PDA

View Full Version : Võ lâm nhất sát Lê Thiên Vị



giadinh7777
27-10-2011, 10:55 AM
Nhân đọc báo SGGP cách đây 3 năm thấy có loạt bài của Nguyễn Lê Nguyên viết về các kỳ thủ hay quá. Xin mạn phép tác giả Nguyễn Lê Nguyên cho post vào đây để các kỳ hữu cùng biết về một số kỳ thủ vang danh một thời!
Trái ngược với lời đồn đại trong giang hồ – kẻ đứng đầu “Võ lâm tam sát” Lê Thiên Vị lại là một bậc đức cao trọng vọng. Có thể nói, đến giờ, ông là một trong số ít các kỳ vương sống được bằng nghề chính đáng, tuy không giàu sang nhưng viên mãn, có phúc phần.
Người đặt tên cho giang hồ
Đọc sách cờ tướng bán ở nhà sách, siêu thị hay lên mạng internet tham khảo, sẽ luôn thấy “phấn khích” bởi những thế cờ rặt mùi binh pháp như “Bác Vọng thiêu đồn”, “phục binh yếu lộ”... Còn ở làng cờ tướng Sài Gòn, biệt danh của các kỳ thủ thường rất... kiếm hiệp, nào là “Phong trần quái khách”, “Kim mao sư vương”, “Bạch mi ưng vương”... Và người đứng ra đặt cho họ các tên hiệu này không ai khác lại là “nhất sát” Lê Thiên Vị. Có thể nói, đây là một trong những cái “công” lớn nhất của ông đối với Hội cờ TP.HCM.
Nghe qua những “thương hiệu” đó, người đời thường cảm thấy tò mò, thu hút bởi tài năng, tính cách của các kỳ thủ; làm sống động một cách rất “đời” môn thể thao tưởng chừng khô khốc. Ông Vị kể: “Xưa tôi hay đọc tiểu thuyết Kim Dung, cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi chuyện kiếm hiệp, những biệt danh này xuất phát từ đó”. Tỷ như kỳ thủ Dương Thanh Danh, có dáng người ốm, lòng khòng, ông Vị đặt hiệu cho là Khô Mộc thiền sư. Anh Trương A Minh, kỳ thủ có cặp lông mày bạc trắng được đặt hiệu Bạch mi ưng vương. Ông Vị nói: “Đặt tên, gọi hoài, đến giờ chết tên luôn”. Riêng giới nữ, ông Vị còn đặt tên cho 2 người: Diệt Tuyệt sư thái Lê Thị Hương và Kim Hoa bà bà Nguyễn Hoàng Ngọc Thảo.
Bản lĩnh “nhất sát”
Để đánh được cờ giỏi, trước hết phải có trí nhớ tốt. Lê Thiên Vị nổi lên bằng tư chất này. Hồi nhỏ, xem bố đánh cờ với khách, cậu bé Vị đứng sau chăm chú, cố nhớ lại rồi tự bày ra, chơi với nhóm bạn trong làng mình ở Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Lê Thiên Vị tuổi Quý Mùi, sinh năm 1943.
Một ngày tháng 12.2008, hẹn gặp ông ở Hội cờ 143 Nguyễn Du, Q.1, kẻ hậu bối là tôi thử “kiểm tra” mới thấy Lê Thiên Vị còn minh mẫn lắm. Năm 1965, ông có được một cuốn sách cờ được coi là “quý hiếm” vào giai đoạn đó, cuốn Toàn đồ bách cuộc phổ của Trung Quốc. Thoăn thoắt bày các quân cờ lên bàn, ông Vị nhớ lại: “Đây là ván cờ thế “khưu dẫn hàng long” trong sách, một trong những thế cờ thuộc hàng giang hồ danh cuộc”. Hồi đó, để phá thế này, ông Vị đã phải mày mò, nghiên cứu cả tháng trời. 43 năm sau, Lê Thiên Vị vẫn nhớ về nó như một thế cờ tâm đắc nhất.
