PDA

View Full Version : Những Thắng Cảnh Tâm Linh..



hung vi
09-10-2011, 03:18 PM
Ngôi Chùa Bà Trên Đất Thăng Long

http://nd3.upanh.com/b6.s11.d1/394e5a645c389a6900471884e41c475a_36289893.cd710chuabango.jpg

Chùa Bà Đá, Bà Ngô, Bà Tấm... mỗi chùa có một tích riêng và ít nhiều gắn với một người phụ nữ hoặc một sự kiện đáng nhớ trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
.
Chùa Bà Ngô

Chùa Bà Ngô còn gọi là chùa Ngọc Hồ, nằm ở số 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu. Tương truyền, vào đời nhà Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Tên Ngọc Hồ thì dựa theo phép phong thủy bởi người ta cho rằng thế đất của chùa trông giống như một cái hồ rượu.
Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865... Và vào năm Ất Hợi (đời vua Bảo Đại, tức 1934), chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): "Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa/Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành".

Đây cũng là ngôi chùa gắn với huyền tích vua Lê Thánh Tông thăm chùa gặp tiên. Chuyện kể rằng, vua Lê Thánh Tông đến chùa gặp một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau: “Bà Ngô Phong cảnh xinh thay/Đố ai cắt mối sầu này cho xong/Bao giờ về tới ngự cung/Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay”.

Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường luật 8 câu trong đó có 2 câu: “Chày kình mấy khắc tan niềm tục/Hồn bướm năm canh lẩn sự đời”. Nàng xin phép sửa lại là: “Gió xuân đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đây để tưởng nhớ…

http://nd1.upanh.com/b2.s13.d5/84038b6add1a312d3d03397a668fe932_36290151.cd7chubatam.jpg

Chùa Bà Tấm

Chùa được xây dựng thời Lý, nằm trên thôn Sóc, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Sự ra đời của nó gắn với Nguyên phi - Hoàng thái Hậu Ỷ Lan triều nhà Lý. Nguyên phi Ỷ Lan vốn là người Dương Xá. Sau khi nhập cung bà có nhiều đóng góp cho giang sơn, xã tắc. Vốn giỏi việc trị nước, lại còn tài khiến nhân tâm hoà hợp, đất nước thanh bình nên nhân dân sùng Phật, tôn bà là Phật Bà Quan Âm.

Chùa Bà Tấm được lập ra vì bà sinh ra từ đất này. Năm 1117, khi bà qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng tại đây. Hiện, chùa Bà Tấm còn lưu giữ nhiều di vật quý mang ý nghĩa lịch sử - văn hóa

http://nd6.upanh.com/b2.s3.d2/5fc9cbf5fa36f7d6da025dc26badb422_36290216.cd710chuabagia.jpg

Chùa Bà Già

Chùa Bà Già nằm trên làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Sở dĩ chùa mang tên Bà Già bởi trên mảnh đất này, xưa có ngôi chùa An Dưỡng tọa lạc. Do bị hư hại nặng, có hai chị em gái chuyên nghề buôn muối, đã phát tâm bồ đề bỏ tiền ra xây dựng, tu sửa lại chùa, tạc tượng Phật, dựng gác chuông đồng. Khi hai bà mất đi, để tỏ lòng biết ơn, dân trong vùng đã đúc tượng hai bà và rước vào chùa thờ, gọi là tượng hậu Phật, từ đó chùa được gọi là chùa Bà Già.

Chùa hiện toạ trong một khuôn viên không rộng, cây cối xum xuê, không khí trong lành, yên tĩnh. Sáng sáng tiếng chim hót trên cây hồng xiêm trước sân làm cho ngôi chùa càng thêm gần gũi.

Đặc sắc nhất tại chùa chính là hai pho tượng Bà Già. Pho tượng bà chị được đúc to hơn, trong tư thế ngồi một chân gập, một chân chống, tay phải úp lên đầu gối, tay trái để vào lòng. Ngồi bên cạnh là bà em, ngồi xếp bằng, cả hai tay đều để trên lòng, trong tư thế một người mẹ luôn cầu mong cho mọi người an khang thịnh vượng, sẵn mở lòng nhân ái. Đặc biệt là khuôn mặt của hai bà tròn trịa, hiền lành, phúc hậu, nhưng không giấu nỗi suy tư. Từ thời Lê, chùa Bà Già đã có qui mô bề thế và nổi tiếng kinh thành Thăng Long xưa. Nay trở là điểm văn hóa tâm linh của người dân Thủ đô

http://nd6.upanh.com/b2.s4.d4/0e3773c54e2ebbcc59b385d342c362ee_36290276.hinh9.jpg
Bà Đanh

Chùa Bà Đanh toạ lạc tại số 199B phố Thuỵ Khê, quận Ba Đình. Tương truyền, chùa do vua Lê Thánh Tông cho xây dựng để làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh.

Chùa được xây dạng thiền viện, vừa là nơi lễ bái, vừa là nơi nghiên cứu. Nằm bên bờ Nam của hồ Tây, chùa ban đầu có tên gọi là Thiền viện Châu Lâm. Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã sử dụng khu đất này để lập trường Trung học Bảo hộ (1907), khi đó, chùa Châu Lâm được dời về phía Tây Nam và được đổi lên là chùa Phúc Lâm.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn không giải thích được lí do tên gọi chùa Bà Đanh. Thế nhưng dấu tích của chùa hiện nay vẫn còn được lưu giữ qua tấm bia Bà Đanh tự.

Chính bởi ban đầu được xây dựng cho bộ phận người Chiêm Thành (người Chăm) ở, thờ cúng và lễ bái nên tín đồ phật tử bên ngoài đến đây không nhiều. Sau khi chùa được chuyển về địa điểm mới, khách thập phương lại càng ít viếng thăm nên cảnh chùa đã heo hút lại càng heo hút hơn. Đó phải chăng là lý do người ta ví "vắng như chùa Bà Đanh"?

http://nd5.upanh.com/b5.s2.d4/fa6fce280096d2787233687b1108ffdc_36290335.cd710chua1.jpg

Chùa Bà Đá

Chùa Bà Đá có tên chức là Linh Quang tự hay Sùng Khánh tự, nằm ở số 3 phố Nhà Thờ. Chùa được xây dựng đời Lý Thánh Tông, trên nền tháp Báo Thiên nổi tiếng của kinh thành Thăng Long xưa.

Chùa vốn là trường sở của Lâm Tế tông. Hiện chùa là trụ sở chính Thành hội Phật giáo Hà Nội. Trong chùa có Trường Trung cấp Phật học Hà Nội. Tại chùa hằng năm vẫn thường xuyên là nơi tổ chức các buổi lễ của Thành hội Phật giáo Hà Nội.

Chuyện kể rằng, khi đào đất đắp thành Thăng Long vào đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Báo Thiên Tự Tháp (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay), một người dân đã đào được một pho tượng bằng đá hình dáng một phụ nữ cho là thánh mẫu nên đã lập đền thờ ngay tại nơi đào được tượng và gọi là đền Bà Đá. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì và thờ Phật. Vì vậy, chùa có tên là chùa Bà Đá và tên chữ là Linh Quang tự.

Một số tài liệu khác lại cho rằng, vào thời Pháp thuộc, đền bị cháy và pho tượng đá bị mất trong vụ cháy. Sau đó đền được làm lại và chuyển thành chùa và tạc một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá thay thế tượng Bà Đá cũ, chùa mang tên mới là Linh Quang Tự. Bởi vậy không còn nhiều vẻ cổ kính, chỉ còn một số di vật như hai cái chuông đúc năm 1873 và năm 1881, một khánh đồng đúc năm 1842 đều thuộc thời nhà Nguyễn.

Chùa có tiền đường xây theo kiểu chữ nhất, trung đường xây theo kiểu chữ đinh, được nối liền với nhau, tạo nên một khối kiến trúc vuông vắn. Trong chùa có nhiều tượng gỗ. Chùa nằm trên một con phố nhỏ và dài chỉ vài trăm mét nhưng hiện diện cả hai hệ ý thức tín ngưỡng Phật giáo và Thiên chúa giáo.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đến thăm chùa Bà Đá và nói chuyện với các thượng tọa, tăng ni, phật tử. Trong cuộc gặp, Bác nói: "Việc Phật không xa rời việc thế gian, phải tham gia vào các công việc cách mạng, cứu đói, cứu dốt"..

(Theo Đất Việt)

hung vi
09-10-2011, 03:37 PM
http://nd3.upanh.com/b2.s11.d2/c61598e729b0103114139f0028c1b2f1_36290733.kpvn10964.jpg

Các triều đại phong kiến của Việt Nam đã để lại khá nhiều di sản kiến trúc có giá trị, trong đó có hệ thống lăng mộ làm bằng đá của các bậc quan lại. Hiện nay, ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang vẫn còn lại 26 khu lăng mộ thuộc loại này và đã sớm được công nhận là Di tích Văn hóa cấp Quốc gia, điển hình như lăng Dinh Hương, lăng họ Ngọ...

< Hương án và cổng vào phần mộ chính của lăng họ Ngọ.

Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống

http://nd5.upanh.com/b2.s12.d3/57a159b0f3540f063a1e36edfa68b80f_36290775.kpvn01122.jpg

< Tượng người và ngựa đá đứng chầu ở lăng họ Ngọ.

Lăng xây bằng loại đá muối và đá ong lấy từ núi Y Sơn, xã Hòa Sơn, cách đó khoảng 1,5 km. Tổng diện tích khuôn viên khu lăng mộ đá khoảng 400 m2.

http://nd3.upanh.com/b6.s20.d1/4b23251a076a7e663894ed659a33d4d3_36290853.kpvn02231.jpg

< Một trong hai con sấu đá của lăng họ Ngọ được chạm trỗ công phu theo lối cách điệu "sừng nai, tai nghé, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử".


Lăng hình chữ nhật, cửa hướng về phía Nam, phía trước có ao hình chữ nhật, bốn phía trước kia có tường xây bằng đá ong. Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn.

http://nd9.upanh.com/b1.s13.d2/26b87fc66e1b93b50eb27194d78633d8_36290879.kpvn06481.jpg

< Tượng voi đá ở lăng họ Ngọ có hình dáng ngộ nghĩnh với ngà ngắn như búp măng và vòi cuộn vào mồm như đang ăn mía.


Hai bên cổng có 2 con chó đá. Qua cổng lăng, trên khu đất trước mộ phần, hai bên có 2 dãy tượng đá đứng chầu uy nghiêm.

http://nd0.upanh.com/b4.s10.d2/8b52832986431abe2b356e2e05d669fc_36290930.kpvn08824.jpg

< Một trong hai con nghê đá còn khá nguyên vẹn trước hương án lăng họ Ngọ..

Đặc biệt, trong lăng có đôi voi đá được tạc ở tư thế quỳ, vòi cuộn gập lên miệng trông rất đẹp. Ngoài ra còn có đôi ngựa bằng đá có dáng cân đối, khỏe, đẹp. Đôi nghê đá trong tư thế đứng, râu cằm xoắn, đầu to, bờm ngắn. Đôi cá sấu đá miệng mở rộng để lộ viên ngọc lớn, thân, lưng và đuôi cùng 4 chân được chạm trổ công phu... điển hình cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trang trí thời Lê-Mạc.

http://nd4.upanh.com/b1.s7.d4/bfb62efb917805b58175e7cc00020236_36290974.aa25702.jpg

< Hai bên hương án trước mộ phần võ quan thủy binh La Đoan Trực là hai con nghê đá ngồi chầu.
http://nd8.upanh.com/b4.s18.d1/f090b6961d8a376968c1b25f52b5f35d_36290998.03kpvn789.jpg

< Một trong hai bức tượng đá đứng chầu phía trong cửa lăng Dinh Hương.

Rời lăng họ Ngọ, chúng tôi đến làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, thị trấn Thắng, một địa danh nằm cách khu lăng họ Ngọ khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam.

Ở đó có quần thể khu lăng Dinh Hương bằng đá xanh rất hoành tráng được xây dựng vào năm 1729, tức dưới triều Lê Trung Hưng (1533 - 1788). Lăng Dinh Hương rộng khoảng 300m2, nằm trên một quả đồi thấp tròn, mặt ngoảnh về hướng Đông, xưa có tường đá ong bao quanh. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thủy binh La Đoan Trực (1688-1749).

http://nd8.upanh.com/b1.s10.d2/f89eceede785d2082c58b00cff431f07_36291088.05kpvn976.jpg

< Tiền sảnh khu mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực ở lăng Dinh Hương.

Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm 3 phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Lăng đá có hệ thống tượng người và thú vật tạc bằng đá xanh, kích thước lớn, hình khối mập, chắc, chạm tỉa công phu. Trong lăng có 2 bức tượng đá tạc hình hai vị võ tướng dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau

http://nd1.upanh.com/b1.s3.d2/aa132b6c354f5b96e51ac5f60af3553a_36291191.aa6561.jpg

< Hai pho tượng đá hình võ quan dắt ngựa được xem là kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt xưa.

http://nd3.upanh.com/b6.s5.d3/c5dab1a315822378d932d57bd9c7b480_36291233.09kpvn241.jpg

< Một trong hai con voi đá trong tư thế nằm phủ phục trước tiền sảnh mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực.

Cặp tượng này được coi kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá của người Việt xưa. Tượng võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái râu dài, mặt nhỏ; võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải mặt to, hàm rộng. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát nên vẻ đạo mạo, phi phàm.
http://nd3.upanh.com/b1.s7.d4/b7174a6909e442a9a577950c81ba1d98_36291263.13kpvn444.jpg

< Một trong hai bức tượng đá hình người hầu nữ đứng bên mộ phần võ quan thủy binh La Đoan Trực.

Phía trước mộ phần có một khoảng sân rộng bằng gạch. Trên sân, ngoài cùng có đôi tượng voi bằng đá trong tư thế phủ phục trông hiền lành, thuần phục.

Vào phía trong một chút, ngay hai bên hương án là hai con nghê đá trong tư thế ngồi, mặt ngửa lên trời cao. Toàn thân nghê đá là một lớp lông hình vảy rồng, đầu phủ bờm dài được chạm khắc tuyệt đẹp. Phía trong cùng, hai bên mộ phần có hai tượng nữ quan đứng hầu mang vóc dáng và dung mạo sống động như nguyên mẫu đời thường.


http://nd2.upanh.com/b5.s5.d4/b2a9d4cc3016e18c347ecffe44f7035a_36291322.17kpvn631.jpg


< Phần mộ táng được xây bằng đá ong hình vuông.


Trải qua thời gian, những pho tượng đá ở các khu lăng mộ này vẫn còn khá nguyên vẹn và tuyệt đẹp như xưa, như minh chứng cho một thời kì vàng son của kỹ thuật điêu khắc đá của người Việt

(Theo VietNamNet)

hung vi
09-10-2011, 03:51 PM
http://nd1.upanh.com/b4.s16.d2/93328d556d61e30e3d736af4dba0d6b2_36291601.279kpvn01273.jpg

Chùa Vĩnh Tràng là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở miền Tây Nam Bộ. Chùa tọa lạc tại xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Sau bao biến thiên của thời gian và thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn đứng sừng sững với vẻ uy nghi riêng của mình.

Vào khoảng đầu thế kỷ XIX, sau khi cáo quan, tri huyện Bùi Công Đạt phát tâm nguyện xây cất một thảo am để tu dưỡng tinh thần. Sau khi ông mất, hòa thượng Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) đã về đây trụ trì đã vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Trường, hoàn thành năm Canh Tuất (1849). Về sau không biết từ khi nào người ta gọi chệch thành Vĩnh Tràng

http://nd0.upanh.com/b5.s8.d2/33764001f2e09a324ffae217b15b0b04_36291660.279kpvn02398.jpg

< Hai tượng phật khổng lồ trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng.

Tháng 4 năm 1861, khi người Pháp đánh chiếm Định Tường (tên gọi xưa của tỉnh Tiền Giang), chùa bị hư hỏng nặng. Qua nhiều lần sửa chữa, đến năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã cho trùng tu toàn bộ và ngôi chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
http://nd0.upanh.com/b2.s3.d3/b92fecd998a25942a9e23fc1c5ad0743_36291780.279kpvn03554.jpg

< Cổng tam quan ghép sành làm theo lối cổ lầu do các nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933.

Điều đầu tiên hấp dẫn du khách khi đến viếng thăm chùa là vẻ đẹp tráng lệ của hai cổng tam quan do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933.

http://nd2.upanh.com/b1.s7.d3/4e285b75d584a6be37c7d458f5336093_36291882.279kpvn04679.jpg

< Chùa Vĩnh Tràng được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa Đông và Tây.

Khác với những ngôi chùa truyền thống, hai cổng này được xây dựng theo lối cổ lầu. Nét độc đáo của hai cổng tam quan thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành, mảnh sứ tạo nên những bức tranh lung linh nhiều màu sắc về chủ đề sự tích nhà Phật và chuyện dân gian…

http://nd9.upanh.com/b6.s5.d4/adc146dc5e2cb2664c187a6bc8577357_36291959.279kpvn05819.jpg

< Chánh điện và gian thờ chính được chạm khắc tinh xảo.

Chùa có 178 cột, 2 sân và 5 lớp nhà. Khuôn viên chùa được bố trí theo dạng chữ "Quốc". Kiến trúc tinh xảo, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á- Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chăm).

http://nd6.upanh.com/b1.s8.d2/94a1373ebe192b36f7f69fcc16dbd552_36292026.279kpvn10350.jpg

< Những bức tượng La Hán sống động được làm bằng gỗ quý sơn son thếp vàng.

Mặt trước của tiền đường với những hàng cột vững chãi, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Nóc chùa Vĩnh Tràng có năm ngọn tháp uy nghi, nổi bật trên nền trời xanh. Năm ngọn tháp này được xây dựng theo quan niệm ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

http://nd2.upanh.com/b4.s4.d4/ae12a6e70dc37cbe34eb2ee0901a00a1_36292052.279kpvn12693.jpg

< Một Phật tử thành kính bái lạy trước tượng đài Phật Di Lặc.

Giữa gian chính điện và nhà thờ tổ chùa Vĩnh Tràng có một khoảng sân nhỏ, ở đó có một hòn non bộ phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh động mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ đây nhìn về mặt sau gian chính điện và mặt trước nhà tổ, ta lại rõ thấy lối kiến trúc Roma với những hàng đá hoa màu sắc sặc sỡ của Pháp được trang trí trên thành nóc và trên những cột xây bằng xi măng xây khá kiểu cách

http://nd4.upanh.com/b6.s16.d2/6eb6df8a444be3458e4391b4bc78e653_36292094.279kpvn13802.jpg
< Một buổi tụng kinh niệm Phật thường nhật của các nhà sư chùa Vĩnh Tràng.

Phía trong điện Phật của chùa có nhiều pho tượng được làm bằng gỗ quý. Điển hình như bộ 18 pho tượng La Hán tạc bằng gỗ mun, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang khoảng 0,58m. Mỗi vị La Hán cưỡi trên lưng một con mãnh thú, tay cầm bảo bối. Ngoài ra, chùa còn có 60 tượng quý tạo tác bằng đồng, gỗ và đất nung, được thếp vàng rực rỡ.
http://nd9.upanh.com/b1.s20.d1/c847d91ac894e380af1764e721d73c68_36292109.279kpvn15927.jpg
< Du khách nước ngoài tham quan chùa Vĩnh Tràng.

Bên cạnh hệ thống tượng Phật qúy, chùa Vĩnh Tràng còn nổi tiếng với hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Những bức vẽ này mang đậm nét dân gian với hình mai, lan, cúc, trúc và phong cảnh Việt Nam rất nên thơ do Long Giang cư sĩ thực hiện vào năm 1904. Ngoài ra, chùa còn nhiều hoành phi, câu đối và chuông cổ rất có giá trị.

Với những giá trị đặc biệt trên, chùa đã được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Tháng 5-2007, chùa Vĩnh Tràng còn được Trung tâm Sách kỉ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây. Hiện nay, chùa Vĩnh Tràng là điểm tham quan du lịch rất nổi tiếng của tỉnh Tiền Giang.

(Theo BAVN)

hung vi
09-10-2011, 04:43 PM
http://nd4.upanh.com/b3.s9.d3/fb0d88d7f9259b0eea8327a284cdae77_36294514.8334661796f8c4268edb.jpg

Ngôi chùa đã quá nổi tiếng với tuổi đời ngót nghét trên 1500 năm lịch sử. Một ngày tới chùa Trấn Quốc bạn còn khám phá được rất nhiều điều thú vị.

Nằm cuối đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên), trên bán đảo phía Đông Hồ Tây (Yên Phụ, Tây Hồ) với lịch sử 1500 năm chùa Trấn Quốc được coi là chùa có lịch sử lâu đời nhất của Thăng Long - Hà Nội và cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam.

Chùa được xây từ thời vua Lý Nam Đế (544 – 548) ở bãi bên sông Hồng thuộc phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ) với tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Sau rất nhiều lần đổi tên nhân dân vẫn quen gọi tên chùa là Trấn Quốc – được đặt vào cuối thể kỷ 17, đời vua Lê Hy Tông.
http://nd4.upanh.com/b2.s11.d3/d63c5ba31f623d5e5404af7ce0d8ff94_36294734.chuatranquoc1.jpg

Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa khác trên đất nước Việt Nam, chùa Trấn Quốc có nhiều nếp nhà, nhiều tượng Phật từ thấp đến cao, từ to đến nhỏ, vàng son lấp lánh, hương khói quanh năm.... Chùa có ba nếp nhà chính là tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công.

Nhưng kiến trúc lại mang những nét riêng khác rất đặc biệt với quy mô khá rộng. Đến chùa du khách không chỉ lễ Phật cầu kinh mà còn được đắm mình vào không gian của nghệ thuật của thiên nhiên hài hòa, thấy hồn mình tĩnh tại giữa những dấu xưa mang hồn đất Việt ngàn đời.

Nằm giữa những con sóng mênh mang của trời đất hồ Tây đã tạo cho du khách những cảm nhận về sự uy nghi cổ kính của công trình kiến trúc và vẻ đẹp thanh nhã, yên bình của cảnh sắc ven hồ.

http://nd3.upanh.com/b5.s12.d1/3bd9e3655651bf59c8c5fb7f96ee1dd2_36294803.22.jpg
Qua con đường cong cong trải bóng hàng dừa cao vút là khu Vườn tháp với nhiều ngôi tháp cổ từ thời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng thế kỷ 18. Đặc biệt là tòa bảo tháp lục độ đài sen có 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 m vuông.

Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quí. Tổng số tượng của tháp là 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quí (cửu phẩm liên hoa). Đứng dưới chân tháp thành tâm chắp tay cầu Phật, làm cho tâm ta như hòa cùng vào trời đất, hồn người chợt lắng lại giữa cái sắc sắc không không hư hư thực thực của một kiếp người.
http://nd0.upanh.com/b2.s2.d4/0a3228fb8075982d365b35876d5eadb7_36294890.11.jpg

Từng tiếng chuông chùa ngân nga như làm chìm lấp đi hết những ồn ào của phố phường nhộn nhịp. Từng làn khói trầm hương nghi ngút, phẩng phất vẻ thanh tịnh trong cái vô thường. Đi từ nhà nhà thiêu hương và thượng điện tới gác chuông không chỉ làm cho lòng người thanh lọc giữa cõi Phật.

Mà hơn hết trong từng những mái ngói rêu phong cổ kính, trong từng những nét chạm trổ nổi lên trên từng thớ gỗ trong mỗi nếp nhà bình yên, trong từng nét chữ xưa trên bia đá ta nghe như lắng đọng dư vị của thời gian mang hồn xưa của đất Thăng Long nghìn năm văn hiến có nét uy nghi mà vẫn rất đỗi giản dị, khiêm nhường.

Chiều Trấn Quốc, giữa cái bình lặng của trời nước, ráng chiều đỏ đổ nhuốn trên mặt nước, phảng phất vị đời hòa theo từng nhịp chuông chùa đều đều mang theo những nét xưa cổ kính lòng người như được rửa đi một phần thế tục thanh lọc trong cái yên bình giữa thinh không.

Giống như một hòn đảo xanh xinh xắn, nằm soi mình bên sóng nước Hồ Tây, chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ là chốn cửa Phật linh thiêng thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là một trong những điểm tham quan, du lịch hấp dẫn của thủ đô Hà Nội.

(Theo Afamily)

hung vi
09-10-2011, 04:51 PM
http://nd9.upanh.com/b3.s15.d2/7954972fd7b0ceb39a4954b7b9330f76_36295289.469chualangcat.jpg

Chùa Láng Cát là một ngôi chùa Khmer tọa lạc ở số 325 đường Ngô Quyền, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Chùa được nhà sư Riddhijaya cho xây dựng vào năm 1412, lúc đầu có tên gọi là Angkor Chum. Năm 1954, dưới thời trụ trì của đại đức Danh Hao, chùa được đổi tên chùa là Ang Kor Chum Wongsa. Đến năm 1961, hòa thượng Danh Ớt lại đổi tên chùa là Ratanaransĩ, người Việt quen gọi là chùa Láng Cát.

Chùa đã qua 31 đời trụ trì. Trụ trì hiện nay là hoà thượng Danh Nhưỡng, thành viên Hội đồng Chứng Minh và Phó Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang, Hiệu trưởng trường Phật học Pali Nam tông

http://nd1.upanh.com/b1.s12.d2/235cee7a02a42fa7ad69dafa0cbad85b_36295321.469congchua.jpg

< Cổng chùa.

Chùa đã được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Kiến trúc chùa mang đậm dấu ấn của phong cách Khmer. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Trên bệ thờ Phật có một viên ngọc xá lợi Phật do hoà thượng Hộ Tông thỉnh từ Ấn Độ về năm 1957.

Sáng ngày 3/5/2009, chùa Láng Cát kết hợp cùng Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang, Hội đoàn kết Sư Sãi yêu nước tỉnh tổ chức lễ khánh thành chánh điện và giảng đường (Sala). Năm 1997, Ban quản trị cùng Chư tăng Phật tử chùa họp kêu gọi phát tâm hùn phước đóng góp xây dựng, đến năm 2003 chỉ xây dựng được phần nền, móng và phần cột bê tông.

http://nd2.upanh.com/b3.s2.d1/4017d8b3e4c21a38a70043fa3e4e85fe_36295352.469duongvaochua.jpg

< Đường vào chùa.

