổi nơi đâu? Còn ở quê nhà hay đã “đoàn tụ” với người con lớn, hay đã “về” cùng người chồng mà thời cuộc làm xa cách bao năm! Ôi, “những người muôn năm cũ”.(st)