Ông Vị kể đời đánh cờ của mình, có những ván xem qua người khác đánh nhưng không thể quên được. Hay có những ván ông đánh thắng, hoặc thua cũng không thể quên được. Năm 1978, tại giải cờ mừng xuân diễn ra ở Nhà văn hóa Lao động TP.HCM, ông Vị đã đấu thắng kỳ thủ Huỳnh Văn Hồng. Bày bàn cờ ra bàn, ông kể: “Tôi quân đen, đi sau. Ông Hồng đi nước tiên, vô pháo đầu”. Ở ván này, ông Vị “nhớ suốt đời” nước đánh pháo vọt sĩ, chọc thẳng vô cung của tướng đỏ. Chính vì nước cờ xuất thần này mà ông Vị đoạt thế thượng phong dù phải đi sau. Đến nước thứ 26, dù chưa bị chiếu bí nhưng đối phương phải buông cờ xin thua.
Hồi còn ở Hà Nội, khoảng năm 2005, tôi đã được may mắn nói chuyện với một trong “Bắc kỳ tứ kiệt” là ông Lê Uy Vệ, lúc đó tuổi đã cao lắm rồi. Nay lại được gặp “nhất sát”, mới nghiệm thấy ai đạt được đẳng cấp kỳ vương thì tính cách điềm đạm. Được diễm phúc hầu “nhất sát” một ván, đương nhiên tôi thua, nhưng ông Vị vẫn thận trọng cho rằng không thể chấp người mới biết chơi 2 quân xe vì “lực yếu, không thắng được”. Ông Vị nói: “Tính cách con người biểu lộ qua một ván cờ. Văn hóa cư xử cũng lộ ra ở đó. Có thể nhận thấy từ những nước khai cuộc”.
Thiên Vị cũng không thoát khỏi việc bị giới giang hồ “phong danh”. Từ khoảng năm 1981 - 1988, ông được liệt vô “Võ lâm tam sát” gồm Lê Thiên Vị – Lê Nhị Trí – Trần Quới. Nhớ lại, ông Vị có vẻ thích thú: “Tụi tôi tàn sát võ lâm nhiều, thắng trận rất nhiều, đi đâu thắng đó. Họ mới đặt vui như vậy”. Qua năm 1988, thiên tài bạc mệnh Trần Quới mất mạng trong một chuyến vượt biên, coi như “Võ lâm tam sát” mất số.
Nói chuyện Trần Quới, rồi nhắc chuyện xưa của kỳ vương thiên tài yểu mệnh Hứa Văn Hải, chợt thấy ông Vị buồn hẳn: Năm mới 14 – 15 tuổi, vua cờ Triệu Khôn từ Trung Quốc qua Việt Nam, thấy cậu bé Hải có thiên tư bèn bày thế “đình xa vấn lộ” để thử. Hải đã phá thế bằng những nước cờ tuyệt hay, hiếm gặp ở độ tuổi. Triệu Khôn mới nhận Hải làm đệ tử. Năm 1943, tức là lúc ông Vị mới chào đời, Hứa Văn Hải đã vô địch giải “tứ hùng” dù phải chơi với ba bậc kỳ tài là Nguyễn Văn Ngoan, Hà Quang Bố, Nguyễn Thành Hội. Cùng năm đó, Hải đoạt luôn giải “Vô địch Nam kỳ”.
Rồi kỳ vương lại chết vì cờ! Nghe mà sầu thảm. Bởi Hứa Văn Hải sức cờ mạnh, suy đoán cao thâm nên đi đâu đánh độ cũng phải chấp rất nhiều, luôn phải lao tâm khổ tứ suy nghĩ. Trong khi đó, kỳ vương mắc phải bệnh lao, ăn uống thất thường mỗi khi đánh độ, chế độ dinh dưỡng kém, sức khỏe ngày càng yếu dần. Năm 1944, biết mình không qua khỏi, kỳ vương phải lui về quê nhà ở Đồng Tháp và an nghỉ giấc ngàn thu ở đây khi mới 26 tuổi.