Tháng 10/2003, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh họp nhất trí vận động các chùa hỗ trợ mỗi năm một lần cùng với sự hỗ trợ của nhà nước và Phật tử khắp nơi, nhất là Thí chủ Đại tín nữ Nhân Thủy và gia đình đã phát tâm Bồ đề cúng dường xây dựng hoàn thành ngôi giảng đường và trùng tu chánh điện, tổng kinh phí xây dựng là 1 tỷ 900 triệu đồng.

Với sự đoàn kết chung sức chung lòng, người góp công người góp của, đến nay công trình xây dựng ngôi giảng đường, hàng rào, sửa chữa trùng tu ngôi chánh điện đã hoàn thành viên mãn.

(Theo NTO)

hung vi
09-10-2011, 05:05 PM
http://nd1.upanh.com/b3.s15.d2/f38e9520fc261e5cf7f13cf13013d48c_36295561.moclien.jpg

Là hoa sen nhưng không mọc dưới đầm, chẳng mọc dưới ao mà tỏa hương ngào ngạt ngay trong sân chùa. Những bông hoa trắng tinh, thanh khiết, chen giữa những búp lá non xanh khiến khách phương xa cứ ngẩn ngơ vì quá đẹp, quá lạ. Người ta gọi loài hoa này là hoa sen cạn hay lục liên và theo người dân địa phương, lục liên chỉ trồng được trong khuôn viên chùa Bối Khê, Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội, tuyệt nhiên không trồng được ở nơi khác, dù ngay trên đất làng.

Ngôi chùa cổ kính
Chùa Bối Khê, tên chữ là Đại Bi, ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Đây là một ngôi chùa cổ được khởi dựng từ thời Trần (thế kỷ thứ XIV), thờ Đức Thánh Bối Nguyễn Đình An là người địa phương đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Chùa Bối Khê không những là di tích lịch sử quý về niên đại mà còn có kiến trúc bằng gỗ rất đẹp.

http://nd1.upanh.com/b2.s17.d1/f5bbc223e58291b1fd45c9f947bf627a_36295661.chuaboikhe1.jpg

Chùa được bố cục theo lối đặc biệt: Tiền đường, tả hữu hành lang và nhà Tam bảo dựng theo kiểu chữ Quốc. Nhà Hậu đường được kết hợp với điện thờ Thánh làm thành chữ Công. Toàn bộ kiến trúc được sắp xếp cân xứng hai bên theo một trục chính.

Từ đường cái nhìn vào, cách cổng chùa 50m về phía tay trái là lăng Quận công Lê Tiến Quý, người thôn Bối Khê (thời Lê Trung Hưng), phía tay phải là đền thờ Đức Ông. Trước cổng chùa là khoảng sân rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ.

http://nd1.upanh.com/b2.s1.d1/c1d27ca55af5f4e1ef8e9f3cebcc054e_36295711.chuaboikhe3.jpg
Cổng chùa có 5 cửa, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Qua cổng chùa là chiếc cầu nhỏ xây bằng gạch, vắt ngang hào nước hẹp thả bèo xanh mướt, dẫn tới Tam quan cao 2 tầng, 8 mái. Tầng trên treo 2 quả chuông lớn, mỗi quả cao 1m, đường kính 20cm. Hai bên tam quan có trồng 2 cây đại lớn, trổ hoa màu hồng rất đẹp. Qua khỏi tam quan là sân gạch rộng, có lư hương bằng đá ở giữa, xung quanh trồng cây đại, cây móng rồng và nhiều cây cảnh khác.

Kiến trúc chùa không được chạm khắc nhiều song đây là một ngôi chùa còn ghi lại những mô típ kiến trúc gỗ có chạm khắc những họa tiết, những hình chim thuộc phong cách nghệ thuật thời cuối Trần (thế kỷ thứ XIV – XV).

http://nd6.upanh.com/b4.s16.d2/eeafcecb36605ceb656282c89b019c1e_36295746.chuaboikhe4.jpg

Đáng chú ý nhất về kiến trúc là tòa Tam bảo thờ Phật, Pháp, Tăng gồm ba gian, được cấu tạo theo 4 hàng cột, mỗi hàng có 4 chiếc, riêng thềm điện có 6 cột đỡ mái chia thành 7 gian. Hai vì kèo giữa còn mang phong cách nghệ thuật Trần đậm nét, các đầu bẩy đỡ mái ở phía bên ngoài được chạm khắc hình rồng, đầu bẩy góc bên trái phía ngoài chạm một chim thần Garuđa. Tòa Tam bảo nay tuy đã được sửa chữa nhiều lần nhưng về cơ bản, cấu trúc kiến trúc vẫn còn giữ được những nét độc đáo và cổ kính. Bên phải Tam bảo là nhà bia dựng năm 1450 ghi sự tích đức Thánh Bối.

Sau Tam bảo là Hậu cung thờ Thánh, kiến trúc theo lối chồng diêm 2 tầng 8 mái. Hệ thống đầu đệm có tính chất trang trí nhiều hơn là chú ý về độ bền chắc. Bên trong điện thờ thánh có những mảng kiến trúc chạm khắc theo chủ đề tứ linh, tứ quý, vân hoa cùng các loại họa tiết hình học, đặc biệt là những đường gãy khúc.

http://nd5.upanh.com/b4.s5.d4/b1a2c5447eccc2b1209f01ee3ffd602c_36295765.chuaboikhe5.jpg

Chùa Bối Khê còn giữ lại được nhiều di vật quý: bệ tượng bằng đá được chạm khắc hình rồng, chim thần, hoa lá… có niên đại Sương phù lục niên (1382). Trong chùa có nhiều tượng phật, trong đó đáng chú ý nhất là pho tượng quan âm 12 tay ngồi trên tòa sen đặt ở Tam bảo. Hai hành lang chạy dọc, mỗi bên 9 gian, có 18 vị La Hán ngồi trên bệ đá, thể hiện đủ gương mặt tương tự các vị La Hán chùa Tây Phương.
Có hay không một loài sen trên cạn?

Hiện ở chùa Bối Khê có 3 cây sen đất, 1 cây tổ cao chừng 5m, trồng cạnh Hậu cung thờ Thánh và 2 cây con cao khoảng 2m được chiết từ cây tổ và trồng gần Tam quan.

http://nd0.upanh.com/b2.s1.d2/2e985d32c7f61cd57ee6bd429757b624_36295780.chuaboikhe13.jpg

Hai cây con là hai trong số bốn chục cành được chiết từ cây tổ vẫn đơm hoa nở lộc tốt. Ba mươi tám cành kia, người ta đem đi nơi khác trồng đều không sống nổi, hoài công những kẻ yêu loài hoa này. Chỉ có duy nhất hai cành được trồng trước cổng chùa là thành cây, có lẽ chúng được ở gần cây mẹ, ở gần nơi cửa phật và được hưởng nguồn nước ngọt lành của dòng sông Đỗ Động. Giờ cành của hai cây đã vươn tới sát mái chùa, mùa nào đến tháng năm âm lịch cũng cho hoa cho dù đôi lúc con người vô ý làm cây đau lòng

http://nd5.upanh.com/b6.s13.d3/86b5dfab111f9569656bede4a0427c25_36295805.img0472.jpg

Bác Nguyễn Mạnh Hùng, trưởng ban bảo vệ di tích chùa Bối Khê là người có công lớn nhất chăm chút cho hai cây sen này lớn lên kể lại: Mấy năm trước, nhà chùa được tu sửa lại, thợ xây vô tâm lắm, đổ hết vật liệu đè lên gốc cây. Xót xa lắm chứ, người ta đâu biết rằng giống cây này là bảo bối của làng chúng tôi. Ba năm trời trùng tu chùa là ba năm họ bừa ra tôi lại dọn lại để có chỗ chăm bẵm, tưới tắm hàng ngày.
Bây giờ, để bảo tồn linh vật của làng, các bô lão Bối Khê đã nhóm họp nhiều lần và quyết định không cho phép ai giâm chiết cành cây quý đi nơi khác nữa

http://nd9.upanh.com/b2.s6.d4/6e29ec2d59b4e13af84a1b8b2d8e26e0_36295879.img5322.jpg

Cây sen đất thân mộc. Lá cây mặt trên xanh bóng, mặt dưới có lông mịn màu nâu nhạt. Hoa sen đất từ khi đơm nụ đến khi bung cánh đều có hình dáng rất giống với hoa sen nước. Mùa hoa sen khoảng từ tháng tư đến tháng sáu âm lịch, hoa nở 1-2 tuần mới tàn và có mùi thơm. Thời điểm này, cả 3 cây đều đang trổ hoa. Đứng dưới gốc cây, có thể ngửi thấy mùi thơm rất dễ chịu.

Không ai biết chính xác cây sen tổ được trồng từ khi nào. Theo lời người bảo vệ già trong chùa thì khi ông sinh ra, trong khuôn viên chùa đã có sự hiện diện của loài sen kỳ lạ này. Những người già trong làng truyền lại rằng cây sen tổ có nguồn gốc từ nước ngoài, được những người dân trong vùng đi buôn bán ở nơi xa đưa về trồng trong chùa

http://nd9.upanh.com/b5.s16.d2/cc2112e3a65248781f2a31a0f5a402d6_36295909.65139306small157800.jpg

Người dân Việt Nam đã quen thuộc với câu ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”. Trong khi hầu hết mọi người cho rằng “cành hoa sen” đó chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú cho câu ca thêm phần lãng mạn, bởi hoa sen làm gì có cành; thì người dân làng Bối Khê lại tin rằng cành hoa sen được nhắc tới trong câu ca dao chính là cành cây sen đất trong khuôn viên chùa.

Trên báo chí đã có ý kiến cho rằng cây sen đất thực ra không phải là cây hoa sen (lotus) mà là cây mộc lan (magnolia) thường gặp ở xứ lạnh, và cái tên sen đất chẳng qua là do người dân địa phương thấy bông hoa có hình dáng giống hoa sen nên gọi như vậy

http://nd7.upanh.com/b2.s2.d1/ece163bfcf297d8db50c738978b9aff9_36295927.chuaboikhe11.jpg

Chưa có kết luận chính xác nhưng với người dân nơi đây, họ vẫn luôn tin đó là loài hoa được nhắc đến trong câu ca dao nổi tiếng. Và khách thập phương đến thăm chùa Bối Khê vẫn biết đến loài hoa có màu trắng ngần và mùi thơm tinh khiết này với cái tên là Hoa Sen Đất.

Trầm ngâm trong cái không gian tĩnh mịch của nhà chùa, sự thanh thản của tâm hồn theo làn khói hương trong cửa phật, tôi bỗng ngẩn ngơ cho cái ý chủ quan của mình: Có lẽ nơi đây là chính là ngọn nguồn, là cảm hứng cho dân gian sáng tác ra những câu ca dao: Hôm qua tát nước đầu đình/Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen ở trên hay cả câu ca rất đỗi thân thuộc của người trai, người gái thôn quê: Lên chùa bẻ một cành sen/ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng…

(Theo Việt Báo)

hung vi
09-10-2011, 05:11 PM
http://nd9.upanh.com/b6.s13.d5/aa2414e38dc83751dad5a63c62f06362_36296109.0bachthan.jpg

Đến thăm huyện Chiêm Hóa, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ uy nghiêm nhưng không kém phần lộng lẫy của đền Bách Thần.

Theo những người cao niên ở huyện Chiêm Hóa, đền Bách Thần rất linh thiêng đối với cuộc sống của dân bản địa nên đã lập đền thờ trăm vị thần, là các anh hùng dân tộc, người có công với địa phương...

Đền Bách thần còn thờ Tam Quang là mặt trời, mặt trăng, các vì sao, đem đến sự sống cho con người. Trước đây, đền được xây dựng tại khu vực chợ thị trấn Vĩnh Lộc, bên cạnh một cây đa to, hướng thờ vọng sang núi Bách Thần, tả ngạn sông Gâm, phía Đông thị trấn. Nay, đền Bách Thần được xây dựng trên sườn núi Bách Thần, thị trấn Vĩnh Lộc do nhân dân và du khách thập phương đóng góp, công đức xây dựng đền. Đền Bách Thần như một nét chấm phá giữa đại ngàn

http://nd1.upanh.com/b4.s20.d1/371cae27717ff279d50933634850537d_36296181.anh4a447.jpg

Tọa lạc ở lưng chừng núi với khí hậu mát mẻ, mùa hè, khách thập phương đứng tại đền có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thị trấn Vĩnh Lộc với dòng sông Gâm xanh trong. Do vị trí trên cao, mùa đông có mây giăng ngang lưng núi, đền như được những tầng mây bao bọc tạo nên vẻ thần tiên, kỳ thú. Vào ban đêm, dưới ánh sáng của đèn điện, đền Bách Thần trông giống như vì sao lấp lánh sà xuống núi. Với hàng trăm bậc, khi leo lên đến đền Bách Thần, du khách cảm thấy trong người nhẹ nhõm, tinh thần thư thái.

Đền Bách Thần gắn liền với lễ hội Lồng tông của nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa. Hàng năm, ngày 8 tháng Giêng âm lịch, huyện Chiêm Hóa tổ chức lễ hội Lồng tông (xuống đồng). Đây cũng là ngày đại lễ của đền. Người dân mang những sản phẩm nông nghiệp (lúa, đậu, đỗ...) mà họ thu hoạch được trong năm, bọc trong những quả còn với tua rua ngũ sắc mang dâng cúng tại đền cùng với các lễ vật khác, báo ơn các vị thánh thần đã ban cho vụ mùa bội thu

http://nd9.upanh.com/b3.s9.d1/8085d06c028b7948f871775362ae2ab2_36296249.dendamhong.jpg

Sau khi cúng tại đền Bách Thần, nhân dân tổ chức rước lộc Thánh và các lễ vật dâng cúng từ đền xuống khu vực diễn ra hội Lồng tông với nghi lễ trang trọng. Trong lễ hội Lồng tông, quả còn sẽ được tung lên trời, gửi gắm niềm tin, khát vọng sống của đồng bào các dân tộc Chiêm Hóa và cầu mong một năm mới tốt lành, dân khang, vật thịnh. Vì những quan niệm dân gian đó nên đền có vai trò rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Chiêm Hóa.

Ông Nguyễn Duy Tiến, Trưởng ban Quản lý đền Bách Thần cho rằng, với sự linh thiêng, phong cảnh hữu tình, đền sẽ là điểm đến của du khách thập phương trong những tour du lịch tâm linh. Trong tương lai, nơi đây sẽ hình thành tua du lịch với các điểm du lịch ở huyện Chiêm Hóa: Khu di tích lịch sử Kim Bình, thác Bản Ba xã Trung Hà, đền Đầm Hồng xã Ngọc Hội... và là điểm dừng chân lý tưởng trong cuộc hành trình khám phá những danh thắng của huyện vùng cao Nà Hang

(Theo báo Tuyên Quang)

hung vi
09-10-2011, 05:20 PM
http://nd9.upanh.com/b4.s2.d3/7bf85b29aec211d028af87e061ef6a88_36296349.mtgocchuaxaton.jpg

Ai đến Angkor Thom (Xiêm Riệp, Campuchia) cũng đều ngất ngây trước vẻ đẹp, nụ cười huyền bí của các tượng đá bốn mặt ở đền thần Bayon. Nhưng mấy ai biết rằng tại chùa Xà Tón ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang cũng có kỳ tích này.

Không chỉ được bao quanh bởi tượng đá bốn mặt, ngôi chùa hơn 300 năm tuổi còn níu chân người bởi những huyền tích ly kỳ và muôn vàn báu vật bằng xương bằng thịt mà chẳng tiền muôn bạc vạn nào có thể mua được.

Chùa Xà Tón - nơi được nhiều tao nhân mặc khách ví như là “Đền Bayon thu nhỏ trên vùng đất chín rồng” nằm ở khu đất rộng trên 2ha giữa trung tâm thị trấn Tri Tôn. Trên bốn mặt tường sơn vàng là hàng trăm gương mặt tượng thần bốn mặt với nụ cười bí ẩn, vô tư.
http://nd9.upanh.com/b5.s11.d3/294c840e2750dd8ac6f5105838cbb170_36296379.10khunhamotaichuakhmer.jpg

Vào trong khuôn viên chùa, khách nhàn du cứ ngỡ mình lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nơi hồng trần. Sau hồ sen hoa nở hồng trên diện tích mặt nước rộng gần 1.500m2 được tiền nhân đào lấy đất đắp nền vào năm 1896 là chánh điện được xây dựng theo lối kiến trúc cổ truyền của người Khơme với nóc nhọn, mái cong uy nghiêm mà hùng dũng, được điểm tô bằng hàng ngàn phù điêu Naga - rắn thần bảy đầu, linh vật tượng trưng cho sự dũng mãnh và bất diệt. Quanh khu vực chánh điện là hàng chục mộ tháp cổ kính, trầm mặc dưới những tán cây lâm vồ (bồ đề) khổng lồ hàng trăm năm tuổi, gốc bằng vòng tay của cả chục người kết nối.

http://nd5.upanh.com/b2.s6.d2/56609bc72805f615e21d144faec8ce26_36296405.49dbbb6b38.jpg

Cùng khung cảnh thiên thai với những công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, chùa Xà Tón còn in đậm trong tâm khảm những ai từng ghé thăm bởi những pho tượng cổ hàng trăm năm tuổi, đặc biệt là bộ kinh lá buông (kinh ghi trên lá buông) được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa lưu giữ nhiều sách kinh lá nhất Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, kinh lá là loại thư tịch cổ của người Khơme với qui trình kiến tạo rất công phu, đòi hỏi mất nhiều công sức.

Sư cả Tholly cho biết, buông là loài cây rừng ngày trước có nhiều ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây là giống cây có hình dáng như cây cọ. Khi cần sử dụng, nghệ nhân sẽ chọn những búp lá buông non, to bản cột chặt. Khoảng ba tháng sau búp lá dài gần 2m sẽ được chặt rời khỏi cây, mang phơi khô..

http://nd1.upanh.com/b3.s11.d2/ba40a112da351387a6bc9305f0c3fe4a_36296431.17thaptrongvuonchuab.jpg

Khi cần sử dụng sẽ dùng bút sắt viết chữ trên lá, mỗi lá có kích thước 6cmx60cm được ghi năm hàng, viết xong lấy nước trái cau non chà lên lau sạch, khi ấy chữ thấm nước mủ cau hiện rõ. Người viết giỏi mỗi ngày chỉ viết được một lá. Một quyển sách có hàng trăm lá, thường nặng khoảng 1kg. Chùa hiện có hơn 100 quyển kinh. Các sách lá chép lại tiểu sử Đức Phật, các truyện kể dân gian, những thành ngữ, câu đối hay các bài học rút ra ở đời... Những khi phum sóc có lễ hội lớn, các sư ở chùa sẽ lấy kinh lá trăm năm ra đọc, thuyết pháp...

Vì các giá trị về kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật dân tộc cổ truyền... mà chùa Xà Tón được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1986.

(Theo TCDL)

hung vi
09-10-2011, 05:28 PM
http://nd0.upanh.com/b6.s6.d3/b5f37cf4810fddbaa49d33d40dbaeb70_36296810.khaidoan2.jpg

Chùa Sắc tứ Khải Đoan (Sắc tứ Khải Đoan tự), là ngôi chùa lớn nhất thành phố Buôn Ma Thuột và cả ở Đắk Lắk. Tên Khải Đoan là ghép từ tên vua Khải Định và vợ ông là Đoan Huy hoàng thái hậu.

Chùa bắt đầu được xây dựng từ năm 1951 với hai phần hậu tổ và nhà giảng, còn chính điện thì đến năm 1953 mới khởi công. Ngôi chùa này nằm trên đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột do Đoan Huy - Hoàng Thái Hậu mẹ vua Bảo Đại cho xây dựng và Nam Phương hoàng hậu trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý việc thi công.

Chùa được xây dựng bởi bàn tay khéo léo của những người thợ cố đô Huế nên có kiến trúc nhà rường Huế xen lẫn với kiến trúc địa phương. Cổng chính theo hướng Tây Nam nhìn ra đường Quang Trung, hướng về thung lũng “Suối Đốc Học”. Trước và sau cổng đều ghi “Khải Đoan Tự”

http://nd8.upanh.com/b1.s11.d4/b0decdb556a9b9f213cd4f8880acc42d_36296858.chuakhaidoanresizelarge.jpg

Toàn bộ ngôi chùa gồm cổng chính (cổng tam quan) hướng về phía Tây Nam, chính điện, điện Quan Âm, nhà hậu tổ.
- Cổng tam quan gồm hai tầng với ba vòm cửa cao 7m, rộng 10,5m.
- Tách biệt với chính điện là Ðiện Quan Âm hình lục giác, với sáu cây cột trang trí hình rồng, mây.
- Chính điện rộng 320m² gồm hai phần, phần trước kiến trúc theo kiểu nhà dài của Tây Nguyên nhưng cột kèo lại theo lối nhà rường của người Việt.
Nửa sau xây theo lối hiện đại.

Đáng chú ý nhất trong chánh điện là tượng Phật Thích Ca bằng đồng đặt chính giữa chính điện cao 1,1m với đài sen bằng gỗ quý cao 0,35m được trang trí rất công phu. Bên gian phải chính điện treo một quả chuông đồng cao 1,15m, chu vi đáy 2,7m, nặng 380kg do các nghệ nhân phường đúc đồng ở phía Tây kinh thành Huế làm vào tháng 1/1954 (tức tháng chạp năm Quý Tỵ).

http://nd6.upanh.com/b6.s5.d1/bba4da793a68632ab7581069c03162af_36296906.tuongtho1.jpg

Sau nhiều đợt trùng tu, cất thêm vài công trình mới, chánh điện vẫn y như cũ và dành để thờ Đức Thích Ca; bên hông trái của chùa có tòa lục giác thờ Quan Âm Bồ tát. Ngoài việc là một trong những di tích lịch sử hấp dẫn của thành phố Buôn Ma Thuột, chùa Khải Đoan còn là nơi thể hiện dòng chảy của đạo pháp dân tộc trên đất Tây nguyên.

Khải Đoan là ngôi chùa cuối cùng tại Việt Nam được phong Sắc tứ của chế độ phong kiến và là một địa điểm không thể không ghé thăm khi đến Đắk Lắk

http://nd8.upanh.com/b2.s5.d2/9a5ad8912e537c925eb736fdf9815741_36296948.kd0jpg.jpg

Tháng 07.1963, Đại Đức Thích Quảng Hương (chánh đại diện Phật giáo DakLak kiêm trụ trì chùa Khải Đoan) phát nguyện tự thiêu đúng vào lúc phái đoàn quốc tế đến thị sát tình hình, làm cho cuộc đấu tranh của Phật giáo DakLak bùng lên quyết liệt. Sáng 30.01.1968 (tức mồng một Tết Mậu Thân) gần 7.000 quần chúng Thị xã Buôn Ma Thuột tập trung tại chùa Khải Đoan nghe tuyên truyền về chính sách mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau đó tuần hành trên đường phố.


Cùng với Biệt Điện Bảo Đại, Đình Lạc Giao, Nhà đày Buôn Ma Thuột, chùa Khải Đoan là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn đồng thời cũng là di tích lịch sử văn hóa của tỉnh DakLak và của Thành phố Buôn Ma Thuột

(Theo dulich Tổng hợp)

hung vi
09-10-2011, 05:35 PM
http://nd4.upanh.com/b5.s18.d2/d650868e4c8fce16db53a049ea1afcaa_36297094.img6651.jpg

Đền Thượng thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, được xây dựng bề thế trên ngọn đồi thuộc khu vực phường Lào Cai (TP Lào Cai), cách Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai gần 500m về phía Đông Bắc.

Nơi đây, hơn 700 năm trước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã chọn làm nơi hỏa hiệu để quân ta chủ động chiến đấu với quân giặc, tránh tổn thất. Khu vực Đền Thượng có cảnh quan thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, cùng sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc truyền thống với nét văn hoá bản địa, tạo cho ngôi đền mang dáng vẻ uy nghi lộng lẫy.
Đền Thượng được xây dựng vào thời nhà Lê (niên hiệu Chính Hòa 1680 - 1705), qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, năm 1996, Đền Thượng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

http://nd3.upanh.com/b1.s4.d4/f7dc1bae658f410b1152d1d4379180cf_36297123.u2ducthanhtran.jpg

< Cây trò thiêng hơn 300 tuổi, 8 người ôm không xuể.

Soi mình bên bờ Nậm Thi, nơi đây xưa có vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phòng thủ chống quân xâm lược, ngày nay, gần cửa ngõ giao thương giữa hai tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc), vùng đất linh thiêng nơi địa đầu Tổ quốc này mỗi năm đón hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, hành hương thăm viếng, tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc. Đền Thượng nằm trong quần thể di tích văn hóa bao gồm: Chùa Tân Bảo, Đền Am, Đền Mẫu, Đền Cấm, Đền Quan. Vào mồng một, ngày rằm hàng tháng, rất đông du khách thập phương về dâng hương, cầu mong mọi sự an lành, mùa màng bội thu, người yên, vật thịnh, cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Hội chính Đền Thượng được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng hàng năm. Trong hội tổ chức lễ rước kiệu, lễ tế thần, dâng hương tưởng niệm, lễ cầu an, cầu phúc… sau các nghi lễ sẽ tổ chức trồng cây xanh tại khu vực quanh đền. Đây là nét đẹp văn hóa đầy ý nghĩa tâm linh của nhân dân, luôn nhớ về cội nguồn dân tộc

http://nd1.upanh.com/b6.s12.d1/32325eaa9bf974f89375c6b3008b249f_36297211.picture.jpg

Ngay từ khi bước chân đến cổng đền, du khách đã được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cây đa 300 năm tuổi, đang vươn cành trổ tán, dưới bóng cây cổ thụ là miếu thờ Bà chúa Thượng Ngàn (Nữ chúa rừng xanh). Tương truyền, trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bà đã góp công đánh giặc bảo vệ bờ cõi nước Nam, ghi công ơn bà, nhân dân lập miếu thờ ngay dưới gốc cây đa xum xuê cành lá. Người đời sau truyền rằng, nếu ai thành tâm cầu khấn đều được bà linh ứng. Chính vì vậy dưới bóng đa linh thiêng có câu đối "Thụ mộc đa sinh, sinh thế thế; Tiên cô hóa hiện, hiện linh linh" nghĩa là "cây đa cổ thụ sinh ra đã có tư thế; Tiên cô hóa hiện, đem lại sự linh thiêng".

Tại khu vực đền chính, bức hoành phi "Văn hiến tự tại" được treo trước Nghi môn, hai bên có hai câu đối: "Việt khí linh đài hoành không lập, Đông A hào khí vạn cổ tồn" nghĩa là: "Nước Việt đài thiêng vắt ngang trời, Nhà Trần hào khí còn muôn thủa". Mặt sau Nghi môn nội có dòng chữ "Quốc Thái dân an" với hai câu đối: "Thiên địa dịu y, thiên địa cựu; Thảo hoa kim dị, thảo hoa tiền" nghĩa là: "Trời đất vẫn nguyên, trời đất cũ; Cỏ hoa nay khác, cỏ hoa xưa"

http://nd6.upanh.com/b4.s7.d4/3f0335aff98096207da4437ea5b22e4c_36297266.13136697561thuexecodenthuongdiem.jpg

Đền Thượng được đầu tư, xây dựng khang trang với 7 gian thờ chính gồm: Cung thờ Phật Thích ca Mâu ni, Cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu; Ban thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo; Cung thờ Đức vua cha Ngọc Hoàng… và các ban thờ phía Tả Vu - Hữu Vu thờ Chầu bà Đệ Nhị Sơn Trang, Thập Nhị Tiên Cô, Chầu hầu cận Chúa và Cậu Bé thủ đền… tất cả đều được sắp đặt theo trình tự. Các pho tượng thờ sơn son thếp vàng mang dáng vẻ uy nghi tráng lệ. Cảnh quan đền ngày càng được trùng tu, tôn tạo, xanh, sạch, đẹp xứng tầm với một di tích lịch sử quốc gia. Bên cạnh Đền Thượng là ngôi đình hình vuông với 4 cửa, 8 rồng chầu, giữa phương đình hình rùa vàng lưng đội bia đá khắc tích "Đức Thánh Trần". Nơi đây trước kia là nơi nghỉ chân của các quan quân đi tuần, ngày nay, là rừng sinh thái với đủ các loại cây trồng bảo vệ môi trường, phục vụ du khách tham quan, nghỉ chân thưởng thức khí hậu trong lành. Đặc biệt, đây là một trong những ngôi đền linh thiêng được nhiều người biết đến nhất trong hệ thống các đền, chùa ở Lào Cai.

http://nd4.upanh.com/b6.s6.d2/197d316d772e38da3bc50323d3f1d805_36297294.111133825.jpg

Nằm trong Chương trình "Du lịch về cội nguồn" hợp tác 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ, quần thể di tích lịch sử - văn hóa Đền Thượng là điểm đến lý tưởng của du khách. Ngoài các hoạt động văn hoá tâm linh, tìm hiểu phong tục tập quán, thưởng thức các món ăn đặc sản truyền thống của các dân tộc Lào Cai, tại đây còn diễn ra các hoạt động văn hoá, văn nghệ và các trò chơi dân gian dân tộc, các gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công truyền thống hấp dẫn du khách. Các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng được tổ chức quản lý theo đúng các quy định, do vậy Đền Thượng thực sự là điểm sinh hoạt văn hoá, tâm linh cho nhân dân địa phương và du khách khi đến với Lào Cai

(Theo báo Lao Cai)

hung vi
09-10-2011, 05:44 PM
http://nd6.upanh.com/b6.s10.d2/5d48b3edc7ef1cd7e2e7e8b15d22e10e_36297516.langchua1.jpg
Du khách dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám. Chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay.

Từ hướng Hải Phòng qua TP Hải Dương, tới Ghẽ thì gặp con đường nhỏ bên phải đi vào… Đường đi rộng 5 mét, hai bên đồng ruộng gió xuân mơn man qua da mặt mát lạnh pha lẫn hương đất, bụi mưa xuân hờ hững trên vai áo, cảm nhận trời đất giao hòa ngày xuân mà lòng xốn xang quen quen lạ lạ. Đi chừng 4 cây số tới chùa Giám

Ngay trước cổng Tam quan chùa có 3 chữ Hán “Quán Tự Tại”. Qua cổng tam quan là hai bên vườn cây xanh, một hồ hình chữ nhật thả hoa sung. Cách một lối đi là hồ non bộ, vườn cảnh mô phỏng thiên nhiên sơn thủy hữu tình.

http://nd8.upanh.com/b4.s16.d2/014be42b52ac841628b70dcd564c9d8c_36297588.langchua2.jpg


< Cửu phẩm liên hoa.

Liền đó là sân tiền đường rộng lát gạch vuông màu đỏ, xung quanh là lối đi nối sang hai nhánh. Bên phải là 5 gian nhà khách thoáng mát với những cánh cửa gỗ chạm khắc hình nổi từng ô, rất kỳ công tạo thành những bức tranh ước lệ.

Du khách dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám. Chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay.

Nguyên thủy của chùa Giám là Nghiêm Quang tự do sư Hải Triều trụ trì, vốn nằm trên nền đất trống phía đông huyện Cẩm Giàng. Chùa được xây dựng năm 1336 vào thời Lý, thời đó người ta dựng chùa chủ yếu bằng gỗ, chạm trổ hoa văn cầu kỳ, lợp ngói đỏ. Bởi vậy, khi ngôi chùa hình thành đã trở thành một công trình văn hóa nghệ thuật của Phật giáo thời bấy giờ và rất có giá trị về lịch sử, nghệ thuật với thời nay.

Do thời gian và ảnh hưởng của bom đạn chiến tranh nên ngôi chùa cổ đã bị xuống cấp nhiều. Tháng 4 năm 1970, chùa Giám chuyển về xã Cẩm Sơn hiện nay, cách mặt bằng cũ gần 7 cây số, được dựng lại nguyên kiến trúc cũ. Do các tượng và các vật liệu có giá trị văn hóa cần phải được bảo tồn nguyên dạng nên việc di chuyển tượng hoàn toàn bằng phương tiện thô sơ, rất công phu trong suốt ròng rã 7 tháng trời. Đến năm 1975 chùa Giám ở khu đất mới được hoàn chỉnh.

http://nd4.upanh.com/b2.s4.d4/2f201d06bfe20ff97a3dba96dabb6f99_36297714.langchua4.jpg

< Bàn thờ thiền sư Tuệ Tĩnh.

Trong chính điện có các tượng Phật Thích Ca và các vị Bồ tát, tượng Phật Đản Sinh, tượng Quan Âm Thị Kính và Thập Điện Diêm Vương. Trong nhà phẩm là tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa bằng gỗ hình lục giác màu cánh sen có 9 tầng, mỗi tầng đều có 18 vị bồ tát bằng đồng ngự và 54 tầng cánh sen nổi, khắc những họa tiết sinh động. Có tất cả 145 pho tượng, duy nhất tượng Phật A Di Đà ngự tầng trên cùng, khách viếng chùa không thể chiêm ngưỡng gần mà chỉ bái vọng mà thôi.

Tòa Cửu phẩm liên hoa nặng 4 tấn, nếu đẩy sẽ xoay vòng tròn, là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo nhất trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Riêng bức tượng đồng A Di Đà được đúc năm 1712 do Thái Phi Trương Thị Ngọc Chứ, Liễu Hạnh công chúa Hòa diệu đại vương Đức Bà đóng góp công đức. Năm 1717, chùa đúc tượng đồng Quan Âm thánh vị 24 tay và năm 1775 xây dựng điện Thiên Đế cũng do các cung tần và một số người khác thời ấy đóng góp công đức xây dựng....

Bên ngoài chính điện là 2 dãy hành làng có 11 gian thờ 18 vị La Hán. Hậu đường có 7 gian thờ Thiền Sư Tuệ Tĩnh và thờ sư Tổ

http://nd3.upanh.com/b6.s12.d4/1c8cea3806f129834ab1283fbb713118_36297773.langchua3.jpg
< Khu Tháp cổ.

Quan sát toàn cảnh kiến trúc chùa Giám, ta thấy các kiến trúc sư, các nghệ nhân đã tạo trên mặt bằng của chùa sự liên hoàn của các hạng mục tôn lên vẻ tráng lệ cổ kính, ẩn chứa nhiều tầng trí tuệ văn hóa. Ngôi nhà phẩm rộng 7,90 m2 cao trên 10m, khung nhà bằng gỗ, mái ngói vẩy cá rêu nâu đều đặn, 4 góc mái uốn cong hình đuôi rồng nổi rõ dưới nền trời vừa mềm mại vừa uy nghi. Bên trái là khu tháp Tổ màu xám trắng rêu phong, xung quanh xào xạc cây xanh bên vài cây cau cao thanh cảnh. Từ nhà Tăng đến dãy nhà khách, nhà thọ trai đều được được xây cất với một phong cách rất riêng của kiến trúc Việt Nam. Bụi lá trầu không cuốn quýt cây cau xanh ngả chùm quả như muốn níu bàn tay lá trầu. Cây hồng xiêm nặng cành, các loại hoa thơm quanh vườn toả hương bốn mùa. Bên nhà Nghè, cây đa cổ thụ xoè tán rộng

http://nd1.upanh.com/b4.s8.d4/63b6395c3e6acb64dc932e30b2aabe65_36297801.chuagiam.jpg

Ngày 13/2 âm lịch hàng năm, chùa Giám tổ chức lễ hội rước tượng Tuệ Tĩnh. Ban lễ nghi lần lượt thực hiện từng phần trong lễ rước: Rước hoa và múa lân rồng, biểu diễn thể thao, rước hồng kỳ, đi sau là đội trống, đội siêu đao – chấp kích – bát bửu, rước kiệu thuốc nam, đoàn tế nam, nối bước là đoàn tế nữ, tiếp theo là đoàn cung nghinh kiệu Tuệ Tĩnh, tượng của Ngài được đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên rất long trọng, cuối cùng là đoàn chư tăng, chư ni với Pháp phục và các Phật tử cùng các bô lão và những người con quê hương Hải Dương dù làm ăn ở đâu, học sinh, sinh viên, học ở các tỉnh thành khác, kiều bào các nơi đều nhớ ngày lễ hội về tham dự.

(Theo VOV)

hung vi
09-10-2011, 05:55 PM
http://nd6.upanh.com/b4.s18.d1/22d3cd1e6b5db79ca54bcd789f88a058_36298106.chuakeo1.jpg

Chùa Thần Quang hay còn gọi là chùa Keo, thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình được xây dựng từ năm 1067 vào thời nhà Lý. Chùa Keo là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, người làng Keo rất tự hào với ngôi chùa vừa cổ kính, vừa nguy nga của làng mình.

Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lĩnh bồi đắp.

Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc bộ. Chùa không chỉ là một bức tranh sinh động cho lịch sử văn hóa nước ta trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20, mà còn là nơi gặp gỡ giữa kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.

http://nd5.upanh.com/b6.s20.d1/9db6519fcc752f12a4862ed9da5e3837_36298235.keo13.jpg

Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một trục dài cao thấp khác nhau.
Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê

Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.

Đi đến phần chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Ngôi nhà ở ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng Thích Ca nhập Niết bàn, tượng Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề đặt giữa tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng.

http://nd8.upanh.com/b1.s2.d4/df2b031533f95b15f34adb8876909563_36298308.keo4.jpg

Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình đều làm bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo.
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã từng dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa từ xưa.

http://nd3.upanh.com/b4.s18.d2/bfee658b4db27e115ba1d6e2be799d8d_36298333.chuakeo2.jpg

Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông chùa Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng mái,kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20 m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30 m, đường kính 1 m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm 1796.
Hai hành lang chạy dài từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.

http://nd2.upanh.com/b4.s10.d1/9b9585f2a81cd2b61e75d029ed324807_36298402.472a9aef3.jpg


Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.

Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.

http://nd0.upanh.com/b2.s10.d3/61e3f6a21e0298e0da02ffea56614e15_36298460.chuakeo1.jpg

Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng. Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 Âm lịch).

Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.

Có câu ca dao về hội chùa Keo:
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

(Theo lên đường)

hung vi
09-10-2011, 06:08 PM
http://nd8.upanh.com/b3.s16.d2/0460e5bbda254d2f6a29ce1b916207f2_36298658.214kpvn02644.jpg

Lăng Ông Bà Chiểu (Tp. Hồ Chí Minh) là nơi chôn cất Tả quân Lê Văn Duyệt, vị Tổng trấn thành Gia Định ở thế kỷ 19,được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.

< Mái Lăng, một trong những nét đặc trưng trong tổng thể kiến trúc công trình Lăng Ông.

Đây không chỉ là khu di tích kiến trúc có giá trị nghệ thuật mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam mà còn là niềm tự hào của người dân Nam bộ.
Lăng Ông Bà Chiểu hay còn gọi là Lăng Ông, là cách gọi phổ biến của người dân địa phương đối với miếu Thượng Công, nơi thờ Đức Thượng Công, danh xưng dân gian phong cho Tả quân Lê Văn Duyệt

http://nd5.upanh.com/b6.s20.d1/be04e975014a815a315ceb4f193f527f_36298705.214kpvn01685.jpg
< Di tích Lăng Ông với nét đẹp uy nghiêm, cổ kính.

Lăng nằm ngay khu vực ngã ba Bà Chiểu, xưa thuộc làng Hoà Bình, tỉnh Gia Định, nên nhắc đến Lăng Ông thường đi đôi với địa danh Bà Chiểu.

http://nd9.upanh.com/b3.s17.d2/556d0b26a2aa594f05162a06c4a9c3f6_36298759.214kpvn08d296.jpg

< Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đúc bằng đồng nguyên chất dựa trên mẫu chân dung của ông in trên tờ giấy bạc 100 đồng lưu hành tại Sài Gòn năm 1966.

Ngày nay, khu lăng mộ với diện tích còn lại khoảng 18.500 m2 toạ lạc uy nghi giữa giao điểm của bốn con đường thuộc khu vực quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh. Xung quanh có thêm khuôn viên thoáng đãng, xanh mát mở ra một không gian sinh hoạt công cộng lý tưởng dành cho người dân.

http://nd8.upanh.com/b2.s1.d3/8cd0be291e27bd92acde7bdd37e1eb6c_36298918.214kpvn0496.jpg

< Trung điện - nơi bài trí các đồ thờ tự, thể hiện uy quyền và phẩm hàm của Tả quân Lê Văn Duyệt.

Cổng lăng trổ ra bốn hướng, phía Nam là cổng lớn Tam Quan nổi tiếng với 4 chữ Hán “Thượng Công Miếu” khắc nổi ở bên trên. Cổng lớn này một thời được chọn làm hình ảnh biểu tượng của đất Sài Gòn - Gia Định.
http://nd2.upanh.com/b1.s20.d1/1db54207ef1b1f7b95f17ba08195df61_36298982.214kpvn06377.jpg

< Giếng cổ được phát hiện trong quá trình tu bổ lại khuôn viên bao quanh Lăng Ông.

Lăng nằm trên một gò đất cao hình lưng rùa, được cho là vị thế “đắc địa”. Theo quan niệm địa lí Đông phương học, nơi được chọn đặt âm phần của quan Tổng trấn nằm vào long mạch, hợp với “địa linh nhân kiệt”, vì thế sẽ mang lại tài lộc, sự an lạc đời đời cho dân chúng cư ngụ trong vùng.
http://nd7.upanh.com/b1.s6.d3/cb6a5e912bd259cf2d4e3a5bda1c6fc1_36298997.214kpvn05d237.jpg

< Lê Công Bi Đình, tên gọi văn bia ca tụng công đức của Tả quân Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.

Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt được xây cất vào năm 1832 ngay sau khi ông qua đời. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), nhà vua cho thực hiện một cuộc trùng tu lớn, lập thêm miếu thờ, cấp đất tu sửa cả khu hoàn chỉnh như ngày nay.

Gần hai thế kỷ trôi qua với nhiều lần tu sửa và tôn tạo, quần thể Lăng Ông được gìn giữ bao gồm cả miếu thờ Ông lẫn lăng mộ, nơi mà bá tánh quen gọi là mộ “song hồn”, vì bên cạnh mộ ông có thêm mộ bà Đỗ Thị Phận, vị chánh thất phu nhân của Tả quân. Cách xa nơi ông bà nằm vẫn còn mộ hai cô hầu cũng được liệt vào hàng cổ tích. Ngôi mộ song hồn xây theo hình nửa quả trứng lật úp nằm trên hai tấm liếp, đây là phần kiến trúc cổ kính nhất của toàn cảnh Lăng Ông

http://nd6.upanh.com/b4.s6.d3/9ff4ae153be8977157d524cc2515498f_36299056.214kpvn03d956.jpg

< Ngà voi và xương hàm cá Ông ở khu trung điện của miếu thờ.

Khu miếu thờ thoạt nhìn giống một ngôi chùa Trung Hoa, nhưng thực tế miếu được dựng theo cấu trúc đình Nam Bộ, khung nhà ba gian bao gồm tiền điện, trung điện và chánh điện, mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang. Công trình mang dấu ấn của kiến trúc triều đình Nguyễn ở Huế với những vật liệu như gỗ gạch, vôi vữa… Vật liệu cũng như kĩ thuật kết cấu đều kế thừa kiến trúc cổ truyền Việt Nam, đồng thời có sự cách tân tạo nên độ vững vàng, hài hoà, thích ứng với khí hậu nhiệt đới phương Nam.

http://nd2.upanh.com/b1.s15.d2/e76ea5970b750baae869cc8c8fd4446a_36299102.214kpvn07549.jpg

< Tục phóng sinh cầu phúc vào ngày Rằm hàng tháng tại Lăng Ông.

Bộ mái nhà hai tầng đồ sộ của miếu là điểm nhấn đặc sắc trong tổng thể kiến trúc với những mái được thiết kế theo lối "trùng thiềm điệp ốc" (mái chồng lên mái) gợi nên hình ảnh những chiếc thuyền rồng cheo leo. Bên cạnh đó, kĩ thuật chạm khắc gỗ, khắc đá, chạm thủng qua kim loại, khảm sành sứ đậm chất Huế… cũng nói lên đặc tính của loại hình kiến trúc cung đình Huế thời bấy giờ

http://nd8.upanh.com/b3.s17.d2/bb536d7274bb7649c08ee5fa1745ae88_36299118.214kpvn09405.jpg

<Thắp nén hương tưởng nhớ tới Tả quân Lê Văn Duyệt.

Nhờ vào tài năng điêu luyện của các nghệ nhân Việt Nam mà đồ án trang trí tại đây trở nên rất sinh động, gần gũi với cuộc sống dân gian. Những hoa văn trang trí khu lăng mộ vừa mang ý nghĩa phản ánh hiện thực vừa biểu lộ niềm tin và ngụ ý chúc phúc.

http://nd8.upanh.com/b6.s11.d3/d64bb163aea1d2392fdab48293c07b21_36299158.214kpvn10530.jpg

< Sinh hoạt tín ngưỡng của người dân Sài Gòn tại Lăng Ông.

Tả quân Lê Văn Duyệt lúc sinh thời là bậc kì tài quân sự, ông là nhà chính trị song toàn, một trong những khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ở cương vị Tổng trấn, Lê Văn Duyệt đã đóng góp công trạng rất lớn vào việc bảo vệ và phát triển bờ cõi phía Nam của Tổ quốc. Những quyết sách cách tân táo bạo tuy mâu thuẫn với quan điểm của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ nhưng lại cho thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, nhất là qua phát kiến và chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, con kênh mang tầm chiến lược quan trọng vào bật nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa nền kinh tế vùng “đặc khu” ngày càng đạt đến sự thịnh vượng.

http://nd8.upanh.com/b2.s13.d5/c05d1ba6e0d54dd0ee86f674726ebde3_36299228.214kpvn1129.jpg

< Khuôn viên rộng lớn của Lăng Ông với nhiều cây xanh là nơi khởi nguồn sáng tác cho nhiều nghệ sĩ.

Từ lâu hình tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đã đi vào tâm thức của người dân Gia Định và miền Nam nước Việt. Dân gian coi ông như một vị thần nên các nghi thức tưởng nhớ ông đã trở thành hoạt động tín ngưỡng dân gian. Vì thế, hàng năm, dân chúng vẫn thường tổ chức ngày lễ giỗ Đức Thượng Công và lễ khai ấn đầu năm để tưởng nhớ đến công lao của ông.

Cho đến nay, lịch sử tuy vẫn có những góc nhìn khác nhau về cuộc đời Lê Văn Duyệt, nhưng công lao của ông trong việc tạo dựng nên một vùng thành Gia Định tấp nập và hưng thịnh thuở xưa thì ai ai cũng phải kính nể. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, “Thượng Công miếu” vẫn sừng sững uy nghiêm minh chứng cho một thời kì mở cõi hào hùng của dân tộc.

(Theo BAVN)

hung vi
09-10-2011, 06:18 PM
http://nd8.upanh.com/b1.s5.d4/61cbb64171c19d383f11a665393beab1_36299488.510thaptuonglong.jpg

Quần thể di tích tháp Tường Long nằm trên núi Ngọc, thuộc phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn là di tích khảo cổ học được xếp hạng cấp quốc gia năm 2005 và cũng là công trình văn hóa kiến trúc độc đáo, di tích lịch sử gắn với đời nhà Lý thế kỷ XI.

Tháp Tường Long tự hào là một trong 3 công trình cùng với Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (Kiến Thụy), đền Gắm (Tiên Lãng) chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội của Hải Phòng.

Tháp Tường Long được xây dựng vào thời vua Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này được xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000 m2, thuộc địa phận phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn. Bốn góc tháp đều nghiêng vào tâm, lòng tháp rỗng và là nơi đặt pho tượng A di đà

http://nd4.upanh.com/b4.s11.d4/b55fa5b673543b14c06f35739c13901a_36299534.imageview.jpg

Công trình được xây bằng gạch và đá có kích thước khác nhau. Ngoài loại gạch xây còn có loại gạch ốp ngoài vỏ tháp với nghệ thuật trang trí độc đáo như hoa sen, hoa cúc, hoa chanh. Cách trang trí này biểu hiện nghệ thuật kiến trúc điển hình thời Lý.

Tháp Tường Long đã từng được liệt vào hạng đại danh lam cùng với chùa Long Đọi (Duy Tiên - Nam Hà), chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, chùa Thắng Nghiêm, Chân Giáo (Hà Nội), tháp Chương Sơn (Ý Yên - Hà Nam)... dưới triều nhà Lý (1010 - 1225).

Theo sách Đại Việt sử lược thì năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây tháp. Sau ngài nằm mộng thấy rồng vàng bèn ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là “thấy rồng vàng hiện lên” để ghi nhớ điềm lành.

http://nd5.upanh.com/b1.s3.d4/215169709c42bf566a1e7f0f6d1db945_36299565.061mattienchua.jpg

Lại có người cho rằng, cửa biển Đồ Sơn là một trong những cái nôi tiếp nhận cho dựng tháp ở đây để thờ Phật. Khi xưa, có thể nơi đây còn là một đài quan sát nằm trong hệ thống “truyền đăng”. Mỗi khi có biến, các trạm quan sát ven biển liền đốt cỏ khô cho khói bay lên trời, truyền tín hiệu báo động về kinh thành.

Tháp Tường Long có 9 tầng, cửa mở hướng Tây, phía xuất phát của đạo Phật. Tháp cao 100 thước (đơn vị đo lường thời Nguyễn), tương đương cao khoảng 40-50 m. Song vì được xây trên đỉnh núi cao hơn 100m so với mực nước biển nên tháp Tường Long ở bình địa cao nhất so với các tháp xây cùng thời.

http://nd1.upanh.com/b2.s3.d2/cab1571a6bbd6914bfd3fbf5cd78417b_36299581.061divatthapcotuonglong.jpg

Tháp Tường Long nay chỉ còn là nền tháp hình vuông, mỗi chiều 7,86m, bề dày của tường là 3m. Móng tháp hình vuông, mỗi chiều tới 15m, lòng tháp rỗng, nơi đặt tượng Phật có diện tích 9 mét vuông. Tháp Tường Long nhiều lần được tu tạo và khôi phục trong triều Trần và triều Lê, nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), triều đình nhà Nguyễn đã cho phá tháp để lấy gạch xây thành Hải Dương.

Bên cạnh tháp còn có chùa Vân Bản được xây ở thời Trần với chuông Vân Bản, một trong những chuông cổ và to nhất của nước ta hiện được lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Cùng với di tích lịch sử văn hoá đình Ngọc, suối Rồng, tháp Tường Long tạo ra một quần thể du lịch sinh thái - lịch sử - văn hoá nổi tiếng của Đồ Sơn.

http://nd1.upanh.com/b4.s4.d2/86f535d6d229bd2b1b9bc08d7c5d7a9f_36299661.daidienchuatam358755493.jpg

Dự án phỏng dựng, tôn tạo tháp Tường Long - chùa Tháp được thành phố phê duyệt và giao cho quận Đồ Sơn làm chủ đầu tư có tổng vốn lên tới gần 180 tỷ đồng. Dự án thực hiện từ 2009-2015, trong đó chùa Tháp dự kiến hoàn thành trong năm 2010; giai đoạn 2009-2011 xây dựng tháp Tường Long, nhà che hố khảo cổ

http://nd0.upanh.com/b5.s15.d2/1e98244d376d9ee681c59648d8a3f65c_36299720.p1120935500x375740997314.jpg
Theo báo cáo của UBND quận Đồ Sơn, đến nay quận đã thực hiện 16/19 gói thầu trong Dự án phỏng dựng, tôn tạo tháp Tường Long - chùa Tháp. Trong đó 5 gói thầu đã triển khai xong như: Khảo sát địa chất, địa hình; thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công các công trình văn hóa; đánh giá tác động môi trường; khảo sát địa hình, lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/500; rà phá bom mìn, vật liệu nổ với tổng giá trị các hợp đồng gần 5 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, các đơn vị thi công đã triển khai chế tác cơ bản xong phần gỗ và tượng đồng của chùa Tháp, đang triển khai thi công xây dựng nhà tam bảo; xây kè, san lấp mặt bằng; đang thi công móng tháp Tường Long. Đặc biệt, ngày 2-10, Thành hội Phật giáo Hải Phòng phối hợp với quận Đồ Sơn tổ chức lễ rước tượng Phật về chùa tháp Tường Long và đúc chuông nặng 1 tấn. Ngày 8-10, quận Đồ Sơn sẽ tổ chức các hoạt động kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội tại tháp Tường Long - chùa Tháp.