Cái chết của thiên tài Trần Quới còn mang lại cho ông Vị nỗi buồn nhiều hơn. Hồi “tam sát” còn, ông Vị và Quới đã đi khắp nơi khiêu chiến, đánh độ, đánh đâu thắng đó. “Có thể nói, Quới là người thắng nhiều nhất trong làng cờ. Nhưng cũng chính Quới là người nợ nần nhiều nhất”, ông Vị kể. Chỉ có điều, “nó tính toán cờ hay nhưng tính cho đời mình thì dở”. Cuối cùng, Trần Quới đã phải ra đi trong cảnh nợ nần, để lại biết bao điều tiếng...
Nghe ông Vị đúc rút về lớp kỳ thủ sau này đã trót vận vô “nghiệp cờ” càng thấy buồn và tiếc: “Đã vô nghiệp cờ rồi, hầu như không đủ sống. Rồi đã bập vô đánh “độ” rồi thì quên ăn quên ngủ, sức khỏe không đảm bảo. Thiếu thốn đủ đường, từ đó lại sinh ra tiêu cực”. Biết làm gì ngoài đánh cờ độ khi mà ông Vị nói “các kỳ thủ hầu hết học vấn ít, trình độ không có, bỏ cờ cũng chẳng có việc gì mà làm”.

giadinh7777
27-10-2011, 03:46 PM
Xin post tiếp bài 2 trong loạt bài này: Diệt tuyệt sư thái Lê Thị Hương


Diệt tuyệt sư thái với những chiến công oanh liệt một thời
Khoảng thập niên 80, làng cờ TP.HCM bỗng nổi lên một nữ kỳ thủ chẳng màng gia đình, chồng con, chỉ mê đánh cờ độ, đánh đâu thắng đó. Vì coi thường “bóng hồng” lẻ loi mà không biết bao kẻ trượng phu đã phải thất cơ. Cảm phục tài năng, “nhất sát” Lê Thiên Vị đã gọi cô là “Diệt tuyệt sư thái”. Cô là Lê Thị Hương, hiện là tuyển thủ Hội cờ TP.
Diện kiến
Theo lời giới thiệu của một đạo diễn rất mê cờ, rằng “nói đến kỳ nhân vỉa hè, phải tới được cỡ Diệt tuyệt sư thái, bà này sáng sáng xách giỏ đi chợ, kiếm tiền đánh độ về nuôi chồng con...”. Chúng tôi đã tới khu Phạm Ngũ Lão – Nguyễn Thái Sơn, Q.Gò Vấp, nơi sư thái vẫn hay “hành hiệp” ở các quán cà phê nhưng không thấy. Hỏi ra, mới biết cô đã chuyển nhà về dưới Q.1, chẳng biết ở đâu...
Phải hỏi đến hội cờ, mới biết nhà Lê Thị Hương hiện ở đường Trần Quang Khải. Mới đến đầu ngõ, hỏi nhà “chị Hương đánh cờ” thì hàng xóm ai cũng biết. Nhà sư thái tối om, cũ kỹ, trong nhà dựng xe máy nhưng cửa ngoài mở, gọi mãi chẳng thấy ai thưa. Bấm chuông thì chuông hỏng. Kêu bà hàng xóm tới, gọi thật to thì mới thấy trong nhà có tiếng mở cửa cái “rầm”. Một người đàn bà gầy ốm, tóc rối bù xù bước ra “có chuyện chi không”. Đó là Diệt tuyệt sư thái! Hôm nay sư thái bệnh, ngủ dậy hơi muộn. Lúc đó đã hơn 10 giờ sáng.