(Theo báo Hải Phòng)

hung vi
09-10-2011, 06:27 PM
http://nd9.upanh.com/b3.s4.d3/0d449bfecd076b1e94169ec3ce5e5fb3_36299959.goquanlad44ac.jpg

Cây thị đại thụ có đến nghìn tuổi, là một trong bốn cây đại thụ nằm trên mom cao của vùng Thất Tinh có nhiều huyền tích nhất, giờ lá vẫn xanh um tùm cả góc sân đình Quán La, Tây Hồ, Hà Nội.

Bao giờ cũng vậy, cây to luôn được người dân tôn thờ và xưa nay có nhiều suy nghĩ cho rằng, ở gốc cây đại thụ là nơi thiêng hoặc là nơi của những hồn ma thường hay trú ngụ. Chính vì vậy mà mỗi gốc cây to luôn chứa đầy hơi hướng tâm linh ở đó.

Chẳng có kiểm chứng về điều này, song, ở bất cứ gốc đa hay cây cổ thụ xù xì gốc dễ thì luôn có những chân hương đã cháy hoặc những ban thờ nho nhỏ, điều đó đã chứng tỏ từ xưa nay người ta đều có chung một suy nghĩ, hướng tâm tín về những giá trị riêng của cây đại thụ.

http://nd3.upanh.com/b4.s2.d4/4349c530919cde6c4b41ba8f674db1d2_36300013.270811thoisucaythi02.jpg
“Cây thị có ma, cây đa có thần”

“Làm gì có ai kiểm chứng được lời nói ấy thực hư ra sao, nhưng tôi đố ai dám động đến cây cổ thụ đấy, không tin anh cứ để ý mà xem, chỗ nào có cây cổ thụ khi làm đường đi người ta còn phải tránh đấy”- Thủ từ Nguyễn Văn Lương triết lý. Thực tế tôi cũng kiểm chứng, và khớp với quan điểm của cụ Lương. Dễ thấy nhất là cây đề đứng giữa phố Trấn Vũ, đường đi cũng phải tránh nó, rồi cây đề đứng xẻ đôi đường phố Thụy Khuê…những cây ấy, nó tồn tại được thế cũng là vì tuổi tác và sự huyền tích về thế giới tâm linh nào đó.

Cây thị nghìn tuổi ở đình Quán La, phường Xuân La nó được người dân trong vùng biết đến như câu chuyện cổ tích. Cây thị thân to, cành tán rộng nằm trên mom cao trước cửa sân đình Quán La. Theo cụ thủ từ Nguyễn Văn Lương thì, cây thị này đặc biệt lắm,mùa xuân thì lộc non xanh biếc, mùa hạ chim về ríu rít, nhưng bặt nỗi nó chỉ ra 1 quả trong mỗi mùa.

Lạ thế! Người dân không biết về sao nó lại thế, có nhiều đồn thổi, thêu dệt liêu trai, còn theo ý kiến chủ quan của thủ từ Nguyễn Văn Lương thì thuộc tính tự nhiên của giống cây cối ra quả là giống cái, còn cây không có quả là cây giống đực.

Người dân trong vùng quen rồi thì thấy ít sự khác lạ, có người thấy nó bình thường như bao cây cối khác. Còn khách vãng lại thì cứ xuýt xoa về câu chuyện cây thị chỉ có 1 quả vào mùa mà thủ từ Nguyễn Văn Lương kể. Nhiều người hiểu biết về văn hóa lịch sử còn bảo, sao không đề xuất nghiên cứu về sự đặc biệt của giống cây này

http://nd2.upanh.com/b1.s3.d1/97aedffdfe17392812d9c72b2cfdf8a0_36300082.270811thoisucaythi01.jpg

Nhiều người nói, nhiều lần các vị giáo sư về lịch sử cũng đánh giá, thế nhưng mãi đến năm 2010 bà con người dân ở Xuân La, mà khởi xướng là ông Nguyễn Văn Ngư, Trưởng BQL di tích đình Quán La mới họp bàn rồi làm đề xuất gửi quận, rồi gửi thành phố đề cử mấy cây đại thụ này vào di sản thiên nhiên.

Điều đặc biệt, đứng ở cổng tam quan đình Quán La người ta hướng mắt về phía trước mặt sẽ thấy được cây thị và cây đa có cành hướng vào như như 2 cánh tay của 2 người với lại nhau. Khoảng trống rỗng trong thân gốc đa có thể chứa được hàng chục người lớn, bóng tỏa mát cả chợ cóc họp bên đường làng. Chị Nguyễn Thị Tuyết bán rau dưới gốc đa cho biết: “Sóc trên cây này gan lắm, chẳng sợ người đâu, có hôm đang bán hàng, nó đuổi nhau rơi cả xuống người, sợ hết vía”…

http://nd8.upanh.com/b5.s13.d5/0fa9b10fec7e3824ddb27a3a51cd1247_36300248.270811thoisucaythi03.jpg

Huyền tích hay sự tích đều là câu chuyện của người tâm tín về giá trị của thiên nhiên, cây cối có bề dày thời gian. Và chính cái thời gian đã làm cho những cây đại thụ trở nên có giá trị đặc biệt về tâm linh, về mặt sinh thái. Theo như quan sát thực tế, cây thị nằm trên mô đất cao hơn cả ở trước cửa đình Quán La. Cây thân gỗ khoảng 3 người lớn vòng tay, có miếu thờ trang trí hoa văn rồng phượng. Được biết, vào ngày tuần rằm, mồng 1 người dân thường đến thắp hương cầu bình an.

Trong sách Tây Hồ chí thì đình Quán La có từ thế kỷ thứ 11. Khi đó, vùng này nước mênh mông, sông Già La uốn lượn quanh ôm 7 quả núi nhô lên cao. Vì thế nơi này còn gọi là vùng Thất Tinh. Và đình Quán La là nơi người dân thờ vị sơn thần Duệ Trang có công giúp dân bớt khổ ải.

Quần thể di tích đình, chùa Quán La đã được nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu đánh giá cao về bề dày lịch sử. Cùng với di tích là hai cây đại thụ hai bên cửa đình, có thời gian đến nghìn năm, như tô thêm giá trị vốn có về cụm di tích phía tây thành phố.

Tại sao cây thị chỉ ra một quả vào mỗi mùa, điều này ngay chính cả người gắn bó với nó qua 70 mùa cũng không thể biết được. Và điều đặc biệt này, đến nay cũng chưa có ai nghiên cứu để lý giải về sự lạ kỳ ấy. Song, điều quan trọng hiện nay không phải cây thị có 1 hay sai trĩu quả và cây đa có hàng nghìn tuổi, mà cái quan trọng là nó đã từng gắn bó với làng xã nơi này từ thuở xa xưa như sự minh chứng về thời gian giữa thiên nhiên trời đất ở phía Tây hồ Tây mang đầy huyền bí, sự tích

( Theo An Ninh TD)

hung vi
09-10-2011, 06:46 PM
http://nd3.upanh.com/b5.s1.d1/016e0cdff46e247c295e6cc9377a6d13_36300743.031030t620227.jpg

Dấu chân đủ 5 ngón hằn sâu 30cm, dài 80cm trên vách đá được người đời cho là dấu chân ông Bành Tổ, gót ngọc tiên nữ cùng dấu chân ngựa được tìm thấy bên bờ suối cùng giếng sâu 2m không bao giờ cạn là những chi tiết khó lý giải ở quanh chùa Chân Tiên.

Lời nguyền trăm năm...

Núi Am Tiên là một trong hệ thống 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh, được tôn xưng là “Am Tiên đệ nhất danh lam” nổi tiếng khung cảnh nên thơ hùng vỹ. Sự ra đời của ngôi chùa Chân Tiên gắn với những câu chuyện mang màu sắc huyền bí về truyền thuyết Tiên giáng trần được dân gian truyền tụng từ xưa.

http://nd8.upanh.com/b5.s3.d2/a4e2b2fa57aaa4999436dfcf553ef504_36300798.031030t620239.jpg

Tiên giáng trần trên núi Am Tiên

< Bụi Mai này quanh năm xanh tốt, theo thuyền thuyết thì bụi Mai này do một tiên nữ trồng.

Chúng tôi tìm về núi Am Tiên, nằm trên địa bàn xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), vào một ngày giữa tháng 7, cái nắng mùa hè bỗng dưng tan biến khi đặt chân tới chân núi này. Khung cảnh thơ mộng, hùng vĩ làm nên một bầu không khí mát mẻ, dễ chịu
http://nd5.upanh.com/b1.s4.d3/7ad22144e810c97724b134f6b54af8d5_36300815.luhanh6.jpg

Được bác Nguyễn Dương Bình, 62 tuổi, người có thâm niên 20 năm trông coi ngôi chùa dẫn đường, chúng tôi phải leo hàng trăm bậc đá mới đặt chân lên đến đỉnh Am Tiên, nơi có chùa Chân Tiên ngự trị. Ai đã từng đặt chân đến đây đều không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh đẹp như một chốn thần tiên. Cũng vì thế mà người ta phong cho nơi đây là “Am Tiên đệ nhất danh lam”.

Ông Bình cho biết, rừng thông nằm trên đỉnh Am Tiên là của tự nhiên, không phải do con người trồng mà nên. Tất cả những gì thuộc về núi Am Tiên đều là của thiên nhiên. Người dân Thịnh Lộc tồn thờ ngôi chùa và quý trọng những báu vật mà thiên nhiên ban tặng cho người dân nơi đây. Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, vào ngày 3/3 Âm lịch bà con nhân dân, các vị tăng ni phật tử, du khách và đạo hữu gần xa lại về lễ chùa vãn cảnh, cầu nguyện và trở thành ngày hội truyền thống của nhân dân địa phương, một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống tinh thần của những người con quê hương Thịnh Lộc và trong vùng này

http://nd5.upanh.com/b3.s13.d2/7d9e26dff990e87252e618afa955c2ef_36300835.031030t620244.jpg Dấu Tích Mang Sắc Huyền Bí
Núi Am Tiên nằm cuối dãy Ngàn Hống (TX. Hồng Lĩnh), sát với biển Đông. Đứng trên đỉnh nhìn xuống xung quanh là rừng thông mọc tự nhiên trùng điệp bốn mùa xanh tươi. Không chỉ là nơi có “tiên giáng trần” mà xung quanh ngọn núi này còn mang nhiều câu chuyện đậm chất li kỳ khác. Theo dân gian truyền lại thì do có phong cảnh hữu tình nên núi Am Tiên là nơi có nhiều thần tiên từng đặt chân chu du chốn này.

Hiện nay, nhiều dấu tích còn để lại mà người dân ở đây cho rằng đó những là gì còn sót lại của các vị tiên đặt chân đến như: Động Trúc, Động Mai, Động Thạch Thất, Động Đá Người… nhiều hang đá xưa có tiếng như: Đá Bắt Chí, đá Giả Gạo, đá Cối Xay, Hang 12 cửa… Nhưng thể hiện rõ nhất để minh chứng cho việc các thần tiên từng đặt chân đến đây đó là: Dấu chân ông Bành Tổ, Vết chân Tiên nữ, Vó ngựa, suối Ngọc hay Bàu Tiên, bàn cờ Tiên, giếng Tiên, thạch kim quy… Mỗi dấu tích này gắn với một câu chuyện rất kì bí, khó giải thích được

http://nd4.upanh.com/b4.s13.d3/df1521d3a54df27c750521a57c8a2c69_36300934.031030t620241.jpg

< Vết chân hằn trên các phiến đá mà dân gian cho là vết chân Tiên.

Cách chùa Chân Tiên 50m về phía hướng Đông nằm trên một tảng đá hoa cương có hình dấu chân phải mà dân gian cho là dấu chân của người khổng lồ. Tương truyền đây là dấu Chân ông Bành Tổ để lại sau khi xuống trần gian ngoạn cảnh. Bàn chân in xuống tảng đá có đủ 5 ngón, sâu 30cm, dài 80cm, mũi bàn chân hướng về phía nam.

Ông Bình cho biết thêm, truyền thuyết kể lại, xưa kia có một đoàn tiên nữ, sau khi xin phép mẫu Cửu Trùng xuống thăm thú chốn hạ giới đã chọn đỉnh Am Tiên làm nơi dừng chân.

Một số tiên nữ, sau khi vãn cảnh núi sông, hang động… đã rủ nhau xuống bàu Tiên ngay trước mặt đỉnh Am Tiên tắm, rồi lại rủ nhau lên một tảng đá cạnh hồ ngồi đánh cờ. Một số tiên nữ khác vì say mê cảnh hoa thơm cỏ lạ, suối thác hiền hòa nên chẳng chịu rời.
http://nd9.upanh.com/b2.s7.d1/dbc5519f2cdaf74b85f5fdba30fd3468_36300979.031030t620248.jpg


< Cụ rùa nằm bên cạnh giếng Tiên.

Rồi có một nàng tiên, trong một lần đuổi theo con bướm vàng 6 cánh đã vô tình dẫm phải lông của một con nhím. Chân bị đau, nàng không thể đi được nên đã phải dùng ngựa để về Trời. Trước khi về, các nàng tiên khác đã dùng nước suối Ngọc để rửa chân cho nàng và chẳng may gót ngọc in dấu trên mặt đá cùng dấu chân ngựa thần. Bởi thế ngày nay ở phía bắc của chùa Chân Tiên vẫn còn in hai dấu chân, một dấu chân người và một dấu chân ngựa.

Nằm cách đó không xa, có một cái giếng sâu khoảng 2m, tuy nhiên theo bác Bình thì: “Tôi đã trông chùa 20 năm nay nhưng chưa bao giờ thấy cái giếng này khô nước”. Cũng chính vì vậy mà người đời gọi giếng này là Giếng Tiên
http://nd1.upanh.com/b2.s18.d2/b2d96ffaa747ea2fe5c813675d08615e_36301021.031030t620246.jpg


< Giếng Tiên chỉ sâu khoảng 2 mét nhưng nước không bao giờ cạn.

Tuy nông nhưng nước giếng trong xanh và là nguồn cung cấp nước ăn, uống, sinh hoạt cho chùa Chân Tiên. Sát bên cạnh giếng Tiên có một con rùa đá dài gần 1,5m, chiều ngang mai rùa rộng gần 90cm, với đầy đủ đầu, mắt và mai. Theo dân gian truyền lại, con rùa này là linh hồn của giếng Tiên, nó có nhiệm vụ trông coi giếng để không bao giờ cạn nước. Người dân nơi đây vẫn tin vào điều đó và lập bàn thờ để cúng thờ cụ kim quy này.

Đó là vài trong những vô số câu chuyện truyền thuyết được lưu truyền về một chốn thần tiên mang màu sắc huyền bí. Mặc dầu, đây chỉ là truyền thuyết nhưng nó cũng mang đến cho du khách một sự ngạc nhiên về sự trùng lặp các dấu tích Tiên mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.

Cũng nhờ cảnh đẹp, thơ mộng cùng với những câu chuyện kì bí trên nên ngày nay núi Am Tiên được xem là điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du khách về đây tham quan của tỉnh Hà Tĩnh. Nhiều người lần đầu đặt chân đến đây đã phải thốt lên:
http://nd5.upanh.com/b5.s7.d1/fab2ba17a9db29b7f873eed3888e205e_36301115.anh1.jpg


< Theo giai thoại, đây là nơi tiên ông từng ở.

“Kỳ lạ thay tiên giáng mấy ngàn năm
Dấu chân tiên vẫn còn trên mặt đá
Là xứ Tiên nên núi rừng đẹp lạ
Hay núi rừng đẹp quá Tiên say”

Tuy nhiên để Am Tiên thực sự trở thành điểm du lịch bậc nhất nhì ở Hà Tĩnh thì cần có sự đầu tư hơn nữa của các cấp chính quyền, đưa nơi đây trở thành khu du lịch sinh thái đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan
Những truyền thuyết gắn liền với ngôi chùa

Chùa Chân Tiên đã tồn tại hàng trăm năm tuổi. Ngôi chùa tọa lạc trên đỉnh Am Tiên từng trải qua bao thế hệ, được người đời gìn giữ trông coi, hương đăng, thờ phụng. Dần chùa trở nên sầm uất và linh thiêng nằm ẩn mình dưới rừng thông tĩnh lặng. Sự tích ra đời của ngôi chùa gắn liền với những truyền thuyết kì bí liên quan đến Thần Tiên.


http://nd5.upanh.com/b3.s13.d4/20cb64f0a6b4d532476f4b99b8612df5_36301175.luhanh5.jpg


< Chùa Chân Tiên.

Chùa Chân Tiên hay còn gọi là Chân Tiên Tự được cho là xây dựng vào thời nhà Trần (Thế kỷ XIII). Theo các bậc cao niên ở đây kể lại, thời đó có một nàng Tiên khi bị cha ép lấy chồng không chịu lấy nên bỏ xứ sở thần tiên ra đi. Khi đi nàng lấy một cây mai làm gậy. Nàng đi mãi, đi mãi rồi sau đó rơi xuống núi Am Tiên. Khi đặt chân xuống đây, nàng vùi cây Mai xuống đất và nó đã mọc thành một bụi Mai rậm rạp, xanh tốt. Hiện tại bụi Mai này vẫn quanh năm xanh tốt không kể mùa hè nắng nóng hay mùa đông lạnh giá.

Có câu chuyện khác lại được truyền miệng trong dân gian rằng, hồi đó ở địa phương có ông Đùng (ông khổng lồ) sức khỏe phi thường, có tài chuyển núi, dời non. Một ngày nọ, ông vần tất cả những quả núi ở vùng châu thổ sông Lam và sông La xếp thành dãy núi Hồng Lĩnh. Tên các ngọn núi được đặt theo dáng hình Ngũ Mã (hình năm con ngựa), Sư Tử, Hàm Rồng….

http://nd2.upanh.com/b4.s17.d1/49d8f8a28d74fd180887089cedb2778d_36301332.imageview.jpg

< Du khách đi xe máy trên dãy ngàn Nưa lên di tích chùa Am Tiên để thắp hương tưởng nhớ Bà Triệu tại đền thờ bà ở đỉnh núi Nưa, thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn (Thanh Hóa).

Một lần ông Đùng gánh 2 quả núi thì gãy đòn gánh nên bị ngã. Hai quả núi rơi xuống được người đời đặt tên là núi Am Tiên (thuộc huyện Lộc Hà ngày nay) và Rú Bờng (thuộc huyện Can Lộc ngày nay). Đòn gánh mà ông Đùng gánh hai quả núi kia tạo thành một dải cát vàng nối liền và là ranh giới giữa hai huyện Lộc Hà và Can Lộc. Tương truyền, thời vua An Dương Vương mở nước từng đặt chân đến nơi này.

Bởi thế, bao quanh đỉnh núi này là hàng trăm câu chuyện mang màu sắc huyền bí mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.

(Theo Bưu Điện VN)

hung vi
09-10-2011, 06:55 PM
http://nd4.upanh.com/b6.s2.d4/6f433f4340b23ee74739668ff39d22df_36301484.dsc03105.jpg

Động Thiên Tôn nằm ở khu vực Hang Nước núi Dũng Đương, là một trong những hệ thống các danh sơn nằm trên địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

< Cổng vào động Thiên Tôn.

Di tích này cách thành phố Hoà Bình hơn 90 km về phía nam, cách Nho Quan 7km, đờng đi thuận tiện, thắng cảnh hang nước và động Thiên Tôn thật sự là một điểm du lịch.

Hang Nước và động Thiên Tôn nằm trong lòng hai quả núi Nước và núi Miếu, là hai ngọn núi liền nhau trong quần thể 99 ngọn núi của xã Ngọc Lương, huyện Yên Thuy. Hồ nước, cánh đồng và dáng núi uy nghi đã tạo cho cảnh quan nơi đây thật hữu tình, thơ mộng. Cái đẹp không chỉ ở dáng núi, sắc trời mà còn ẩn giấu trong các hang động.

http://nd6.upanh.com/b1.s18.d1/b1a9f9c3afe0655a673797576d65a2cd_36301516.800pxcodohoaluc3.jpg

Dũng Đương sơn” hay “Vũ Đương sơn” có nghĩa là núi chắn dòng nước mạnh từ trên chảy xuống. Ba chữ “Dũng Đương sơn” đồng thời cũng được viết dưới cổng vào trong động thờ thánh Trấn Vũ Thiên Tôn.

Trấn Vũ Thiên Tôn hay Chân Vũ Đế Quân chính là Huyền Thiên Thượng đế Kim Thuyết hóa thân, với vai trò tổng chỉ huy thiên binh, thiên tướng, được cử xuống trần để trừ yêu, đẹp loạn.

http://nd7.upanh.com/b6.s17.d2/0ceff21447371fa00b2e317b4dc7f46a_36301587.dsc03142.jpg

Thiên Tôn là vùng đất “tú thủy kỳ sơn”, địa thế núi sông hòa phối, công thủ vững vàng nên hai vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đã lấy động này làm tiền đồn, vọng các tiền tiêu cho kinh thành Hoa Lư.

Theo truyền thuyết, động Thiên Tôn được phát hiện vào thời Hùng Vương. Đến thời nhà Đường đô hộ, đạo sỹ Cao Biền đã cho xây dựng đền thờ Trấn Vũ Thiên Tôn hòng trấn long mạch đế vương sẽ phát tại vùng này.

Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước phong kiến tập quyền độc lập đầu tiên ở nước ta. Trước khi cất quân chinh phục các sứ quân khác, ông thường tới động Thiên Tôn lễ cầu Thần phù hộ và đã linh ứng, nhiều lần được Thần giúp đỡ chiến thắng. Khi lên ngôi hoàng đế, ông đã phong Thần là “An Quốc Tôn Thần” (vị tôn thần giữ gìn cho đất nước bình yên); đồng thời cho sửa sang lại động và xây đền thờ ở phía đông của động gọi là An Quốc Tôn Thần từ, tức đình Hàng Tổng bây giờ.

http://nd1.upanh.com/b5.s15.d2/a16474d61f4b463a5dd85ceaeb6b7248_36301641.dsc03133.jpg

Sau khi rời đô ra Đại La, vua Lý Thái Tổ vẫn cho xây dựng ở nơi đây nhiều công trình kiến trúc với quy mô lớn. Đến thời Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo khu vực này đều được chú ý xây dựng, tôn tạo. Trong động Thiên Tôn vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật thờ tự có giá trị văn hóa, lịch sử như 18 tượng la hán, hệ thống nhang án, bệ thờ bằng đá với các hoa văn “lưỡng long chầu nguyệt”, hình chim phượng, hoa lá... được chạm khắc rất công phu, tinh xảo. Đặc biệt, còn có quả chuông kích thước khá lớn, có bốn núm, phát ra bốn kiểu âm thanh khác nhau, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786)

http://nd1.upanh.com/b3.s7.d4/ca3a0495bd3ebfa2fb4c406bdb636754_36301671.a.jpg

Qua vòm cửa hang Nước, lội theo dòng nước mát trong hang là cả một thế giới muôn màu, muôn vẻ, sống động của các sinh linh đã hàng triệu năm hoá đá. Hang Nước có chiều dài hơn 500m, chia thành hai vòm động lớn, với vô số hình hài bằng đá. Hầu như không một khối nhũ nào lại không gợi cho chúng ta những hình ảnh quen thuốc: con rùa đang bò, con voi đang cúi đầu uống nước, con sư tử đang vươn mình, con cá sấu trườn xuống dòng nước trong vắt và cây nấm màu hồng khổng lồ. cả một vòm hang sáng rực lung linh như cung điện của vua chúa xa xưa

http://nd5.upanh.com/b2.s18.d2/f54c99ca34a5baf4f163c5d6a6934417_36301735.dsc03133.jpg
Động Thiên Tôn nằm chếch phía trên cửa hang Nước. Lên theo bậc đá, du khách gặp một của động thoáng mát. Cáng vào trong, du khách càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của tạo hoá. Nền động khô ráo, lối đi dễ dàng, quanh co theo các cột đá. Qua ánh đèn, du khách mặc sức tưởng tượng, chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc có một không hai mà thiên nhiên đã ban tặng
http://nd8.upanh.com/b6.s20.d1/208e7312d2c7f8836e61b57b2e30cd3f_36301808.dsc03091.jpg

Những năm 1930 - 1945, cùng với việc thành lập các chi bộ Đảng ở Trường Yên, di tích động Thiên Tôn là nơi trú chân của các chiến sỹ cách mạng. Ngày 20/8/1945, hơn một vạn quần chúng nhân dân ở các vùng Nho Quan, Gia Viễn, Gia Khánh cùng các đội tự vệ có vũ trang gậy gộc, giáo mác đã tập trung ở phía trước động Thiên Tôn với cờ đỏ sao vàng, các biểu ngữ mang dòng chữ: “Việt Nam độc lập”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Thành lập chính quyền cách mạng nhân dân”... với khí thế sục sôi cách mạng, đoàn quân đã kết hợp với quân dân các vùng lân cận khởi nghĩa chiếm lại chính quyền ở tỉnh lỵ Ninh Bình từ tay phát xít Nhật.