Tôi lại phải chạy về cơ quan vì sư thái hẹn “nói chuyện” tại nhà cô vào lúc chính ngọ, cái giờ mà bụng người đời đã sôi sùng sục lên vì đói. Đúng 12 giờ trưa, quay lại thì sư thái đã tỉnh ngủ nên đem lại một sự vững tâm hơn. Hóa ra sư thái cũng hiền lành, nói chuyện đến cờ, cô vui vẻ hẳn, cười liên tục.
Đường vào “cờ thế giang hồ độ”
Lê Thị Hương sinh năm 1961, đàn bà tuổi con trâu, Tân Sửu. Nghe nói, hồi nhỏ bé Hương nghịch ngợm khác người, ông bố muốn con đằm tính lại nên dạy cho cô chơi cờ tướng. Chẳng ngờ bé Hương lại có năng khiếu bẩm sinh. Khi đã lần lượt vượt qua bố, qua các anh thì tên tuổi Hương cũng đã lẫy lừng cả xóm, đánh đâu thắng đó. Mê cờ, bé Hương bỏ học sớm, vừa phụ giúp gia đình buôn bán vừa kiếm tiền từ đánh cờ độ. Rồi biến cố đã ập đến với Hương khiến đời cô chuyển hẳn sang ngã rẽ khác. Năm 1976, mẹ cô mất. Rồi đến năm 1978, bố Hương qua đời. Hương bỏ hẳn buôn bán, mưu sinh bằng đánh cờ độ.
“Đánh độ, lúc thắng, lúc thua. Thua hết tiền lại về buôn bán kiếm tiền đánh tiếp. Cả chục năm trời”, Hương kể. Khi quanh khu vực nhà cô ở đã không còn đối thủ, mình Hương thân gái dặm trường đã dám tìm tới khiêu chiến ở những sòng cờ khác quận. Tiền lận lưng cũng đâu có nhiều, giỏi ra thì được khoảng 1 chỉ vàng vào thời đó. Vừa mưu sinh, vừa mê cờ, bẵng đi một quãng đời thanh xuân tươi đẹp, Hương mới lấy chồng, sinh con...
Câu chuyện chợt đứt mạch khi cậu con trai trông tuấn tú của cô kêu Hương chở đi học sớm. “Hổ mẫu sinh hổ tử”, cậu con duy nhất của Hương năm nay mới đoạt giải nhất cờ vây TP, độ tuổi 7 – 12. “Học mấy tháng được giải”, chợt thấy sư thái vui hơn. Cô nói mình đã không còn sống với chồng từ bốn năm nay. Bây giờ sư thái nuôi con, chở con đi học một mình, thỉnh thoảng mới đưa con về nhà nội thăm bên Gò Vấp.
Quốc tế đại sư
“Diệt tuyệt sư thái” kể: “Thường thì đàn ông thích chơi cờ với nhau hơn, ít khi đánh với nữ”. Cái ưu thế của cô chính là đem lại cho họ sự tò mò khi đánh độ: “Đôi khi, họ muốn đánh thử với mình xem, cách đánh mình thế nào. Cũng có lúc, họ xem thường con gái”.
Một lần, khoảng giữa thập niên 80, Hương có khách bắt độ là một “ông già 80” như người đời vẫn gọi. Ông già cao tuổi nhưng rất mê cờ, tính lại nóng nên hễ thua là chửi, xin khất tiền. Cáp độ với “đứa con gái” là Hương, ông kêu phải chấp 1 xe. Đánh hoài, đánh hoài ổng cũng chẳng thắng nổi “đứa con gái”. Có trận, đánh nhiều ván từ 10 giờ sáng đến 6, 7 giờ chiều vẫn chưa buông bàn. Được cái ông già chỉ mê cờ thôi chứ không máu cờ bạc nên ván nào cũng đánh độ số tiền như nhau, không đánh “đôn”, đánh “bồi” tiền. Có lần, thua nhiều quá, hết sạch tiền rồi nhưng “ông già 80” vẫn bắt Hương đánh tiếp, xin khất mai trả. Nhưng đánh hoài cũng chẳng thắng nổi một “đứa con gái”.