Với giá trị về văn hóa, lịch sử, tâm linh, năm 1962, quần thể di tích chùa và động Thiên Tôn đã được Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử tâm linh cấp quốc gia. Đây cũng là một cảnh quan có tầm vóc nằm trong quần thể du lịch, tâm linh Tràng An - Tam Cốc - Bái Đính

(Theo Go Tổng Hợp)

hung vi
10-10-2011, 10:50 AM
http://nd6.upanh.com/b4.s11.d3/0196487b7feebefca1aff219d3cc93b9_36329936.316.jpg

Trong 10 kiến trúc cổ đặc sắc của Việt Nam thì xứ Đoài chiếm đến 3, gồm chùa Tây Phương, đình Tây Đằng và đình Chu Quyến.
.
Chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương tên chữ là Sùng Phúc Tự, tọa lạc trên trên núi Tây Phương, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chùa được Cao Biền xây dựng, Tây Đô vương Trịnh Tạc sửa sang lại, nhưng đến năm 1794, dưới thời nhà Tây Sơn, chùa mới được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Theo Bảo tàng Kiến trúc Việt Nam, đây là ngôi chùa có lối kiến trúc cổ độc đáo bậc nhất. Nó không chỉ tập trung trí tuệ, tinh hoa, sáng tạo của cha ông, mà còn là sự kết hợp hài hoà trong vật liệu, kết cấu, hình khối, ánh sáng, khí hậu tạo nên đỉnh cao cho nghệ thuật kiến trúc.

http://nd6.upanh.com/b4.s20.d1/43caa785c78e5c84996aedbfe79a3c7b_36330006.ckinhchuatayphng.jpg

Chùa được xây dựng trên một quả đồi yên tĩnh với không gian sáng tạo từ lối chân đồi lên tới cổng chùa. Đi hết 200 bậc thang xây bằng đá ong, hai bên đường là thành đất, vườn cây là tới khu đất nơi chùa toạ lạc, công trình được bố trí ngoài có cổng chùa nhỏ, không tam quan, không gác chuông.

Chùa gồm 3 lớp chính, song song theo hình chữ "Tam", xây thành các khu biệt lập. Chùa và sân thông suốt nhau, tứ phía quây lại kín sân thiên tỉnh thành hình khung cửa sổ dài, mở thẳng lên trời đón khí và ánh sáng. Tuy nhiên, ánh sáng vừa phải để tạo được vẻ thâm nghiêm cho công trình.

Bộ mái của chùa được coi là đoá hoa đao đình bởi sự xử lý và thủ pháp nghệ thuật, tỷ lệ chuẩn mực. Trung tâm của chùa có 3 lớp chùa đã xây gần như sát vách, lợp chồng diềm có tất cả 24 đoá đao cỡ lớn. Mái cong và cao, hai hoa nối với nhau thành chiều cao gấp đôi 2.20m+2,20m nên tạo được ánh sáng tốt cho công trình. Mái lợp ngói mũi hài, tạo thành 2 lớp chồng diêm. Vì thế dễ dàng nhận thấy tính liên hoàn của công trình

http://nd8.upanh.com/b2.s13.d5/b32ca9f1d63c4fe3c56ce2be288612d4_36330128.17351940851426e4tamquan.jpg

Giữa sân là một hồ nước nhỏ, vào mùa khô hồ luôn giữ được độ ẩm nhất định, chống nứt nẻ của các kết cấu và tượng gỗ bên trong công trình. Mái chùa theo lối chồng diêm (bốn mái trên, 4 mái dưới chồng lên nhau, hai lớp cách nhau một khoảng ngắn có tên là “cổ mái” hay “cổ diêm”). Các đầu đao cong vút tạo vẻ nhẹ nhàng thoáng đạt cho công trình. Trên bờ nóc mái trang trí những hình rồng sinh động và những con vật trong thần thoại được xếp chồng lên nhau thể hiện bằng những đường cong tạo vẻ đẹp thanh thoát cho công trình.

Hệ thống kết cấu của chùa theo lối “chồng rường giá chiêng” nhưng thay cho “kẻ” thì lại dùng “bẩy”, bẩy không nằm nghiêng mà nằm ngang để đỡ phần mái đua ra. Đối với mái tầng trên cột quân còn đứng trên xà nách của mái tầng dưới… đây là kiểu dáng kiến trúc độc đáo thế kỷ 17.
Ngoài bố cục kiến trúc đẹp, chùa Tây phương còn nổi tiếng vì có hệ thống tượng độc đáo như tượng Tuyết Sơn, Mã Minh và 18 vị La Hán là những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đương thời mang đậm tính dân gian, ý nghĩa triết lý nhân sinh, cuộc sống dân giã đời thường và tính thiêng liêng của Phật pháp.
http://nd5.upanh.com/b2.s7.d3/50b1da2049ccabece48c8291e2da121d_36330235.cd410ktruc2.jpg

Đình Tây Đằng

Tây Đằng đứng đầu trong chuỗi đình của đất Quảng Oai, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 với chất liệu gỗ và bố cục nguyên thủy: mặt nằng hình chữ nhật, năm gian, nơi thờ trên gác lửng ở gian giữa. Tả mạc, hữu mạc, chuôi vồ xây thêm vào các đời sau.

Đình Tây Đằng gồm có kết cấu trồng rường giá chiêng, gồm 5 gian. Có 8 hàng cột ngang và 6 hàng cột dọc, tổng cộng là 48 cây cột gỗ trong đó những cây cột lớn nhất có đường kính lên tới 80 cm. Các cây cột này đỡ hệ mái lợp ngói có các đầu đao cong trang trí hình rồng, phượng, lân, rùa bằng đất nung. Xung quanh để trống chứ không làm tường. Các chi tiết chạm khắc trên các phần gỗ theo nhiều đề tài khác nhau.
Tả mạc và hữu mạc là hai ngôi kiến trúc ở hai phía sân trước ngôi đình. Cổng đình gồm 5 cây cột, không có mi. Trên đỉnh cột có trang trí hình lân. Cổng đình rộng theo cả chiều ngang của sân đình từ tả mạc sang hữu mạc.
http://nd7.upanh.com/b2.s18.d1/f38232b823ff73ee2612202f5d785bce_36330327.taydang.jpg

Đình có những bức chạm mô tả và vĩnh cửu hóa cảnh sinh hoạt đời thường: gánh con đi chợ, đốn củi, cày bằng voi, săn hổ, chèo thuyền, con trai ghẹo gái làng, uống rượu… Ngôn ngữ thể hiện cảnh đời của các nghệ sĩ dân gian gần gũi với ngôn ngữ thể hiện của các họa sĩ thế kỷ 20. Chạm trên ván gió đình Tây Đằng là chú voi tung cả bốn chân, vòi, đuôi và toét miệng cươi, cảm giác chú bay như làn gió, quên mất trọng lượng bản thân.

Những thân cột, xà, đầu dư, kẻ bảy đình Tây Đằng tồn tại vượt qua các cửa ải sinh tử: sự mục nát, sự hủy hoại trong bão lũ và trong ngọn lửa, tàn phá và sự tham lam của người đời. Những khúc, mảng gỗ vô giác ấy bảo lưu cả một kho tàng sáng tạo, tình người và khát vọng, làm nhân chứng một thời.
Đình vừa là nơi làm việc của các chức sắc và những người có ảnh hưởng trong làng, vừa là nơi tổ chức các lễ hội của làng, vừa là nơi thờ các thành hoàng của làng (gồm Sơn Tinh, Thánh Gióng, và Thần Nông).

http://nd3.upanh.com/b6.s3.d1/d41d1ea9c5e7c124587dd95873f30e30_36330353.cd410ktruc3.jpg

Đình Chu Quyến

Giống như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến có số lượng hàng cột là 8 hàng và 48 cột tuy kiến trúc có chỗ khác nhau.

Đình được xây dựng từ thế kỷ 17 trên đất xã Chu Minh, huyện Ba Vì (nay thuộc về Hà Nội) và được Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch) xếp hạng là một trong những di tích văn hóa lịch sử đặc biệt quan trọng của Quốc gia.

Đình được đánh giá là ngôi đình lớn nhất xứ Đoài với thiết kế chỉ gồm một tòa đại đình trông rất sừng sững và bề thế gồm hai gian, ba chái, không có một công trình phụ trợ, bổ sung nào.

Như hầu hết các ngôi đình cổ xứ Đoài, đình Chu Quyến có bộ mái đình xòe rộng ra bốn phía, chiếm tới hơn 3/4 toàn thể ngôi đình nhưng lại lan rộng xuống thấp nên càng làm tăng thêm vẻ vững chãi, bề thế của ngôi đình. Bù lại, các đầu đao của mái đều được uốn cong làm cho ngôi đình trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát và duyên dáng gấp bội phần.
http://nd1.upanh.com/b1.s13.d2/080b64ff18a2ed65ebbdce18093c0dee_36330481.20866350images18508521.jpg

Nơi đây có nhiều tác phẩm trang trí đặc sắc được thể hiện cả trên đất nung và trên gỗ.như: con giống làm bằng đất nung được trang trí trên hai đầu nóc, đầu đao; hình ảnh mây lửa mềm mại, hình tượng con lân, đầu rồng mắt to, trợn tròn, miệng há rộng hướng về các đao lửa trên bờ guột của đình…

Bước vào tham quan đình, người xem cũng dễ dàng nhận thấy, các cột ở ngôi đình này đều rất to, chắc chắn; đặc biệt chiếc cột cái có chu vi tới hơn 2,4m. Vì thế mà người dân trong vùng từ lâu thường có câu ví quen thuộc: To như cột đình Chàng.

Các tác phẩm được chạm khắc bằng gỗ trong đình cũng hết sức cầu kỳ, tinh xảo và độc đáo. Những đề tài, khung cảnh vốn quen thuộc hàng ngày trong đời sống của người cư dân nông nghiệp như cảnh làm ruộng, chọi gà, người đánh đàn, người cưỡi hổ, người dắt voi, múa hát… được tái hiện hết sức đặc sắc, sống động.

Giá trị văn hóa lịch sử của đình Chu Quyến còn được thể hiện ở những thần tích và một số di vật cổ, đặc biệt là những đạo sắc phong của các triều Lê Trung Hưng, Tây Sơn và triều Nguyễn phong thần cho Nhã Lang Vương còn được lưu giữ đến tận ngày nay.

(Theo Đất Việt)

hung vi
10-10-2011, 11:21 AM
http://nd7.upanh.com/b5.s17.d2/710d9f52b8c29f5c72411bb51684227c_36331227.332010151437.jpg

Thành Sơn Tây được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) là tòa thành cổ - công trình quân sự duy nhất được xây bằng đá ong ở Việt Nam.
Đây cũng là một trong số ít tòa thành, dưới thời Minh Mạng, còn lại đến ngày nay. Năm 1994, thành được công nhận là di tích lịch sử - kiến trúc quốc gia.

Kiến trúc độc đáo

Thành nằm giữa thị xã Sơn Tây, trên phần đất của hai làng cổ là Thuần Nghệ và Mai Trai, cách trung tâm Hà Nội khoảng 42 km. Trong hồi ký của Charles Edouard Hocquard một bác sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp đã tả lại thành Sơn Tây tháng 4/1884 như sau..

http://nd1.upanh.com/b2.s3.d1/8a6ee774b43809b91f9cb3d51d357640_36331351.2.jpg

< Thành cổ Sơn Tây 1884.

“ ...cách Sông Hồng khoảng 2 cây số. Thành có kiểu hình vuông, mỗi cạnh dài 500m. Một bức tường bao quanh, xây gạch cao 5m. Một cái hào đầy nước rộng khoảng 20m bao quanh thành lũy, hết hào nước là một con đường để đi tuần tra, ngăn cách giữa hào nước với tường thành. Những người An Nam gọi đường đó là đường voi (tượng đạo, đường để voi đi). Ở giữa bề mặt của mỗi bức tường thành có một nửa tháp hình bán nguyệt đường kính 30m, bố trí nhiều lỗ châu mai”. (Chiến dịch Bắc kỳ - Une Campagne au Tonkin)
http://nd0.upanh.com/b2.s8.d4/1eec922464e8ec9c11aebefb2da6a0d6_36331430.1.jpg
< Cổng phía đông thành Sơn Tây.

Thành cổ Sơn Tây được xây theo kiến trúc Vauban, kiến trúc phòng thủ quân sự do một kỹ sư người Pháp thiết kế. Đặc biệt, đây là ngôi thành duy nhất Việt Nam được xây dựng từ đá ong, loại chất liệu có sẵn ở địa phương (từ "gạch" Charles Edouard Hocquard đề cập có thể do cách nói hoặc dịch).

Theo thư tịch cổ, thành trì này có chu vi 326 trượng 7 thước (1306,8m), tường thành cao 1 trượng 1 thước (4,4m). Chu vi hào nước bao quanh thành là 448 trượng (1792m), rộng 6 trượng 7 thước (26,8m), sâu 1 trượng (4m).

http://nd6.upanh.com/b5.s7.d4/d8b4ed99fd8e6f39ebb40d0f523b93ba_36331486.portesuddesontay.jpg
Thành có 4 cửa quay ra các hướng Bắc, Nam, Tây, Đông và lần lượt có tên là: cửa Hậu, cửa Tiền, cửa Hữu, cửa Tả. Trước đây bốn cửa đều có cầu gạch bắc qua hào nước, nhưng hiện nay chỉ có hai cửa chính là cửa Tiền và cửa Hậu, có cầu bắc qua hào nước, dẫn vào cổng thành.

Trục kiến trúc chính của thành là trục nối hai cửa Tiền và Hậu, theo hướng Bắc Đông Bắc - Nam Tây Nam. Cửa Tiền nhìn ra phố Quang Trung. Cửa Hậu hướng ra phố Lê Lợi (nơi đặt trụ sở Ủy ban Nhân dân thị xã Sơn Tây), thẳng tới bờ sông Hồng. Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ (phố Phùng Khắc Khoan). Cửa Hữu hướng ra phố Trần Hưng Đạo (Đệ Nhị cũ), phố này nối với phố Ngô Quyền (Hữu Lợi cũ), chạy thẳng lên làng cổ Đường Lâm (theo đường quốc lộ 32)

http://nd9.upanh.com/b2.s10.d2/a4fb01226e4038ad41ce7ef7642d3e3c_36331539.thanhstmatbac.jpg

< Mặt Bắc thành cổ.

Trong thành có các hạng mục kiến trúc: cột cờ (tức vọng lâu) cao 18m, cửa hành cung, hành cung, hai giếng vuông, phía trước khu nghi lễ (Hành Cung, sân, điện), gần với cửa Tiền. Điện ở đây từng là tòa nhà 5 gian hai trái, tám mái chồng diêm, nằm khoảng chính giữa thành, là nơi làm việc của các quan.

Chứng tích lịch sử quý giá

Người xưa thường rất coi trọng 4 vùng đất là phên dậu che chở cho Thăng Long đồng thời là bàn đạp để triều đình có thể vươn xa ra vùng biên giới. Sơn Tây là một trong Tứ trấn quan trọng đó, bên cạnh Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam và vì thế nó có vai trò vô cùng to lớn

http://nd6.upanh.com/b3.s5.d4/57129e43c6ea2e9ba0105b6d1f527c03_36331576.451875986.jpg

< Thành cổ ngày nay, sau khi được "lên đời".

Khi cho xây dựng thành trì, các nhà quân sự thời đó đã khéo tận dụng những địa hình tự nhiên để đặt vị trí của thành. Cách 2km về phía Bắc thành trì là con sông cái. Phía Tây và tây nam là sông Tích, đó là những cái hào tự nhiên tốt nhất ngăn quân giặc từ xa khi chúng sang từ phương Bắc. Còn phía Nam và phía Đông địa hình lại rất thuận lợi cho việc tiếp ứng hoặc rút lui của quân phòng thủ.

Ngoài ra, những tướng giỏi cũng được cắt cử vế trấn giữ nơi này. Nhà Nguyễn từng đặt Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đóng tại thành Sơn Tây để giữ yên cả vùng rộng lớn Tây Bắc và Việt Bắc gồm 5 phủ, 24 huyện mà ngày nay bao gồm toàn bộ tỉnh Vĩnh Phúc cộng với huyện Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang, hầu như toàn bộ tỉnh Phú Thọ và hơn một nửa tỉnh Hà Tây cũ.
http://nd4.upanh.com/b4.s7.d3/086b1d9e7dc07796aa56dc37e3760767_36331614.sontaylesoirdelaprise.jpg
< Thành Sơn Tây thất thủ vào tay quân Pháp.

Trong khoảng thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ 19, thành cũng là một trung tâm phòng bị kháng chiến chống Pháp của quan lại triều đình nhà Nguyễn. Nơi đây được biết đến nhiều cùng với những nhân vật lãnh đạo như: Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc... trong hai cuộc xâm lược Bắc kỳ lần thứ nhất (1872) và lần thứ hai (1883) của Pháp. Tới năm 1883, thành thất thủ vào tay quân Pháp…

Trải qua gần 200 năm tồn tại cùng những thăng trầm của thời đại, ngày nay, thành cổ Sơn Tây trở thành chứng tích lịch sử quý giá, tác phẩm kiến trúc độc đáo đáng được trân trọng giữ gìn.

Dự án cải tạo tường Thành Cổ Sơn Tây

http://nd2.upanh.com/b2.s10.d1/08db86e065d82028024c2460330c17bb_36331712.2200191820101202214830img5383.jpg
Dự án cải tạo, chỉnh trang tường Thành cổ Sơn Tây vẫn đang được triển khai.

Theo báo cáo của đơn vị thi công, đến hết tháng 2, đơn vị này đã hoàn thành việc phát lộ toàn bộ tường thành, xếp thêm đá ong mới vào những đoạn tường thành bị mất từ cổng Bắc đến cổng Đông và cổng Nam với tổng chiều dài khoảng 654m
http://nd4.upanh.com/b6.s18.d2/c04640623f2d220d4d2d6664c9229b33_36331954.tcostay.jpg

Đoạn đã hoàn thành được làm theo phương án: Giữ nguyên tường thành cũ, xếp đá ong mới cao 1,3-1,5m, thụt vào 3-5cm (bằng phương pháp thủ công) so với tường thành cũ để có thể phân biệt được đâu là tường thành cũ, đâu là phần mới lắp dựng. Phía trong tường đắp đất theo kiểu thoải chân đê, trồng cỏ lên và làm cống thoát nước bên dưới.

Toàn bộ cây cổ thụ, cây quý trên mặt tường thành được giữ nguyên, chỉ chặt bỏ cây dại gây hại cho di tích
http://nd1.upanh.com/b4.s7.d3/fea19172f8ce0e0c542b25274125f95a_36331991.2200191820101202214830img5383.jpg
Theo lý giải của đơn vị thi công thì chiều cao 1,3-1,5m là phù hợp với tầm nhìn của người Việt Nam và không gian cảnh quan của di tích. Phần lớn người dân thị xã Sơn Tây khi được hỏi đều rất hài lòng với cách làm này.

Bác Lê Thị Lan, trú ở khu tập thể Biên Phòng (phường Lê Lợi) chia sẻ: “Tòa thành trước đây như một khu rừng, là địa điểm cho tệ nạn mại dâm, ma túy hoạt động. Giờ thì lộ rõ tòa thành quân sự, giống như một công viên, trong có thể nhìn ra, ngoài có thể nhìn vào, rất đẹp”

http://nd3.upanh.com/b1.s6.d4/3d868a97358be8ac2c78eacb81967225_36332043.483141.jpg


Các nhà chuyên môn trước sau đều thống nhất khẳng định: Việc cải tạo, chỉnh trang tường thành là cần thiết, phương án mà thị xã Sơn Tây đang triển khai không làm ảnh hưởng tới yếu tố gốc của di tích. Song, văn bản số 18, ngày 11-1-2011 của Cục Di sản Văn hóa thông báo Kết luận của Hội đồng khoa học về việc chỉnh trang hạng mục tường Thành cổ Sơn Tây lại yêu cầu thị xã tìm kiếm thêm tư liệu, điều chỉnh phương án chỉnh trang tường thành trước khi đưa ra phương án cuối cùng.

(Theo Đất Việt và HN Mới)

hung vi
10-10-2011, 12:35 PM
http://nd7.upanh.com/b5.s16.d2/664ad9d7e91783849de714b7e2e716c9_36335757.dencuaong.jpg

Bất cứ ai đã từng đặt chân đến Quảng Ninh theo hành trình lễ chùa thì không thể bỏ qua được đền Cửa Ông (phường Cửa Ông). Ngôi đền này tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra Vịnh Bái Tử Long, cách TP Hạ Long hơn 40km về phía Đông Bắc.

Theo sử sách thì xưa kia đền Cửa Ông chỉ là một am cỏ dựng dưới gốc cây cổ thụ, bên Cửa Suốt. Thế nhưng ngay từ thuở ấy, đền đã có tiếng là linh thiêng, thu hút khách thập phương đến thắp hương bày tỏ lòng biết ơn người đã có công giữ yên bờ cõi trước quân xâm lược Nguyên - Mông

http://nd7.upanh.com/b5.s20.d1/1334761e2b6cf02fa9f9bdd419929473_36335877.cuaong2007005.jpg
Đền còn được biết đến là nơi duy nhất thờ đầy đủ gia thất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay với 34 pho tượng lớn nhỏ được chạm trổ công phu tỉ mỉ, có giá trị nghệ thuật cao. Cấu trúc ngôi đền cũng rất độc đáo và tương đối đồ sộ theo lối chữ Tam với Đền Hạ, Đền Trung và Đền Thượng tạo thành một quần thể kiến trúc hình chân vạc.

Từ chân Đền, bước theo những bậc tam cấp vững chãi, đặt chân đến tam quan đền Thượng, ngoài thắp nén nhang cầu an, chắc chắn không có du khách nào bỏ qua cơ hội chiêm ngưỡng toàn cảnh Vịnh Bái Tử Long với nhiều hòn đảo lớn nhỏ, bao la trên một nền trời xanh tít tắp. Cảnh quan kỳ vĩ này thật hiếm có ngôi đền nào có được

http://nd2.upanh.com/b1.s17.d2/4d572b7cf0c93b2a3911bc87d75c99cb_36335922.qfe1276504573.jpg

Đền Cửa Ông không chỉ hút khách bởi sự linh thiêng mà còn bởi khi mùa xuân về, nơi đây lại mở hội với nhiều hoạt động văn hoá phong phú. Bắt đầu là lễ dâng hương, sau đó là lễ rước.

Nhân dân làm lễ rước bài vị Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng từ đền ra Miếu (tương truyền xưa là vườn nhãn, nơi Đức Ông hoá) ở xã Trác Chân rồi lại rước về đền
http://nd4.upanh.com/b5.s15.d2/3f1052fc3e9a77dfe7c148bac3a76266_36335974.dencuaonghaisontravel.jpg
Lễ rước bài vị này mô phỏng những cuộc tuần du bảo vệ bờ cõi vùng biển Đông Bắc của Hưng Nhượng Vương - mang ý nghĩa ghi nhớ công đức của ngài trong sự nghiệp bảo vệ biên cương tổ quốc. Trong những ngày diễn ra lễ hội còn có hoạt động văn hoá như múa rồng, thi soạn dâng lễ vật lên Đức Ông, nấu cơm, têm trầu, bày mâm quả, cùng với những trò chơi dân gian như cờ bỏi, bịt mắt đập niêu, kéo co, đẩy gậy.

Một điều đáng ghi nhận là công tác quản lý lễ hội nhiều năm qua tại đền Cửa Ông được thực hiện rất tốt. Mặc dù mỗi dịp lễ hội, ngôi đền này có thể tiếp đón đến hàng vạn lượt khách tới tham quan, vãn cảnh, tuy nhiên tình hình an ninh trật tự luôn được đảm bảo tối đa. Các hành vi lợi dụng lễ hội để tăng giá dịch vụ, chèn ép khách được xử lý nghiêm túc

http://nd7.upanh.com/b5.s11.d2/0aa711930f099a8f6816d21c14c43099_36336017.dencuaong1.jpg
Được biết, để tạo thuận lợi cho du khách đến lễ đền và dự hội, trong 3 năm trở lại đây, TX Cẩm Phả đã đầu tư gần 4 tỷ đồng để tôn tạo và nâng cấp, xây dựng mới nhiều hạng mục tại đây.

Theo đó, thị xã đã quy hoạch lại nơi bán hàng ở bên ngoài và trong khu vực đền, ra quy định về việc giữ gìn an ninh, vệ sinh để giữ trật tự và mỹ quan. Bên cạnh đó, Ban Tổ chức lễ hội đã có kế hoạch cụ thể để tổ chức phần lễ và phần hội hoành tráng, sát với lịch sử hơn và có nhiều hoạt động phong phú hơn

(Theo dulich VN)

hung vi
10-10-2011, 12:47 PM
http://nd3.upanh.com/b3.s7.d3/9dcfbc928952c7ff5037406f5ab7ff54_36336343.dnnbkhiem1.jpg

Từ thành phố Hải Phòng, đi qua những ruộng thuốc lá xanh rờn xen lẫn cánh đồng lúa chín vàng, chúng tôi đến thăm Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trên quê hương ông ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo.

< Tam quan khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trên con đường trải đầy rơm rạ sau vụ gặt và nồng đượm mùi thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo nổi tiếng khắp nước, cũng có rất nhiều người như chúng tôi, tìm về Khu di tích, thắp nén hương thơm, tưởng nhớ tới Nguyễn Bỉnh Khiêm, một danh nhân văn hoá, một nhà hiền triết mà sự nghiệp và tên tuổi của ông đã lưu danh mãi cùng đất nước.

Thân thế và sự nghiệp: Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên chữ là Hanh Phủ, tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, sinh năm 1491 tại thôn Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương nay là huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc, thân phụ ông là Thái Bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo.

http://nd6.upanh.com/b4.s9.d2/3653de759fa9c8d031ceb6802d3053bb_36336446.dnnbkhiem2.jpg
< Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm 3 gian lập trên nền nhà cũ.

Tuy nhiên, lớn lên trong giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, nhiễu loạn nên suốt thời trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535, khi đã 45 tuổi, ông mới đi thi và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình).

Năm 1543, trước cảnh bầy tôi lộng quyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm mạnh dạn vạch trần sự tha hóa, thối nát rồi dâng trảm sớ lên vua đối với 18 đình thần biến chất, mưu phản, song không được nhà vua chấp thuận. Ông bèn cáo quan về ở ẩn nơi quê nhà, lập am Bạch Vân, mở trường dạy học, làm thơ, nghiên cứu kinh sử, chắt lọc những tinh hoa của các đạo pháp ngoại lai, bổ sung vào đó tính chất giản dị mà sâu sắc của người Việt để giáo hóa người đời và dạy dỗ học trò thành người có đức có tài, hữu ích cho đất nước. Học trò của ông nhiều người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền.

http://nd5.upanh.com/b2.s6.d1/e2241c5eee004f72621761a97040b5a3_36336525.dnnbkhiem4.jpg

< Bàn thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời năm 1585, ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như Tập thơ Bạch Vân gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán và hai tập Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi với hàng trăm bài thơ chữ Nôm. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Thơ của ông là cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).

Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc".

Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là nhà triết học lớn của Việt Nam. Ông cũng tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".

Nhà sử gia Phan Huy Chú có viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hơn 40 năm mà không một ngày nào quên đời, lòng lo thời thương đời thể hiện ra văn thơ. Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị đều có quan hệ đến việc dạy đời"
http://nd6.upanh.com/b6.s8.d1/ecda9c1bde8726722b426e034838ac5e_36336566.dnnbkhiem3.jpg
Quần thể di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm trên quê hương

< Cầu đá bắc qua hồ Thái Nhâm.

Tưởng nhớ và khắc ghi những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở làng Trung Am, quê hương của ông, con cháu và dân làng đã xây dựng một khu di tích gồm nhiều hạng mục công trình, là nơi thờ cúng và trưng bày hiện vật về thân thế và sự nghiệp của ông.

Qua khỏi cổng tam quan với 3 chữ Hán: Trung Am từ (tức đền Trung Am) là ngôi đền thờ chính gồm 3 gian lập trên nền nhà cũ của Trạng Trình, là nơi đặt tượng và bài vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tượng ông được làm bằng gỗ, trông thế ngồi trên ngai, mình mặc áo rồng vua ban, đầu đội mũ cánh chuồn, tay phải cầm cuốn tập giơ lên như đang giảng đạo thơ cho các học trò. Phía trước đền là hồ Thái Nhâm, trên khoảng đất giữa hồ có cầu bắc qua còn tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu nhà Lê (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền.

Phía sau đền là 3 gian nhà lợp cói, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan đã về dạy học, làm thơ. Cách không xa Bạch Vân am là khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm và phù điêu. Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác phẩm cao 5,7 mét, nặng 8,5 tấn được làm bằng chất liệu đá Granit và trong tư thế ngồi tay cầm bút, tay cẩm sách, y phục nhà Nho, cốt cách giản dị. Hai bức phù điêu, mỗi bức có cao khoảng hơn 5 mét, dài hơn 20 mét và được làm khá hoàn chỉnh cả về nồi dung, bố cục mỹ thuật... Một bức diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình từ lúc còn bé đến cuối đời; bức kia diễn tả một giai đoạn lịch sử của địa phương từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến nay.
http://nd3.upanh.com/b3.s3.d4/ef41e88cdb89260b92000734e2c47101_36336593.dnnbkhiem5.jpg


< Vườn tượng tái hiện cảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm và các học trò ở am Bạch Văn năm xưa.

Trong quần thể di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách không xa đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm là phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, thân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm và tháp Bút Kình Thiên, tương truyền là do học trò tạo dựng để ca ngợi tài năng của Trạng trình như trụ cột chống trời, chùa Song Mai và đền thờ bà Minh Nguyệt (vợ thứ của Trạng Trình), di tích Quán Trung Tân bên bờ sông Hàn… Đặc biệt trong không gian của khu di tích có rất nhiều vườn tượng, với kích thước bằng người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Nguyên Bỉnh Khiêm, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động.

Hàng năm cứ đến ngày 23/12, người dân trong vùng và các nơi lại kéo về đền thờ tế lễ, dâng hương tưởng niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bên cạnh phần lễ, phần hội với nhiều trò chơi dân gian đánh vật, kéo co, chọi gà, cờ người… đã mang đến một không khí lễ hội dân gian độc đáo, để lại những ấn tượng tốt đẹp cho du khách trong và ngoài nước.

(Theo quehuong)

hung vi
10-10-2011, 12:56 PM
http://nd9.upanh.com/b4.s4.d1/a8391fd8b7c7dfa3b1ad6a65553c23b6_36336799.dinhkhinhdao0.jpg

Trong tổng số hơn 100 di tích lịch sử -văn hóa được công nhận cấp quốc gia tại Hải Phòng, đình Khinh Dao ở xã An Hưng (An Dương) có quy mô kiến trúc, cảnh quan bề thế, trang trí nghệ thuật phong phú, là di sản quý của thành phố.
.
Bảo tồn nét kiến trúc thời Lê

Đình nằm ngay trên cánh đồng làng Khinh Dao, trên mảnh đất vuông vắn, phía trước có ao sen tạo không gian thoáng đãng, cảm giác thư thái cho du khách khi đến thăm, chiêm ngưỡng. Vào mùa hè, sen hồng nở rộ, tỏa hương thơm ngào ngạt khuôn viên đình
http://nd9.upanh.com/b1.s13.d5/cfed017ab78d78d8fd04b536e4bf8e66_36336849.kddinhlang.jpg
Đặc biệt, di tích bảo tồn được nhiều nét kiến trúc thời hậu Lê thế kỷ 18. Trước cửa đình trang trí cuốn thư lớn, trên có khắc một bài thơ chữ Hán. Đình có 2 cổng uy nghi, dáng dấp như một khải hoàn môn ở phương Tây, nhưng vẫn mang nét kiến trúc truyền thống phương Đông. Hai bên cột đồng trụ cả 2 mặt trong và ngoài đều đắp nổi câu đối bằng loại chữ đỉnh (khi viết có hình dáng như đỉnh hương).

Qua khoảng sân rộng là đến trước cửa đình. Đình Khinh Dao xây dựng theo kiểu chữ đinh truyền thống gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũ hài, đầu mái đắp hình đao cong kiểu rồng chầu phượng mớm, bờ nóc mái đắp hình đao cong kiểu rồng chầu mặt nhật. Đây thực sự là công trình kiến trúc đồ sộ, bởi quy mô của lớp lớp cột cái, cột quân, kèo, xà thượng, xà hạ…trải khắp 5 gian bái đường.

Toàn bộ hệ thống cột cái, cột quân đều đặt trên các chân tảng đá. Phần trên đục dải hoa văn ôm chân tảng. Nhờ có chân tảng cao nên các chân cột gỗ không bị ngấm nước, tạo độ bền vững cho công trình. Điểm đặc biệt nữa của đình Khinh Dao là có 7 hiên đình bằng gỗ khá rộng bản, trang trí điêu khắc cầu kỳ với các đề tài hoa lá, rồng, mây
http://nd6.upanh.com/b5.s18.d2/afb0ac68d95468e353cb038657f57b3e_36336886.kdcuonthu.jpg

Tòa hậu cung, nơi an tọa của thành hoàng làng, có quy mô 3 gian.Các vị thành hoàng được làng tôn thờ là Phạm Đình Trọng, cùng 6 vị thần thời Hùng Vương. Trong đó, thành hoàng Phạm Đình Trọng lúc sinh thời có nhiều công với dân làng như dựng đình, làm văn từ, văn chỉ… So với gian tiền đường, hậu cung, có kích thước nhỏ hơn nhưng trau chuốt, duyên dáng. Tường hồi mái phía ngoài hậu cung cũng thể hiện mái đao cong, đắp nổi rồng chầu phượng mớm. Nhìn bên ngoài tường hồi mái trông giống như kiểu kiến trúc chữ nhị.

Tôn thêm vẻ đẹp truyền thống

Trải qua thời gian, đình Khinh Dao không tránh khỏi sự xuống cấp. Để bảo tồn di tích này, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, năm 2007, đình được tôn tạo, tu bổ bằng nguồn vốn đầu tư của Trung ương và địa phương, tổng giá trị khoảng hơn 11 tỷ đồng. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch làm chủ đầu tư, Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương là đơn vị thi công.

http://nd2.upanh.com/b3.s3.d1/39e41487c0f3aed3c086148a191acc57_36336942.images623689khanhthanhdinhkhinhd.jpg
Xác định rõ vị trí, ý nghĩa, giá trị lịch sử văn hóa của di tích, chủ đầu tư và đơn vị thi công bàn bạc, tìm giải pháp khắc phục khó khăn, thi công công trình đạt hiệu quả cao nhất về kỹ, mỹ thuật. Đến đầu năm 2011, công trình tu bổ, tôn tạo đình Khinh Dao hoàn thành, đưa vào sử dụng, gồm: đại đình diện tích 328m2, phương đình: 46m², hai cổng và bình phong, sân vườn, một số hạng mục công trình phụ trợ, tường rào.

Trước Cách mạng Tháng 8, lễ hội đình làng được tổ chức một năm 2 lần vào tháng 3 và tháng 11 âm lịch. Trong đó, tháng 3 là lễ hội chính, được thực hiện đầy đủ các nghi thức. Một trong những nghi trọng tâm của lễ hội đình là rước bài vị thành hoàng làng từ các miếu tập trung về làng, sau đó tổ chức tế. Bên cạnh phần tế lễ, trong lễ hội còn có rước lợn ông Bồ.
http://nd2.upanh.com/b5.s7.d1/7d11d9168cfca162ddb17bb6cf63cb2f_36336962.kdruocbang.jpg
Theo quy định của làng, người nào nhận ruộng lộc điền thì năm đó phải nuôi lợn ông bồ, góp rượu, hoa quả cho lễ hội. Hiện, tại bậc thềm gian trung tâm của đình vẫn còn dấu tích của loại thước để đo kích thước lợn. Vào những năm được mùa, phần hội còn có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như hát xướng, vật, cờ, chọi gà. Ngày nay, lễ hội đình làng vẫn được duy trì với đầy đủ nghi thức tế lễ và trò chơi dân gian. Tuy nhiên, nghi thức rước lợn ông Bồ chưa được khôi phục.

Trải qua hàng trăm năm tồn tại, nay nằm cạnh khu công nghiệp hiện đại của thành phố, khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, đình Khinh Dao với vẻ cổ kính, độc đáo về kiến trúc, là điểm di tích văn hóa hấp dẫn du khách trong nước, quốc tế đến tham quan tìm hiểu. Dân làng Khinh Dao đã, đang và sẽ cùng nhau gìn giữ và bảo tồn di sản văn hóa này cho muôn đời sau

(Theo báo Hải Phòng)

hung vi
10-10-2011, 01:06 PM
http://nd2.upanh.com/b3.s19.d2/7d1ac2beb671555a776aabec0a9b52c6_36337182.hungyen.jpg

Với hơn 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đại khoa, văn miếu Xích Đằng (Văn Miếu Hưng Yên) đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất "Nhất Kinh kỳ, Nhì Phố Hiến".

Nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, thuộc Phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ văn miếu có tên như vậy là do được xây dựng trên đất làng Xích Đằng và căn cứ vào khánh và chuông còn lại tại văn miếu.

Theo từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ văn miếu Xích Đằng là một trong sáu văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước và văn miếu Hưng Yên cũng là một trong hai văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám)

http://nd2.upanh.com/b6.s7.d3/1926be55135fa25e1941768a52cbc908_36337212.vanmieuxichdang.jpg
Thế kỷ 17 dưới thời vua Lê Thánh Tông, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn.

Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có văn miếu Xích Đằng ( hay còn có tên là văn miếu Sơn Nam) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn.

Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý các trấn dưới các triều Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam thượng và sau này là của tỉnh Hưng Yên.

http://nd1.upanh.com/b6.s18.d2/1bdfe15c5a1534ebb5c2699410f37798_36337271.ap20091115024548328.jpg

Dù nằm trong khu dân cư, nhưng đi ngay trên cầu Yên Lệnh, thuộc quốc lộ 38 nối Hà Nam với Hưng Yên có thể quan sát được văn miếu Xích Đằng từ hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Nằm trên đường dẫn vào còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ 18.

Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương

http://nd7.upanh.com/b6.s4.d3/bb8469dd2276025f3cb5da0665edc0b8_36337307.bia.jpg


< Bia trong văn miếu.

Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18.

Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Mặt chính quay về hướng nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn.

Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình

http://nd9.upanh.com/b5.s5.d2/d3e12fd077bb0d9d59ba676b377c9c5a_36337339.vanmieuxichdangrh5.jpg

< Ảnh xưa.

Từ các khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Trần đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp việc nước, việc dân.

Học vị cao nhất được ghi danh ở các bia đá còn lưu lại là trạng nguyên Tống Trân, thời nhà Trần; trạng nguyên Nguyễn Kỳ, triều nhà Mạc; trạng nguyên Dương Phúc Tư, triều nhà Lê. Chức vụ cao nhất được biết đến là tiến sĩ Lê Như Hổ, quận công triều nhà Mạc…

http://nd2.upanh.com/b6.s10.d4/e9f700ff9498c0fa705aefe9b692d0c1_36337402.vanmieuxichdanghungyen0548113559.jpg

Ở văn miếu Xích Đằng hiện tại đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám Chu Văn An.

Hằng năm cứ vào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổ chức sinh hoạt văn hóa, đó là tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển

(Theo Afamily)

hung vi
10-10-2011, 01:16 PM
http://nd2.upanh.com/b2.s13.d5/71151ec83306b0ac96b7b57c0a4288d0_36337562.11100332phochuacau1.jpg

Cầu Ngói bắt ngang sông Trung Giang, cách chùa Lương 150 m, nằm trên trục đường gắn liền với chùa, đền thành một cụm di tích. Theo “Quần Anh địa chí”, cầu được hình thành cùng thời gian với chùa Lương.

Toàn bộ cầu gồm 9 gian, với 40 cột tròn, tất cả bằng gỗ lim, hai bên hai dãy hành lang dài làm ghế nghỉ chân. Cầu được bắc trên 18 cột đá hình vuông to đẹp; với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỉ mỷ, đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật rất cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu vừa cong uốn lượn mềm mại, mái ngói hình mũi hài âm dương trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên. Chạm khắc trên cầu tuy đơn giản song thể hiện hài hòa nét kiến trúc cổ truyền. Cầu là nơi đi lại và dừng chân khách bộ hành nghỉ ngơi ngắm cảnh sông nước, làng quê.

Qua đôi câu đối trên cầu cho thấy Thuỷ Tổ đã quan tâm đến việc bắc cầu ngay từ thời gian đầu tiến hành khẩn hoang: “Lê Hồng Thuận Tứ tính thuỷ mưu giá ốc biệt thành giang thượng lộ”. “Hoàng Khải Định thất niên trùng tấp dư lương y cựu kính trung thê”
http://nd1.upanh.com/b1.s16.d2/ef7ef1bbd809ce49cc1352fc2c1c686d_36337591.11100332phochuacau2.jpg

Nghĩa là:
“Đời Hồng Thuận (1509 – 1515) bốn họ tính kế dựng nhà trên cầu, thành đường trên nước”. “Đời Khải Định thứ 7 (1922) tu sửa như cũ, từng bậc xếp lên gương”.

Đôi câu đối trên cầu:
“Hoàng lộ phong thanh quá thử kỷ đa đề trụ khách.
Giang thành dạ tĩnh du phương ứng hữu thụ thư tiên”

Nghĩa là:
“Trên đường gió mát nhiều khách qua đây lưu lại văn thơ ca ngợi.
Đi trên cầu trong đêm vắng như có nhận được sách tiên”.

Buổi đầu còn đơn sơ lợp cỏ, đến thế kỷ XVII cầu được tu sửa quy mô hợp với cảnh chùa Phúc Lâm, qua nhiều năm nhưng vẫn mang đậm phong cách kiến trúc cổ truyền Việt Nam, là một di tích độc đáo của trấn Sơn Nam Hạ xưa và Nam Định nay. “Cầu Nam, Chùa Bắc, Đình Đoài”. Cầu Ngói, chợ Lương là một trong ba cây cầu đẹp nhất miền Bắc Việt Nam.

http://nd7.upanh.com/b6.s5.d3/f72268d05304e44938b7ba0951dc4851_36337617.38853648357c28c3bbc7b.jpg

Cầu cũng còn gọi là cầu “Thượng gia hạ trì” (trên nhà dưới sông). Cầu bắc ngang sông Trung Giang. Toàn bộ cầu 9 gian gỗ lim bắc trên hai hàng cột đá to đẹp với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỷ mỉ với bàn tay tài hoa người thợ Quần Anh. Ngoài, nề, mộc đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu vừa cong uốn lượn mềm mại, mái ngói nam trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên.

Cầu Ngói được các nhà nghiên cứu kiến trúc đánh giá là một công trình nghệ thuật độc đáo hiếm có, được rất nhiều du khách trong và ngoài nước từng về thăm phong cảnh Hải Hậu ca ngợi. Họ gọi đó là “Cầu chùa phương Đông”. Đó cũng là đề tài khơi nguồn cảm hứng cho nhiều văn nhân, thi sĩ.

Sư cụ Thích Đàm Mận, trụ trì Chùa Lương cho biết: Cầu Ngói là cây cầu thứ 10 trong xã Hải Anh. Cầu Ngói cũng có tên gọi khác là Thượng gia hạ kiều (trên nhà dưới cầu). Buổi đầu xây dựng, cầu được lợp hoàn toàn bằng cỏ khô. Phần phía trên được làm từ gỗ lim, mái được lợp bằng ngói vảy rồng. Cầu được đặt trên 18 chiếc trụ đá vô cùng chắc chắn. Mỗi trụ đá cao khoảng 4-5m, phần chân chôn sâu xuống lòng sông, bên trên ăn khớp với thân cầu. Giữa trụ và thân cầu không hề có bất cứ một chất kết dính nào

http://nd5.upanh.com/b4.s3.d1/313ba279df65eb5583e82f85c797b36b_36337685.scan10003.jpg
Cầu vừa là nơi đi lại, vừa là nơi để khách bộ hành dừng chân nghỉ ngơi ngắm cảnh quan sông nước. Cầu đẹp đến nỗi, nho sĩ Trần Phúc Khiêm đã thốt lên:

“Quần Anh non nước xem như vẽ
Đề cột nhà thơ cảm hứng sâu”.

Trong những năm qua khu di tích được đón nhiều quý khách trong và ngoài nước về tham quan. Ban di tích cùng nhà sư bản tự và nhân dân từng bước tu sửa, bảo vệ di tích được trường tồn.
Ngày 26/3/1990, Cầu Ngói được Bộ VHTT công nhận là Di tích LSVH.

(Theo dulich GO)

hung vi
10-10-2011, 01:31 PM
http://nd4.upanh.com/b5.s19.d2/b1f9f280a4a358cc0872695cfcb23f74_36337984.1857264186cong1.jpg

Theo lời kể, không gian của khu dinh thự này được bắt đầu từ con đường dài dẫn vào biệt phủ với 2 hàng phượng vĩ nở đỏ rực mỗi khi hè sang, 3 cái ao lớn xếp hình vòng cung ôm lấy khu biệt phủ tạo nên thế phòng thủ vững chắc cho cả khu vực với chỉ một đường ra, một đường vào...

Nghe theo tiếng gọi cách mạng của Hồ Chủ tịch, ông Vi Văn Định, người được mệnh danh là “ông vua” đất Bắc- từng làm tới Tổng đốc Thái Bình, rồi Tổng đốc Hà Đông- đã cùng gia đình rời Lạng Sơn chuyển về Hà Nội sinh sống. Khu biệt phủ của ông trước kia giờ chỉ còn mấy cái cổng uy nghi đứng lừng lững giữa Bản Chu, xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình.

Những người đã từng được nhìn thấy khu dinh thự lúc còn nguyên vẹn đều không giấu nổi vẻ tiếc nuối khi nhắc đến công trình kiến trúc được xếp vào hàng đẹp nhất nhì miền Bắc thuộc một gia đình “danh gia vọng tộc” thời bấy giờ.
http://nd7.upanh.com/b6.s3.d3/948597f0ef5e9ec3d8233166d1053731_36338027.128936576cong2.jpg

Vị Tổng đốc gắn với nhiều huyền thoại...

Theo các tài liệu ghi chép, dòng họ Vi trước đây ở Nghệ An, khi Lê Lợi dấy binh đánh đuổi nhà Minh, ông Vi Kim Thắng cùng con là Vi Phúc Hân theo Lê Lợi diệt Liễu Thăng tại ải Chi Lăng.

Sau khi nhà nước được bình định, ông được phong làm Thảo Lộ tướng quân Tả đô đốc trấn giữ ở miền quan ải Lạng Sơn. Bởi thấy Bản Chu (trước kia gọi là Lộc Mã) là đất địa linh, có thế phong thủy đẹp nên ông đã chọn làm nơi lập ấp. Từ đó, những người con cháu kế nghiệp tổ tiên đều sinh sống tại vùng đất này với hơn mười đời làm quan trấn ải biên cương, cha của ông Vi Văn Định là cụ Vi Văn Lý (1830 – 1905) hiện vẫn còn phần mộ tại Bản Chu.

Ông Vi Văn Định thuộc đời thứ 14 của dòng họ Vi, thay cha đảm trách việc quan trấn ải cả một vùng rộng lớn khu vực biên giới phía Bắc nhưng không được triều đình phong Tổng đốc.
Do lo ngại về thế lực của ông tại khu vực trọng yếu này, dưới sự giật dây của thực dân Pháp, năm 1928, triều đình đã điều ông về nhậm chức ở Thái Bình, thăng làm Tổng đốc để “dễ bề quản lý”, sau đó ông tiếp tục làm Tổng đốc Hà Đông thay cho Hoàng Trọng Phu

http://nd2.upanh.com/b5.s11.d3/0a7e5a93be752551ebdb7ccc85dda544_36338102.vivandinh.jpg

Đến năm 1942, ông từ quan trở về Bản Chu an dưỡng tuổi già. Nghe đâu cái đận ông về, người ta còn làm lễ rước linh đình lắm, các quan viên lớn bé ra tận bờ sông đón (hồi ấy chưa có cầu Bản Chu bắc qua sông Kỳ Cùng).

Sau khi cách mạng nổ ra, Hồ Chủ tịch đã nhiệt thành mời ông về tham gia chính quyền cách mạng. Đi theo tiếng gọi của Bác, ông cùng gia đình chuyển hẳn về Hà Nội, từ độ ấy khu biệt phủ không còn ai ở. Sau đó, chính quyền cách mạng tiếp quản khu biệt phủ, các công trình được bảo vệ khá tốt trong một thời gian dài, vào cuối những năm 60 đây vẫn còn là chỗ ở của các chuyên gia Trung Quốc sang Việt Nam hỗ trợ kỹ thuật nuôi cá giống tại khu trại cá huyện Lộc Bình hiện nay.

Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, do chiến tranh tàn phá, cộng với việc khu biệt phủ dần dà không được bảo vệ chu đáo, người dân trong vùng đã đến dỡ gạch ngói, tháo gỗ về làm vật liệu xây dựng, thậm chí nhiều người còn đến đào bới để tìm vàng bạc vì nghe đồn ông Tổng đốc giàu nức tiếng miền Bắc chôn của đâu đó trong khu biệt phủ.

Qua gần 70 năm kể từ khi ông Tổng đốc rời Bản Chu, khu biệt phủ rơi vào cảnh hoang tàn, phế tích, toàn bộ các công trình quan trọng đều bị phá bỏ, chỉ còn lại mấy cái cổng đứng trơ trọi đến tận bây giờ.
http://nd5.upanh.com/b5.s6.d2/613b2473ec734ae13abae126c147fd6c_36338245.vivandinh2.jpg

Khu biệt phủ là quần thể kiến trúc được xây dựng qua nhiều đời, nhưng ông Vi Văn Định là người cuối cùng cai quản nên nó gắn liền với tên tuổi và cuộc đời mang đầy huyền thoại của vị Tổng đốc họ Vi này. Đến nay, nhiều người ở Bản Chu cũng khẳng định: trước đây, cha ông họ đã từng làm gia nhân trong phủ hoặc làm thuê cho ông Tổng đốc.

Câu chuyện về tính cách, con người của ông đến nay cũng chẳng biết thực hư ra sao, người thì bảo ông “ác” có tiếng, người thì nói ông nghiêm khắc vô cùng, người thì khen ông hiền lắm, tốt với dân bản lắm, có người kể ông đã từng cho một gia nhân chăm chỉ hẳn miếng đất đối diện cổng phủ để lấy kế sinh nhai, lập nghiệp... Chẳng ai kiểm chứng được những điều ấy nữa, bởi những người được chứng kiến ông lúc sinh thời, chứng kiến khu biệt phủ ngày hoàng kim đều đã về cõi cả

http://nd2.upanh.com/b2.s13.d5/1571340fefabd4172e0e503828eb4c45_36338292.le13.jpg
< Tấm phả hệ họ Vi bằng đồng nạm bác rất đẹp... bị người dân ở đây lấy làm nắm chum!

Những cậu bé chơi lang thang trong khu biệt phủ uy nghi, trầm mặc, cây cối rậm rạp và không khí lúc nào cũng mát rười rượi ấy, giờ đây cũng đã là những người già ở Bản Chu cả rồi...

Một ngày nắng như dội lửa, Bản Chu đang rộ mùa cấy, chỉ còn lác đác mấy người đứng tuổi ở nhà, đó vô tình lại là điều kiện thuận lợi để chúng tôi thu thập chút thông tin, bởi chỉ dựa vào mấy cái cổng hoang tàn, phế tích thì quả là quá khó để hình dung về quy mô của cả khu biệt phủ. Hỏi han khắp nơi, mỗi người mang máng nhớ một chút.

Qua lời kể của ông Lộc Văn Cờ, Chủ tịch UBND xã Khuất Xá; ông Vũ Văn Héo, một ông lão mù nhà đối diện khu biệt phủ; ông Lộc Văn Phái người gốc thôn Bản Chu, lọ mọ lắp ghép lại thông tin, chúng tôi cũng sơ bộ hình dung ra đôi phần về khu biệt phủ có quy mô hoành tráng này. Và cần phải khẳng định rằng: Nếu còn đến bây giờ, khu biệt phủ của Tổng đốc Vi Văn Định chắc chắn sẽ được xếp vào hàng “siêu phủ” mà ít có khu biệt thự nào hiện nay có thể bì kịp
http://nd9.upanh.com/b6.s9.d2/6c11bb49f2e6c233ada32892c4d5c240_36338329.le9.jpg
< Bác Hồ và Vi Văn Định.

Theo lời kể, không gian của khu dinh thự này được bắt đầu từ con đường dài dẫn vào biệt phủ với 2 hàng phượng vĩ nở đỏ rực mỗi khi hè sang, 3 cái ao lớn xếp hình vòng cung ôm lấy khu biệt phủ tạo nên thế phòng thủ vững chắc cho cả khu vực với chỉ một đường ra, một đường vào.