Có một lần “nhớ đời” trong quãng thời gian hành hiệp, Hương nói “đến già cũng không dám đi nữa”. Đó là lần cô được ông anh giang hồ dẫn vô đánh cờ độ trong một hẻm lạ. Tin tưởng tài nghệ Hương, ông anh quả quyết: “Đi kiếm tiền, chắc chắn ăn được”. Hai anh em tướng tá ốm yếu mới liều mạng “vào hang bắt cọp”. Đối thủ sức cờ không cao nhưng đòi đánh “đôn”, tiền độ ván sau gấp đôi ván trước. Hương dễ dàng thắng ngay hai ván. Đến lúc này, đối thủ bắt đầu nóng mặt. Trong khi, dân trong hẻm chẳng biết ở đâu bu lại như kiến, chửi thề rần rần bởi tưởng bị gài độ. Bị cả chủ lẫn khách gây sức ép, ván thứ 3 Hương tiếp tục phải đánh “đôn”. Cô buộc phải xin thua rồi đứng dậy, “bận chuyện đi về”. Trả lại hết tiền, qua khỏi hẻm mà trống ngực vẫn đập thình thình vì sợ: “Sợ dân xóm đánh ông anh thôi, họ nghĩ ổng gài độ mình vô đây để lấy tiền người xóm”. Mới biết, bản lĩnh giang hồ cũng như sức cờ của Hương lúc đó đã mạnh như thế nào.
Đến năm 1993, TP bắt đầu có giải cờ nữ, bên Q.4 thấy Hương đánh hay nên kêu vô đội. Tất nhiên là Hương vô đối. Rồi cô được diện kiến “ngũ ca” Quách Anh Tú của nhóm Thất Đang, lúc đó làm Chủ tịch Hội cờ TP. Chỉ qua vài nước đi, “ngũ ca” đã phát hiện ngay tài năng đầy hứa hẹn của “con họa mi đá”. Chẳng cần tuyển trạch, ông Tú cất luôn Lê Thị Hương vào đội tuyển TP, năm đó cử đi ngay Bắc Kinh thi tài. Trời chẳng phụ lòng người. Ngay lần đầu tiên bước khỏi thế giới cờ độ giang hồ đến với sân chơi quốc tế, “Diệt tuyệt sư thái” đạt hạng 4 giải vô địch thế giới. Cùng năm đó, cô giành luôn hạng 3 giải Các danh thủ châu Á tại Thái Lan, rồi được phong ngay là Quốc tế đại sư. Từ đó đến năm 2001, Lê Thị Hương đăng đàn, liên tục giành các danh hiệu vô địch trong nước, giải thứ hạng cao cấp quốc tế...
***
“Nhất sát” Lê Thiên Vị nói rằng những năm gần đây, sức cờ của Diệt tuyệt sư thái đã không còn mạnh như trước. Tương lai, Hương sẽ được bồi dưỡng, quy hoạch làm công tác huấn luyện. Bản thân cô cũng mong muốn làm huấn luyện viên dù cho các sếp vẫn nói “còn đánh được cứ đánh đi”. Vậy là hằng tuần, sư thái vẫn sang bên Q.4 luyện cờ, học hỏi thêm kinh nghiệm với thầy Mai Thanh Minh. Những ngày không học, cô phải lặn lội xuống tận khu người Hoa ở Q.5, Q.6 để đánh độ “dợt cờ”. Tập luyện là chính chứ cáp độ cũng chẳng được bao nhiêu nữa, có ngày chẳng được độ nào, cà phê chán rồi lại về đón con. Khi đồng lương tuyển thủ không đủ sống, hỏi Hương sao không tham gia dạy thêm, cô nói rất thật: “Phụ huynh cũng nhiều người xin dạy cho con họ nhưng trình độ phổ thông mình không cao, không dám nhận”.