Cách cổng chính của biệt phủ mấy chục mét, ở mỗi đầu đường có một chiếc cổng lớn xây theo kiểu cổng thành. Cổng chính được xây 2 cấp mái, lợp ngói âm dương, góc mái cong vút, trên đỉnh có gắn họa tiết tượng trưng cho hình ảnh rồng thăng.

Cổng được chia thành 3 lối đi riêng biệt đặc trưng của chế độ phong kiến, lối chính dành cho ông Tổng đốc và người thân, 2 lối nhỏ dành cho gia nhân và thuộc cấp. Từ cổng chính đi vào khoảng 10m là một cổng nhỏ xây hình trụ vuông với nhiều họa tiết tinh xảo

http://nd4.upanh.com/b3.s3.d3/36357c8ffc561539d53a286ea2c84ff6_36338374.70096513114673sm.jpg

< Gia đình Tổng đốc Vi Văn Định trong ngày cưới của con gái Vi Kim Ngọc với tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên.

Theo lời kể, ngày xưa ở khoảng giữa của 2 chiếc cổng này còn có 2 cây duối lớn trồng hai bên và được uốn tỉa tạo thành hình vòm với hàm ý nghênh đón khách đến thăm. Khu biệt phủ xây hình chữ U với khoảng sân rộng thênh thang, tường bao 2 bên phía trước được xây uốn tựa dáng hổ chầu, trong sân còn có cả một cái hồ cạn lớn hình bầu dục với hòn non bộ đắp cao.

Tòa nhà chính của biệt phủ được xây 2 tầng quy mô cực lớn với hiên rộng theo lối kiến trúc cổ mang đầy vẻ trầm mặc, uy nghiêm, 2 dãy nhà thứ cấp được xây 2 bên với dải hiên chạy dài tạo nên một quần thể kiến trúc độc lập, khép kín và hoàn chỉnh.
Phía bên phải khu biệt phủ còn có một tòa nhà lớn nữa, đó là tòa nhà ông Tổng đốc xây cho người con trai cả là Vi Văn Dư (người Bản Chu vẫn gọi là ông cả Diệm).

Đặc biệt, phía sau khu biệt phủ còn có hẳn một sân quần vợt riêng để ông Tổng đốc rèn luyện thể thao. Phía trước chỗ mấy cái ao, ông còn cho xây tạo hẳn một vườn hoa lớn để thưởng ngoạn mỗi khi rảnh rỗi... thời ông còn ở đây, tại mỗi cổng vào đều treo một chiếc trống, có lính canh gác ngày đêm, khi có khách, lính canh sẽ đánh trống để gia nhân trong nhà ra mở cổng đón tiếp.

http://nd3.upanh.com/b2.s5.d3/2708401213c94d29ce59b148451281d7_36338433.vivandinh4.jpg

Nội thất của khu biệt phủ thì đến bây giờ chẳng còn ai nhớ được, nhưng với quy mô như thế thì đồ đạc trong dinh thự chắc cũng toàn dòng quý hiếm cả. Chỉ biết rằng, sau năm 1979, khi biệt phủ bị tàn phá, người ta dỡ mái xuống thì hệ thống cột kèo của cả khu biệt phủ khổng lồ ấy đều rặt là gỗ nghiến nguyên thân, nguyên khối 100%... và đến bây giờ, ở Bản Chu, không ít gia đình vẫn còn giữ được những vật dụng chế tác từ những thân gỗ ấy, không ít những ngôi nhà được xây lên từ gạch ngói của khu biệt phủ uy nghi, lừng lẫy một thời ấy...

Trường mầm non xã Khuất Xá hiện nay được xây mới trên nền móng cũ của khu biệt phủ. Có thể đó cũng là một lẽ hay, bởi ai cũng biết ông Tổng đốc họ Vi - người được mệnh danh là “ông vua” đất Bắc có 2 người con rể, 1 người cháu rể đều là những nhân sĩ, trí thức, học giả lẫy lừng cả nước: 2 người con rể là vị Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Y Hà Nội, Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di (lấy tiểu thư Vi Kim Phú) và Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, người giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam (nay là Bộ Giáo dục) lâu nhất (trong vòng 29 năm từ năm 1946) (lấy tiểu thư Vi Kim Ngọc). Người cháu rể là một bác sĩ nổi tiếng khắp thế giới, người có công lớn xây dựng nền y học Việt Nam hiện đại, Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng (lấy cháu gái nội ông Tổng đốc là tiểu thư Vi Thị Nguyệt Hồ)
http://nd0.upanh.com/b3.s7.d1/de8246f250704767c1ba45906fb30041_36338470.vivandinh5.jpg
Giếng trăm năm không cạn

Ngoài câu chuyện về căn biệt phủ chôn vàng, người dân nơi đây còn góp thêm câu chuyện làm giai thoại về vị tổng đốc lẫy lừng thêm phần kỳ thú, ấy là về cái giếng làng do chính tay Vi Văn Định đào và xây đắp.
Theo những người già trong làng và dấu tích còn ghi trên miệng, giếng này được đào năm 1910. Đến nay đã hơn 100 năm nhưng vẫn được coi là mạch nước quý cho người dân bản Chu.

Dẫn chúng tôi đến bên giếng quý, ông Nông Văn Kê, Trưởng thôn bản Chu A khề khà: “Nếu Bản Chu được gọi là mảnh đất hình rồng thì giếng nước trên được đào ở đúng mắt rồng. Bởi thế, không như nhiều giếng khơi phải nối dây múc gầu khác, chỉ cần mở nút là nước tự chảy. Nước giếng ào ạt, tuôn chảy chẳng khác gì suối, đủ dùng cho cả mấy trăm hộ trong vùng. Cái giếng này cũng đã gắn với 3 đời nhà tôi đấy!
Dù bây giờ, người làng đã biết khoan giếng lấy nước sạch và nước giếng cũng không tuôn xối xả như xưa, nhưng cả bản này vẫn coi nước từ giếng này là nước quý”

http://nd0.upanh.com/b1.s12.d2/30cdc24913c6b124089bfa9199bef550_36338510.vivandinh6.jpg
Theo lời ông Kê, người dân nơi đây tôn giếng này là “giếng thần”. Bởi, nằm nem nép bên con sông Kỳ Cùng, phù sa vẩn đục mà nước giếng vẫn trong vắt, ngọt lịm, người dân nơi đây còn tin rằng, nước trong “giếng thần” chữa được bách bệnh.

Số là trong làng có bà cụ mắc bệnh, phải lên viện tỉnh nằm. Nhưng chữa cả tháng trời mà bệnh tình không thuyên giảm. Bà cụ chắc mẩm là do không được uống nước giếng, uống cái thứ nước “tinh khiết, đóng chai” nhạt miệng nên càng làm bệnh thêm trầm trọng. Cụ nằng nặc đòi con cái về quê, mang cho cụ mấy lít nước giếng để dùng.
Chiều mẹ, mấy người con của cụ cũng vượt đoạn đường mấy chục cây số để tìm đến giếng thần mang lên cho mẹ yên tâm. Chỉ vài ngày sau đó, bệnh tình của cụ thuyên giảm hẳn và hơn một tuần đã xuất viện về nhà.

Câu chuyện cứ thế truyền tai từ người này sang người khác, và hơn bao giờ hết, dân bản tin rằng thứ nước quý ấy có thể chữa được bệnh. Thậm chí, nhiều người dân bản khác cũng lặn lội đến xin nước “giếng thần” về chữa bệnh.
Theo lời ông Kê, có thể việc uống nước giếng và khỏi bệnh của bà cụ nọ là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên. Ông chỉ tin rằng, đây là thứ nước giếng trong lành nhất, ngon ngọt nhất, chứ cũng không tin nó có khả năng chữa bách bệnh như người ta đồn đoán

(Theo Lạng Sơn)

hung vi
10-10-2011, 01:37 PM
http://nd9.upanh.com/b4.s13.d5/f2e5a0c0f656f526846fa5c0bc4f9fa0_36338759.thanhnhamac1.jpg

Thành Nhà Mạc nằm trong khu vực phường Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn, là di tích kiến trúc quân sự phản ánh thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Theo những tư liệu còn lại thì thành là một căn cứ quân sự hiểm yếu chắn con đường độc đạo nối từ Ải Bắc xuống phía Nam đo Mạc Kính Cung xây dựng vào thế kỷ XVI làm căn cứ chống lại Lê - Trịnh.

Dấu tích hiện nay còn lại gồm 2 đoạn tường dài khoảng 300m, mặt thành rộng khoảng 1m, xây bằng những khối đá lớn giữa hẻm núi, tuy được gia cố, trùng tu, nhưng vẫn giữ được dấu vết hoang phế điêu tàn, để khi đứng trong bóng tịch dương nhìn ngắm phong cảnh có một chút bâng khuâng nghĩ về lối xưa xe ngựa.

Đoạn đường từ chân đồi lên cổng thành giờ là nhiều bậc cấp thẳng tắp, ngước trông cổng thành như xa hun hút, nhỏ bé lại..

http://nd8.upanh.com/b3.s4.d2/1d0285374aeec05ea8650f3b95ab9053_36338858.thanhnhamac0.jpg

Lên đến nơi thấy khung cảnh thật thoáng đãng. Đứng bên trong nhìn ra càng nhận rõ thế đắc địa của cuộc đất, trước mặt là thung lũng ruộng lúa, rồi đến làng xóm sầm uất, tiếp đến là núi, quần sơn nối tiếp trùng trùng điệp điệp.

Cũng có giả thuyết cho rằng đây không phải là thành mà là "đấu đong quân". Theo giả thuyết này thì quân lính được đưa về đây, cứ đầy lòng "đấu" thì sẽ biết số quân hiện là bao nhiêu.
Những đoạn thành đứt quãng không đều nhau, cao thấp không bằng nhau, mặt đá phủ rêu màu đen pha một chút xám. Đất bên dưới thì màu đỏ sậm lẫn một ít sạn sỏi nhỏ.
http://nd2.upanh.com/b6.s16.d2/24e619598edd3855f0ffb15ec2a8b4f4_36338932.8176view.jpg
Giữa hai hẻm núi hùng vĩ, đứng từ điểm cao của thành có thể quan sát cả một vùng rộng lớn hiểm trở, cái tự nhiên của địa hình, của những bức tường thành và những lỗ châu mai đã tạo cho thành cái thế "một người địch muôn người". Hiểm trở uy nghi đã tạo thế cho nhà Mạc trấn giữ biên ải suốt gần một thế kỷ. Tuy quy mô thành không lớn lắm nhưnng đây là chứng tích một thời "huynh đệ tương tàn" giữa các triều đại phong kiến Việt Nam.

Trước đây, Thành Nhà Mạc được quy định là đất sử dụng cho mục đích quốc phòng. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.
Du khách muốn đến thành nhà Mạc xuất phát từ Hà Nội theo quốc lộ 1A khoảng 154km sẽ đến thành phố Lạng Sơn hoặc đi tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội - Trung Quốc qua Lạng Sơn

(Theo Lạng Sơn)

hung vi
10-10-2011, 01:53 PM
http://nd5.upanh.com/b6.s7.d3/3757bcbd3723904c0e35d82145689664_36339375.dsc00786.jpg

Ngay thị trấn vùng biên ải Đồng Đăng sầm uất, có một pháo đài bí ẩn bị lãng quên mấy chục năm nay. Nhiều người trẻ sống ngay ở thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) nhưng họ không biết ở ngay nơi mình sống tồn tại một pháo đài nổi tiếng. Chúng tôi đã dành nửa ngày để cùng một số người dân leo trèo khám phá bên trong pháo đài này.
Không chỉ với chúng tôi, người dân nơi đây cũng có cảm giác rùng rợn, sợ hãi khi nghĩ đến chuyện chui vào phía trong pháo đài, vì trong thời chiến, rất nhiều người đã bỏ mạng nơi đây. Hơn nữa, hệ thống lô cốt đã nhiều lần bị đánh thuốc nổ, bị ném mìn, chẳng may trong quá trình đi sâu vào pháo đài mà vô tình động phải mìn thì mất mạng.

Pháo đài này do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1941, đến năm 1943 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng, pháo đài được xây ở vị trí phía Đông – Nam thị xã Cao Bằng, đây là một vị trí có ưu thế về mặt quân sự, có thể quan sát được toàn bộ các khu vực ngoại vi, đặc biệt là cầu Bằng Giang và cầu Sông Hiến, đây là hai cây cầu mà thực dân Pháp cho là những trở ngại lớn nhất khi đối phương muốn tấn công vào trung tâm

http://nd1.upanh.com/b2.s10.d3/7bd817baf5532e1b329274a91c961b5e_36339431.phaodai1.jpg

< Mặt trên của pháo đài là ruộng ngô.

Pháo đài Cao Bằng được nhiều nhà quân sự phương tây đánh giá là một trong những pháo đài đẹp và kiên cố nhất Đông Dương, do một kỹ sư người Đức thiết kế, pháo đài có diện tích 10 ha, xung quanh xây tường cao 8 – 10m, tường được xây bằng loại đá rắn chắc, có độ bền cao, hệ thống phòng ngự được chia thành 4 cụm hoả lực chính, mỗi cụm có một lô cốt, hình thù như những con sư tử hung mãnh rình mồi để gây đòn tâm lý với đối phương, Pháo đài chỉ có một cổng chính ra vào, cách cổng khoảng 0,5m có một cầu rút, khi có báo động hoặc chiến đấu, cầu rút sẽ được trục tời điều khiển đóng kín cổng và lập tức toàn bộ vành đai pháo đài được khép kín

http://nd6.upanh.com/b5.s10.d3/f2fc1dfafd4d07eacb3b0c90f5247062_36339476.phaodai2.jpg
< Một lô cốt của pháo đài.

Theo quan sát, các bức tường của pháo đài rất kiên cố, được đúc bằng bê tông cốt thép, bề dày khoảng 2m. Ở tầng trên cùng là nóc pháo đài, cứ cách một khoảng lại có một lỗ rộng chừng 0,3m2, là nơi bố trí các khẩu đại liên, trung liên, đồng thời để quan sát 4 hướng quanh pháo đài.

Để chui lên trên pháo đài, chúng tôi phải luồn qua những khe hở giữa các tảng bêtông lớn nằm chềnh ềnh, nghiêng ngả như sẵn sàng sập xuống bất cứ lúc nào.

Sau một thời gian leo trèo, chui rúc, chúng tôi cũng lên đến điểm cao nhất của pháo đài. Một khung cảnh hoang sơ, tan nát hiện ra trước mặt. Trên diện tích với chiều rộng khoảng 60m, chiều dài khoảng 100m, từng tảng bê tông lớn nhỏ nằm nghiêng ngả, lăn lóc mỗi tảng một nơi, là dấu tích còn lại sau những trận bộc phá nhằm phá hủy pháo đài

http://nd1.upanh.com/b3.s17.d2/d93aa3198fbbcb8ace382bb33f440a8b_36339521.phaodai3.jpg


< Cửa chính của pháo đài rất sâu, không có phương tiện thì không thể xuống được.

Cũng ở trên pháo đài, vẫn còn một vài hố sâu đến mấy chục mét, mà theo những người dẫn đường là do những trận bộc phá trước đây gây nên. Ngoài ra, trên đó còn ngổn ngang một số bức tường đã rêu phong, bụi phủ.

Tận dụng diện tích rộng lớn trên bề mặt của pháo đài, người dân tranh thủ thâm canh thêm cây sắn, cây ngô. Hiện tại, những ruộng ngô đã cao gần đầu gối. Chẳng mấy chốc nơi đây sẽ biến thành màu xanh mướt mát, che phủ tất cả. Rất ít người dân nơi đây ít người biết rằng, dưới kia, bên trong pháo đài là những bí ẩn rùng rợn.

http://nd3.upanh.com/b5.s1.d3/426d0bc7a12afe8855fa64c4013e8e86_36339553.phaodai4.jpg


< Những lô cốt của pháo đài dù bị phá hủy nặng nề song vẫn còn rất vững chắc.

Pháo đài Đồng Đăng được người Pháp xây dựng ở một vị trí chiến lược quân sự quan trọng. Từ pháo đài Đồng Đăng có thể quan sát và bảo vệ các tuyến giao thông huyết mạch, từ đường sắt đến đường bộ như ga đường sắt quốc tế Đồng Đăng – Hà Nội, quốc lộ 1A Lạng Sơn – Hà Nội, quốc lộ 1B Lạng Sơn - Thái Nguyên, quốc lộ 4B Lạng Sơn - Cao Bằng.

Theo các tài liệu lịch sử, pháo đài Đồng Đăng được xây dựng từ thời Pháp và phải mất 3 năm mới xây xong, từ năm 1939 đến năm 1941. Đây là một công trình quân sự kiên cố của thực dân Pháp.

Trong thời gian chống thực dân Pháp, pháo đài Đồng Đăng trở thành lô cốt bất khả xâm phạm. Nhiều lần quân dân ta đánh chiếm pháo đài nhưng đều thất bại. Mãi đến năm 1944 – 1945, lợi dụng Nhật đảo chính Pháp, quân dân ta được lệnh khởi nghĩa mới chiếm được pháo đài.

Tuy nhiên, sau khi Pháp quay trở lại đô hộ nước ta năm 1946, chúng đã cướp lại pháo đài và biến nơi đây thành một căn cứ quân sự vững chắc trong tuyến phòng thủ quân sự hành lang biên giới phía Bắc

http://nd0.upanh.com/b3.s6.d2/347be048f3de8ee65a1f0e14d77b21e4_36339610.dsc00787.jpg

< Một phần pháo đài trông như đầu người.

Trong chiến dịch Biên giới 1950, quân dân ta chiến thắng ở Đông Khê (Cao Bằng), Thất Khê (huyện Tràng Định, Lạng Sơn), quân Pháp phải rút chạy về xuôi theo đường đường số 4. Đến thị trấn Đồng Đăng, chúng đã kịp dùng thuốc nổ để phá hoại pháo đài nhằm không cho quân ta chiếm giữ một điểm quân sự quan trọng. Tuy nhiên, do được thiết kế kiên cố bằng bê tông cốt thép nên pháo đài chỉ bị hư hỏng nhẹ.

Chúng tôi đã tìm gặp ông Trần Bá Hồng thuộc Đại đội 42, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, từng có thời gian đóng quân tại pháo đài Đồng Đăng từ tháng 5 – 1978 đến tháng 3 – 1979, hiện đang sinh sống ở Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ông cho biết, trong chiến tranh biên giới năm 1979, ông được giao nhiệm vụ chiến đấu ở mỏm trên của pháo đài. Riêng đơn vị của ông có trên 100 người, nhưng hi sinh đến quá nửa. Bản thân ông bị thương nặng và được điều về tuyến sau điều dưỡng.

Ông Hồng cho biết thêm, trong chiến tranh biên giới 1979, pháo đài Đồng Đăng trở thành nơi trú ẩn cho nhiều người dân sống ở khu vực Đồng Đăng. Tuy nhiên, do nắm rõ vị trí chiến lược quan trọng của pháo đài, quân Trung Quốc đã tập trung lực lượng đánh phủ đầu pháo đài. Bởi vậy, nhiều dân thường cũng bị chết trong pháo đài này

http://nd9.upanh.com/b5.s9.d3/2a6054296cb77bcb97ac1bbe9aa69af9_36339669.phaodai5.jpg


< Nóc của pháo đài cao ngang với một số ngọn đồi xung quanh.

Ông kể, dù lúc đó xét về lực lượng thì quân mình ít hơn so với quân địch, nhưng quân dân ta đã chiến đấu anh dũng và kìm chân địch nhiều ngày ở pháo đài này, làm chậm tiến kế hoạch đánh nhanh của địch. Sau 10 ngày kiên cường chiến đấu, bộ đội và nhiều dân địa phương phải rút chạy vào sâu trong pháo đài.

Quân xâm lược không dám tiến sâu vào bên trong mà đã dùng thuốc nổ đánh sập cửa để bịt lối ra vào. Đồng thời chúng dùng lựu đạn, hơi cay bắn vào phía trong nhằm tiêu diệt quân dân ta. Chúng huy động khoảng 10 tấn thuốc nổ nhằm biến pháo đài thành mồ chôn tập thể.
http://nd4.upanh.com/b5.s2.d4/09b62a7a686b038af2fe8f488c05f94c_36339714.phaodai6.jpg


< Nhiều bức tường trên mặt pháo đài đã rêu phong.

Theo các tài liệu, trong trận đánh này, lợi dụng đêm tối, đã có 6 đồng chí bộ đội thoát ra khỏi lô cốt và rút về tuyến sau. Trong đó, có đồng chí Triệu Quang Điện, sau này được tặng danh hiệu Anh hùng và là Phó Trưởng phòng Cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn.

Xung quanh việc xây dựng pháo đài Đồng Đăng còn có nhiều câu chuyện kể rùng rợn khác, mà đến nay dư luận người dân nơi đây vẫn còn biết rất rõ. Anh Hoàng Đình Chuyên ( thôn Koòn Quyền, xã Hồng Phong, Cao Lộc) cho biết, ông nội của anh là một trong những người bị thực dân Pháp bắt đi phu để xây dựng pháo đài.
http://nd4.upanh.com/b3.s15.d2/25b02a782e1406fa929c3d5fbf4914ad_36339784.phaodai7.jpg
< Nhiều người dân thị trấn Đồng Đăng đã chết trong pháo đài này.

Anh Chuyên nghe bà nội kể lại rằng, người Pháp bắt dân phu làm việc rất vất vả, phải khuân vác đất đá, trộn bêtông cả ngày lẫn đêm mà chế độ ăn uống rất kham khổ. Bởi vậy, cứ chiều tối là bà mang cháo đến cho ông. Khoảng vài tháng sau, khi bà mang cháo ra thì không gặp ông nữa. Về sau mới biết, ông cụ đã chết mất xác vì lao động khổ sai.

Từ trước đến nay, dư luận ở Đồng Đăng vẫn truyền tai nhau rằng, trong quá trình xây pháo đài Đồng Đăng, người Pháp bắt phu phen khuân vác lên những cái hòm rất nặng mà không biết là bên trong đựng những gì. Họ ngờ rằng có thể là vàng bạc hoặc đồ trang sức mà người Pháp cướp bóc được của dân mình mang vào đó cất giấu, trước khi vận chuyển về nước qua đường sắt. Cũng có người cho rằng, đó là vũ khí đạn dược mà Pháp đem vào trong pháo đài

http://nd2.upanh.com/b5.s2.d2/04a71f9fe3e5d8992bec91e8420c77b4_36339842.phaodai8.jpg

< Những tảng bêtông rất lớn và dày của pháo đài.

Theo những người lớn tuổi ở Đồng Đăng từng chứng kiến quá trình xây dựng pháo đài, trước khi pháo đài được xây, họ cho san lấp ngọn đồi bằng phẳng, rồi bắt dân phu đào sâu xuống lòng đất, sau đó mới bắt đầu quá trình xây dựng. Sau khi xây xong pháo đài, chúng lại bắt dân phu chở đất đá đổ lên trên, rồi trồng lại cây tạo nên quang cảnh giống như ngọn đồi trước kia.

Theo ông Trần Bá Hồng cũng như những tài liệu mà chúng tôi thu thập được, pháo đài Đồng Đăng được xây dựng thành 3 tầng, chiều rộng 60m, chiều dài 100m. Bên trong pháo đài được thiết kế phức tạp. Tầng cao nhất được thiết kế làm nơi quan sát, tầng thứ hai có đủ các phòng và lỗ châu mai để chiến đấu, tầng thứ 3 là nơi chứa quân trang, đạn dược, lương thực, phòng họp, phòng ngủ, nhà bếp

http://nd9.upanh.com/b5.s15.d2/641e3c9243f9769a09905b698cce95f9_36339899.phaodai9.jpg
< Từ trên đỉnh pháo đài có thể quan sát được 4 hướng.

Ngoài ra, hệ thống đèn chiếu sáng và các cửa hầm thoát hiểm cũng được thiết kế rất bài bản, khoa học. Pháo đài Đồng Đăng có thể chứa được hàng chục nghìn binh lính khi có biến xảy ra.

Theo tài liệu cung cấp của ông Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Văn hóa huyện Cao Lộc, Pháo đài Đồng Đăng được công nhận là di tích lịch sử, cần được bảo vệ. Tuy vậy, tìm mỏi mắt mà chúng tôi không thấy một tấm biển đề di tích, cũng không thấy bóng dáng ai bảo vệ khu vực này.

(Theo dulich Cao Bằng)

hung vi
10-10-2011, 02:03 PM
http://nd4.upanh.com/b6.s16.d2/1d267df5a40a77f3e0f0ef2f8284e492_36340184.phaodai8.jpg

“Vào năm 1995, tôi từng thắp đuốc chui vào pháo đài. Chân tôi dẫm lên trên những bộ xương kêu lạo xạo. Dưới ánh lửa lập lòe, tôi thấy đầy xương xẩu, đầu lâu to nhỏ nhiều kích cỡ. Vài ngày sau tôi bị ốm, trong cơn miên man, tôi thường giật nảy mình vì những cơn ác mộng”- ông Phạm Văn Lợi, người dẫn chúng tôi vào pháo đài Đồng Đăng rùng mình nhớ lại

Thám hiểm khu mồ chôn tập thể

Nhà ông Lợi ngay gần pháo đài. Nhưng khi chúng tôi đề nghị ông dẫn đường vào trong pháo đài, ông nhất quyết từ chối. Một hồi lâu, ông mới miễn cưỡng nhận lời. “Các anh phải chuẩn bị mỗi người một chiếc đèn pin thật sáng nhé. Trong ấy tối lắm đấy”. Nói rồi ông vào trong nhà cầm thêm chiếc dao găm để tự trấn an khi dẫn chúng tôi vào thăm pháo đài

http://nd8.upanh.com/b3.s18.d1/e2d2aa6296e5d7475a8f2b717b411377_36340278.langson1.jpg

Mon men theo mỏm đồi được mấy trăm mét, hiện ra trước mặt chúng tôi là những tảng bêtông lớn nằm ngổn ngang, nghiêng ngả như sắp lăn xuống. Ông Lợi chỉ tay lên bảo: “Đấy là cửa chính của pháo đài. Ngày xưa nó bị hàng tấn thuốc nổ tàn phá nên giờ mới ngổn ngang thế này”.

Vừa cẩn thận luồn mình qua những khe hở giữa các tảng bê tông lớn, vừa rùng mình sợ hãi, cuối cùng chúng tôi cũng đến được cửa pháo đài. Giữa mùa hè oi ả, khi nhìn xuống cửa pháo đài, từng luồng gió mát lạnh phả vào mặt chúng tôi, ớn lạnh. Cửa chui xuống phía dưới pháo đài sâu hút hút. Bởi vậy chúng tôi tìm đủ cách nhưng không thể xuống được pháo đài ở cửa chính này
http://nd6.upanh.com/b1.s8.d2/e138f7dbb77395d5f092ee6a5069b29f_36340336.langson4.jpg

Chúng tôi theo lời ông Lợi đi tìm những cửa phụ khác để xuống phía dưới pháo đài. Sau một hồi tìm kiếm, thấy thêm một số cửa, tuy nhiên cửa thì bị vùi lấp bởi đất đá, cửa thì quá sâu không thể xuống được. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được một cửa chỉ sâu khoảng 4m, có thể nhảy xuống để chui vào sâu bên trong tầng hầm pháo đài.

Mỗi người một chiếc đèn pin, chúng tôi len vào tầng hầm của pháo đài sâu hun hút. Đường hầm được thiết kế theo hình mái vòm lớn, các bức tường có nhiều vết nứt lớn ngang dọc đan xen vào nhau. Ông Lợi giải thích, những vết nứt ấy là hậu quả của những trận bộc phá trước đây công phá pháo đài.
http://nd8.upanh.com/b2.s1.d3/c302a8d2d809be79858f8530bd336eb4_36340408.langson7.jpg

Càng vào sâu bên trong, chúng tôi càng rùng mình ớn lạnh. Ngửa mặt lên phía trên đường hầm, từng mảng bêtông lớn nham nhở, cảm tưởng như có thể rơi xuống đầu chôn vùi chúng tôi bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó là nỗi sợ mơ hồ về rắn rết, bom mìn còn sót lại... Nền hầm nhớt nháp, ẩm thấp. Thỉnh thoảng, tất cả lại giật thót mình vì vài cánh dơi thấy động vụt bay ra từ phía trong hầm tối.

Tiến sâu vào bên trong khoảng 40m, chúng tôi chỉ có thể di chuyển sang các đường hầm ngang dọc mà không thể tiến sâu hơn vì các cửa đường hầm đã bị lấp, bị sập. Cố gắng tìm đường xuống tầng hầm thứ 3 mãi, nhưng chúng tôi đành bất lực. Ông Lợi cho biết, hồi trước ông cũng đã thử tìm cửa xuống tầng hầm dưới nhưng không thể tìm ra.

Nỗi ám ảnh rắn rết, ma quái

Pháo đài Đồng Đăng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, là mồ chôn của hàng nghìn người. Theo các tài liệu lịch sử, khi Nhật tiến vào Đông Dương qua đường Lạng Sơn (năm 1940) và khi Nhật đảo chính Pháp (năm 1945), pháo đài Đồng Đăng chứng kiến những trận đánh ác liệt giữa quân Nhật và quân Pháp, thương vong của binh lính hai bên rất nặng nề
http://nd7.upanh.com/b3.s13.d2/f1cc598db39a77e41f9ba82564729440_36340457.langson5.jpg

Trong chiến tranh năm 1979, tại pháo đài Đồng Đăng, quân dân ta đã cầm chân được quân địch gần 10 ngày, phá tan kế hoạch đánh nhanh của địch. Trong những trận chiến ác liệt đó, thương vong của cả quân dân ta và quân địch đều rất lớn. Điều đáng đau buồn là nhiều dân thường bao gồm cả trẻ con và người già khi chui vào đây tránh bom đạn của kẻ thù cũng không tránh khỏi số phận thảm khốc.

Ông Lợi kể: “Vào năm 1995, tôi từng thắp đuốc chui vào pháo đài. Chân tôi dẫm lên trên những bộ xương kêu lạo xạo. Dưới ánh lửa lập lòe, tôi thấy đầy những xương xẩu, đầu lâu to nhỏ nhiều kích cỡ. Vài ngày sau tôi bị ốm, trong cơn miên man, tôi thường giật nảy mình vì những cơn ác mộng. Tôi hay mơ thấy có một chú bé cứ níu quần tôi kéo lại. Sau đó, tôi được các bà then, thầy mo phán rằng, tôi ốm đau là do bị hồn ma không nơi nương tựa quyến luyến(?!)”. Câu chuyện “hồn ma” nhập vào ông Lợi làm xôn xao dư luận cả thị trấn Đồng Đăng trong một thời gian dài, nói đến ai cũng biết.

Năm 2006, bộ đội Quân khu 2 đã có đợt thu lượm hài cốt tại pháo đài Đồng Đăng. Sau hàng tuần khai quật, bộ đội ta chỉ thu lượm được khoảng 30 bộ hài cốt. Hài cốt quân ta được gói bằng vải đỏ, quân địch gói bằng vải đen, còn dân thường thì gói bằng vải vàng. Trong đợt thu lượm, bộ đội cũng phát hiện hai bộ hài cốt mà kích thước của bộ xương to và dài hơn những bộ xương khác. Theo dự đoán thì đó có thể là hài cốt quân lính người Pháp ngày xưa tử trận tại đây
http://nd2.upanh.com/b4.s9.d4/bf8b77e4a2822b3683095b630fe0d6a0_36340532.langson6.jpg

Điều làm cho người dân Đồng Đăng ai cũng rùng mình khi nghĩ tới chuyện chui xuống pháo đài, theo ông Lợi cũng như nhiều người dân ở Đồng Đăng, là vì hiện nay trong pháo đài vẫn còn nhiều hài cốt, xương xẩu bị chôn vùi dưới các lớp đất đá, bêtông cốt thép, sâu hàng chục mét, rộng hàng trăm mét. Không rõ thực hư thế nào, nhưng đây là nguyên nhân chính dẫn đến những đồn thổi ma quái về pháo đài Đồng Đăng

http://nd3.upanh.com/b4.s11.d2/366050ceab921b3eba5033e6bd8dc878_36340593.langson3.jpg
Ông Hoàng Văn Niềm (Khu Pá Phiêng, thị trấn Đồng Đăng) kể, trước đây khu vực pháo đài này còn có hai con trăn rất to. Vào sáng sớm, đồng ruộng phía dưới pháo đài thường xuất hiện rõ ràng những đường trườn lớn uốn lượn giữa ruộng làm cây lúa ngả dạt sang hai bên. Người dân đoán chắc đó chính là đường đi của những con trăn lớn này.

Còn ông Lợi thì quả quyết, cách đây gần 10 năm, khi ông đi phơi sắn trên pháo đài đã nhìn thấy da con trăn lột xác để lại, dài khoảng 6 - 7m. Ông Lợi cho biết thêm, vào những ngày trời nắng, dân chuyên đi săn rắn đi quanh pháo đài Đồng Đăng trong một buổi trưa có thể bắt được 4, 5 con rắn khác nhau.
Có lẽ chính vì sự hoang phế của pháo đài mà người dân nơi đây đã thêu dệt nên những câu chuyện rắn rết, ma quỷ rùng rợn như vậy

(Theo dulich Cao Bằng)

hung vi
10-10-2011, 02:13 PM
http://nd8.upanh.com/b4.s7.d2/c69a0bd289f9616dfea1d03cbd880d01_36340898.3102318674377ae60451b.jpg

Tây Khuyết Đài là đài canh gác của Hoàng thành, được xây dựng đầu thế kỷ 19, nằm giữa thành phía Tây Đại nội.

Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, ông Phùng Phu cho biết, công trình bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài thuộc hệ thống di tích Cố đô Huế vừa được khởi công xây dựng.

Trước đó, cuộc thăm dò khảo cổ di tích đài Tây khuyết từ giữa năm 2010 đã đạt được những kết quả như xuất lộ nền móng kiến trúc chính hình vuông mỗi cạnh dài gần 13m kèm theo một số chân tảng (móng trụ công trình) bên trong; cạnh đó là phần nền móng của một số kiến trúc, bệ súng đại bác, hệ thống thoát nước

http://nd3.upanh.com/b6.s20.d1/9484c2e56b0331eecff03e312bd7b27f_36340973.438581.jpg


Dự án sẽ dựng lại kiến trúc chính với một ngôi nhà rường truyền thống hình vuông, kèm theo một số hạng mục công trình và các yếu tố tạo cảnh quan liên quan, nhằm đưa khu vực đài Tây khuyết trở thành điểm ngắm cảnh hoàng thành lẫn kinh thành, đồng thời là nơi trưng bày, triển lãm các chuyên đề liên quan đến di tích Huế.

Đài Tây khuyết cao 4,24m, rộng gần 1.600m², nằm giữa bức thành phía tây của hoàng thành Huế với chức năng là đài canh gác. Đài được xây dựng vào đầu thế kỷ 19 dưới thời Gia Long. Những kiến trúc này bị tàn phá do chiến tranh và tàn lụi theo thời gian từ giữa thế kỷ 20 nay sẽ được phục dựng lại. Công trình do Phân viện Khoa học Công nghệ xây dựng miền Trung thi công, với tổng mức đầu tư hơn 9 tỷ đồng.

Đây là Di tích văn hóa Quốc gia đặc biệt và là công trình nằm trong tổng thể Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới
http://nd3.upanh.com/b4.s20.d1/1bb083a9bee01165cc46fe39d4702324_36341013.3101492607eefca48f3fb.jpg

Công trình bao gồm việc phục hồi Nhà canh 114,5m²; tu bổ, phục hồi tường thành lan can bằng gạch vồ, vữa bả màu truyền thống; tôn tạo sân vườn lát gạch Bát Tràng và hạ tầng kỹ thuật.
Sau khi hoàn thành, công trình Tây Khuyết Đài sẽ góp phần trả lại diện mạo kiến trúc Hoàng thành, hứa hẹn sẽ cùng Đông, Nam và Bắc Khuyết Đài là những điểm nhìn lý tưởng ở Đại nội Huế.

Trước đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản gửi Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, cho ý kiến về việc thỏa thuận Báo cáo Kinh tế kỹ thuật bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài (Đại Nội Huế) và lưu ý các cấu kiện kiến trúc đã thu thập được với số lượng nhiều và còn ở tình trạng kỹ thuật tốt (như chân tảng, gạch gốm trang trí...) cần được thống kê phân loại để nghiên cứu tái định vị; đồng thời làm rõ khối xây tường thành gốc được gia cường với khối xây phục hồi mới.

Trung tâm cần tiếp tục sưu tầm các tài liệu lịch sử có liên quan để hoàn thiện thiết kế và triển khai các bước tiếp theo của việc bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài..

(Theo dulich GO)

hung vi
10-10-2011, 02:21 PM
http://nd9.upanh.com/b5.s2.d4/db69e80a5d78064463942057e2b82a2e_36341239.thanhduongculaogieng.jpg

Giáo xứ Cù Lao Giêng còn có tên gọi là họ Đầu Nước hay họ đạo Cù Lao Giêng thuộc Giáo phận Long Xuyên, tọa lạc tại ấp Tấn Bình, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Được thành lập năm từ 1778 và là một trong những giáo xứ lớn và lâu đời nhất ở miền Tây Nam Bộ, Cù Lao Giêng có một nhà thờ cổ lớn mang đậm nét kiến trúc Roman thời Pháp thuộc.

Giữa một vùng đất phù sa, sông nước việc xây dựng nhà thờ có quy mô lớn không phải là dễ dàng vào lúc bấy giờ. Ấy vậy mà nhà thờ cổ Cù Lao Giêng vẫn uy nghi vươn lên với ngôi thánh đường thâm nghiêm, với tòa tháp chuông cao vút, với các trụ cột tròn, vững chãi liên kết cùng các ô cửa, vòm gió và các tháp nhọn nhỏ hình khối đa giác.

Nhà thờ có các cửa giả hình chữ U ngược, tạo thành một kiến trúc rất bề thế, ngoạn mục và hoành tráng. Nhà thờ hoàn thành trước nhà thờ Lớn ở Sài Gòn (Vương cung Thánh đường) mấy tháng

http://nd9.upanh.com/b6.s3.d1/5772969730cd46eb3c3fbf5a6dc9fc7a_36341289.34626681.jpg

Tương truyền vào đầu thế kỷ 18, có một số người theo Thiên chúa giáo, trong đó có các Cha cố người Pháp, đến Cù lao Giêng (nay thuộc xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, An Giang) để trốn tránh các cuộc ruồng bố đạo Thiên chúa của triều đình nhà Nguyễn.

Đến khi bình yên, họ Đầu Nước do những người trốn chạy trên thành lập ngày càng phát triển.

Theo các bậc cao niên, trước năm 1946, tại Cù lao Giêng không chỉ có Tiểu chủng viện mà còn có Đại chủng viện cùng tọa lạc trên một khuôn viên, dưới quyền cai quản của Giáo Phận Tây Đàng Trong

http://nd4.upanh.com/b4.s16.d2/7bc2c789e145793ff82447ed1584323e_36341324.bentrongtdclg.jpg
Rất tiếc là cơ sở tôn giáo nầy đã bị lửa thiêu rụi gần như hoàn toàn, chỉ còn lại ngôi nhà nguyện và nhà hưu dưỡng của các Linh mục. Biến cố nầy xảy ra vào đầu năm 1946 do chiến sự lan tràn đến đây, nên cũng trong năm đó, Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng được chuyển sang Phnom Penh, Campuchia, còn các Đại chủng sinh thì được gởi lên Đại chủng viện Sài Gòn.

Sau khi Cha Sở Maille chết, Cha Augustinus - Baptista Gazignol (thường gọi là Cha Nho, sinh năm 1843, mất ngày 08/ 05/1917), thuộc Hội thừa Sai Paris (MEP) về coi sóc họ Đầu Nước thì các họ chung quanh được thành lập thêm và trở thành họ lẻ của Giáo xứ này. Kể từ năm 1927 trở đi, họ Đầu Nước chính thức có cha Sở là người Việt Nam, mà người đầu tiên đó là Cha Vân.

Theo tài liệu còn lưu lại thì: Khoảng năm 1879, dưới triều vua Tự Đức, Linh mục Gazignol khởi công xây dựng nhà thờ Cù Lao Giêng, đến 10 năm sau (1889), dưới triều vua Đồng Khánh, công trình được thiết kế theo kiến trúc Roman này mới hoàn thành. Thời Linh mục Louis Dũng trông nom giáo xứ, nhà thờ Cù Lao Giêng và nhà xứ đã được trùng tu và hoàn thành vào năm 2003. Hiện nay hầm mộ Cha Gazignol vẫn ở phía dưới lối đi bên trong nhà thờ

http://nd9.upanh.com/b3.s9.d1/3da04fc261d744489dedea102273ba73_36341359.123.jpg


Tu viện rộng lớn của dòng nữ tu Providence (dòng Chúa Quan Phòng), do các nữ tu người Pháp lập ra vào năm 1874. Thời Pháp thuộc, tu viện này còn là nơi thu nhận trẻ em mồ côi và những người già bệnh tật. Chính vì vậy, các nữ tu dòng Chúa Quan Phòng đã được nhiều giáo dân ở miền Tây Nam Bộ và kể cả vương quốc Campuchia đều biết đến.

Hiện nay cơ sở chính của dòng nữ tu trên được đặt tại Cần Thơ, còn cơ sở ở Cù lao Giêng chỉ còn là nơi an dưỡng của các nữ tu già yếu thuộc dòng tu này. Ngoài ra, bên cạnh Tu viện là nhà thờ cổ của dòng tu Phan-xi-cô và gần đó là phần mộ của Thánh tử đạo Emmanuel Lê Văn Phụng

(Theo dulich GO)

hung vi
10-10-2011, 02:38 PM
http://nd5.upanh.com/b5.s19.d1/1ee115c70dc1f7d0e250a46c6c851d2a_36341645.halongbay21.jpg

Với 3/4 lãnh thổ là đồi núi cộng với nền khí hậu nhiệt đới gió mùa và một vị trí địa lý đặc biệt, Việt Nam có nguồn tài nguyên, thiên nhiên vô cùng phong phú, làm nên nhiều di sản thiên nhiên cũng như văn hóa thế giới vô cùng đặc sắc.
Đất Việt điểm mặt một số di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới nổi tiếng ở Việt Nam:

Vịnh Hạ Long

Năm 1994, Vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới lần thứ nhất. Tiếp đó, năm 2000, nơi đây lại được công nhận là di sản địa chất thế giới.

Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn

http://nd4.upanh.com/b5.s12.d1/912717cabb1a8b54cabc68035270115e_36341704.vinhhalong.jpg

Vịnh có diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng lõi của Vịnh có diện tích 334km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo.

Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái. 14 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật đặc hữu đã được phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại Vịnh.

http://nd0.upanh.com/b1.s15.d2/803617a26d0578bd44b5320b38991baa_36341770.118610img2684.jpg

http://nd7.upanh.com/b6.s20.d1/cbe96490ea8c705cb3a8ca6ec7be9835_36341777.phongnhakebang3.jpg

Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng

Năm 2003, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.

Phong Nha - Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km…

http://nd2.upanh.com/b3.s15.d2/2d9156caccb2259bbbbd8812a15e942d_36341852.thienmu.jpg

Quần thể di tích Cố đô Huế

Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1993. Quần thể di tích này bao gồm những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa (nay thuộc thành phố Huế).

Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm các cụm công trình ngoài Kinh thành Huế và trong Kinh thành Huế. Trong đó, cụm di tích trong kinh thành Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành. Các di tích ngoài kinh thành bao gồn hệ thống lăng tẩm và các di tích khác
http://nd1.upanh.com/b1.s17.d2/0a33b03602b5c0cbac4595358d45ae04_36341901.ngamphocohoianvedem.jpg

Phố Cổ Hội An

Phố cổ Hội An được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1999. Đây là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc tỉnh Quảng Nam và từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18.

Ngày nay, đô thị cổ Hội An trở thành một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo

http://nd3.upanh.com/b2.s4.d1/fba84e04f1be9cb13379ee046bfe96a1_36341933.phocohoian02.jpg

Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị.

Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

http://nd6.upanh.com/b5.s6.d4/93951e00e9b34fcfe007abe69c59653f_36341996.mysondep.jpg

Thánh địa Mỹ Sơn

Thánh địa Mỹ Sơn được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1999, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là tổ hợp bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi.

Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam

http://nd4.upanh.com/b3.s9.d2/2dc4b3a33e81778ae9047d3062734f39_36342104.thanhnhahpcopy.jpg

Thành nhà Hồ

Thành nhà Hồ được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2011. Thành nhà Hồ đã được công nhận di sản văn hóa thế giới.

Thành nhà Hồ được đặt móng xây dựng vào năm 1397. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ được xây dựng bằng đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam.

Trong lòng đất của Khu di tích còn lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang đậm chất phong thủy điển hình. Di sản thành nhà Hồ thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á.

http://nd3.upanh.com/b1.s19.d1/6d378e50f0515986c4616e0c1459a971_36342193.img6248515915977.jpg

Ngoài ra, các danh hiệu được UNESCO công nhận cũng được xếp vào di sản thế giới gồm: Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại nhã nhạc cung đình Huế; Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên; Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đại diện của nhân loại Dân ca quan họ Bắc Giang và Bắc Ninh; Danh sách di sản văn hóa kiệt tác truyền khẩu phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp - Ca trù

(Theo báo Khánh Hòa)

hung vi
10-10-2011, 02:51 PM
http://nd4.upanh.com/b5.s11.d2/c4a1ede6e328b98f9ff0f9f51f66ef79_36342644.phongtuyentamdiep2010.jpg

Phòng tuyến Tam Điệp là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân Tây Sơn và giặc Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi Tam Điệp (Ninh Bình), là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung - Bắc.

Năm 1788, 29 vạn quân Thanh kéo sang Việt Nam, với lý do diệt Tây Sơn dựng lại nhà Hậu Lê. Ngô Thì Nhậm chọn đèo Tam Điệp là nơi ngăn cản quân Thanh.

Đây là vị trí khá hiểm trở, núi non hùng vĩ như bức tường thành án ngữ giữa hai miền. Đồi núi thung lũng liên hoàn tạo thành khối vững chắc án ngữ Bắc-Nam, giúp Nguyễn Huệ công thủ, tiến thoái cất lương, giấu quân để mùa xuân kỷ dậu (1789) tiến ra kinh thành Thăng Long quét sạch 20 vạn quân Thanh viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt nam

http://nd0.upanh.com/b5.s1.d1/245521afe985c8a19886a90c42d1f7e3_36342690.big28084910ninhbinhtrangantamcoc.jpg
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn cách trung tâm thành phố Ninh Bình 20 km theo hướng đi Ninh Bình – Thanh Hoá. Đây là nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo, chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm, Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp…

Một số di tích thuộc phòng tuyến

Đèo Tam Điệp là tên gọi chính thức trong sử sách và địa lý cổ Việt Nam, chỉ con đường thiên lý cổ thời phong kiến từ Thăng Long vào nam, đi qua 3 đoạn đèo giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Nó là một tổ hợp đèo trên núi Tam Điệp, chạy ra biển theo hướng tây bắc – đông nam, có 3 ngọn. Đèo có tên gọi dân gian là đèo Ba Dội, xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, trong tiếng Việt cổ có nghĩa là ba đợt, ba lớp
http://nd7.upanh.com/b5.s17.d2/9419113cf2a678ac3069dd3a2390cca2_36342757.1182999228nv.jpg

Thành cổ Tam Điệp: phía tây đường Thiên Lý, cách luỹ Tam Điệp độ 200m, còn di tích một thành luỹ cổ gọi là "Đồn Dâu" vì ở gần Đền Dâu. Thành nằm bên cạnh đường Thiên Lý, hình gần vuông, mỗi cạnh dài từ 65 - 70m. Chân thành hiện còn 7m, đoạn thành cao nhất phía tây bắc cao tới 2m. Diện tích trong thành rộng hơn 1 mẫu Bắc Bộ. Đặc biệt, ba thành phía bắc, phía đông và phía nam, khoảng giữa đắp to hơn, rộng hơn. Phía ngoài thành, cả bốn mặt đều có hào, di tích còn lại, có chỗ rộng 4m, sâu chỉ còn từ 0,70 - 1,0m.

Kẽm đó: là một dãy núi, nhìn từ xa mạch núi khép kín dần, giống như cái đó bắt cá nên có tên là Kẽm Đó hay Lỗ Đó.

http://nd1.upanh.com/b1.s1.d4/50a2b86e8527bcb61343896d68759df0_36342891.nuicamgc6b0c6a1m.jpg

Núi Cắm Gươm: tên núi này trùng với ngọn Kiếp Lĩnh nằm bên bờ sông Hoàng Long ở cố đô Hoa Lư, gắn với truyền thuyết Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ bị chú đuổi tới sông Hoàng Long, cắm gươm tại bờ sông này.

Đền Dâu: Nằm ở phường Nam Sơn thị xã Tam Điệp. Đền thờ công chúa Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử của điện thần Việt Nam. Hàng năm diễn ra lễ hội đền từ 20/2 âm lịch và kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch.

Động Tam Giao: Nằm động cách đền Dâu 3km, là động đẹp có cảnh sắc hùng vĩ.

http://nd6.upanh.com/b4.s2.d1/eb9fbe48baac1c4d6a763555308f7dc2_36342946.1184124005.jpg

Hồ Yên Thắng: Là một hồ nước lớn ở giáp giữa Tam Điệp và Yên Mô. Tại đây đang xây dựng khu liên hợp thể thao hồ Yên Thắng rộng 773 ha với sân Golf quy mô 54 lỗ.

Luỹ Quèn Thờ: Địa danh ở xã Đông Sơn, thị xã Tam Điệp. Là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi than chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di rời Đền lên đỉnh núi.

http://nd2.upanh.com/b2.s4.d3/a0c9c068f8f6b0f17092f1cb203e6311_36343002.1182999307nv.jpg

Động Trà Tu: là một nhóm hang động động còn giữ được nhiều nhũ đá tự nhiên, có dấu tích của con người thời kỳ văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn như hang Mo, hang Trâu, hang Cò, hang Khỉ .v.v. Cửa động quay về hướng đông bắc. Ðộng có hai hang là hang Sáng và hang Tối. Hang Sáng ở bên ngoài, cửa động nhỏ, rộng 7m, cao hơn 5 m, bên trong như một cái dù cao khoảng 15 m, sâu gần 30 m có nhũ đá rủ xuống hình quả phật thủ, ngà voi, những con rồng, con trăn, con rắn, đàn rùa v.v. Từ hang Sáng có lối ở bên phải hang vào hang Tối, một ngách núi như một đường hầm khổng lồ dài hơn 100m. Từng đoạn lại có ngách rẽ trái, rẽ phải, có hai vách đá tách ra tạo thành đường lên trời, có ngách ăn sâu xuống thăm thẳm như đường xuống âm phủ. Nước ở nhũ đá rỏ xuống làm cho không khí mát lạnh.

Hồ Đoòng Đèn thuộc địa phận xã Đông Sơn, diện tích 30 ha, hồ rộng và đẹp, giữa hồ có ngọn núi Lồng Đèn. Tương truyền trên đỉnh núi có ngọn đèn thắp sáng liên tục hàng đêm soi rọi cho cả một vùng
http://nd7.upanh.com/b3.s5.d2/b398529a41c186d277e31ccc4200cf37_36343397.denquanchao.jpg

Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận.

Hiện nay, trước ải Tam Điệp còn di tích thành luỹ của quân Tây Sơn. Luỹ dài 135m, chân rộng 15m, có chỗ cao 1,8m, nối liền hai mạch núi đá vôi nhằm chặn một lối đi qua đấy. Thành rộng gần một mẫu Bắc Bộ, hình gần vuông, chân rộng 7m, có chỗ cao hơn 2m. Phía ngoài thành đều có hào, di tích còn lại có chỗ rộng 4m, sâu 0,5m. Thành nằm gần đường Thiên Lý và giữ như một tiền đồn phía Bắc cửa ải. Những luỹ này được xây dựng từ trước và quân Tây Sơn đã tu bổ, xây dựng khi lập phòng tuyến Tam Điệp. Vì vậy nhân dân địa phương thường gọi là luỹ Quang Trung, đồn Tây Sơn

(Theo lữ khách, Viêtgle)