Nghe chuyện “Diệt tuyệt sư thái” lừng lẫy một thời, giờ vẫn còn phải đối mặt nỗi lo cơm áo, chợt thấy buồn và tiếc.

giadinh7777
28-10-2011, 09:45 AM
Xin post tiếp bài 3: Thuận pháo vương Phạm Tấn Hoà

Năm 1974, giới chơi cờ đồng cảm phục phong danh hiệu "Thuận pháo vương" cho kỳ thủ Phạm Tấn Hòa, một trong những tinh hoa của làng cờ tướng thành phố với bí kíp khai triển hai ngọn pháo xuất quỷ nhập thần.
Bí kíp lót vali
Năm 1959, kỳ vương Hồng Kông Lý Chí Hải sang Sài Gòn thi đấu, mang theo một cuốn sách quý về cờ tướng. Hồi đó, sách Trung Quốc bị cấm ở Việt Nam vì nhiều lý do. Để trót lọt, kỳ vương Hải đã phải tháo bỏ bìa sách, xé từng trang sách rời rạc đem lót dưới đáy vali, hành lý... xem như những tờ giấy lộn. Sang tới Sài Gòn, kỳ vương được kỳ thủ Việt Nam Nguyễn Văn Anh đãi đằng thân mật lắm, nói như ông Hòa thì "sáng cháo, chiều cơm, tối yến"... Cảm phục tình thâm giao, kỳ vương Hải gom những trang sách đó lại, tặng cho người bạn cờ Việt Nam. Ông Anh mới đóng lại thành một cuốn, coi như sách gối đầu giường.
Năm 1969, như duyên trời định, ông Anh tặng lại Phạm Tấn Hòa cuốn sách quý, thậm chí lúc đó ông Hòa cũng không biết nó tên gì nhưng ông dám chắc "ngoài tôi ra không ai có cuốn thứ hai". Đọc nghiến ngấu cuốn sách, ông Hòa thấy nó quá hay, biến hóa khôn lường, đặc biệt ông rất tâm huyết thế trận thuận pháo. Năm 1971, ông Hòa đã phần nào cảm nhận được tinh hoa của thế trận, bắt đầu sử dụng vào những ván cờ, qua đó chiếm nhiều thượng phong. Phải đến 3 năm sau, ông Hòa mới cho rằng mình tạm thời đã nghiên cứu và lĩnh hội xong cuốn sách, lúc đó ông mới biết tên nó là Tượng kỳ trung phong của soạn giả Vương Gia Lương người Trung Quốc.
Ông Hòa giảng giải: "Thuận pháo, hiểu nôm na là 4 con pháo của hai bên đứng cùng một phía của bàn cờ. Tôi đánh thuận pháo, cũng giống như người ta đá banh, sẵn sàng thủ hoặc tiến đôi công với đối thủ". Ông tâm đắc: "Trận thuận pháo, tôi sử dụng thoáng cờ, hoạt động được 2 xe, 2 pháo mạnh mẽ trong khi 2 ngựa tấn công không hiệu quả, đôi khi tôi để ở nhà".
Một thế trận, một đời người
Năm 1974, thế trận thuận pháo lừng danh bắt đầu đăng đàn. Trước giải, ông Hòa đã ngẫu hứng tuyên bố "tôi sẽ dùng thuận pháo để chiến đấu" nhưng các đối thủ dù biết vẫn không thể đối phó nổi. Và "pháo" đã giật đùng đùng! Ông Hòa oanh liệt hạ gục hết đối thủ này đến đối thủ khác để vô chung kết với cao thủ tiền bối Thanh Mai Phạm Nam Đài. Thuận pháo lại giành chiến thắng vang dội. Phạm Tấn Hòa chính thức đăng quang ngôi vị "Thuận pháo vương", qua đó ít nhiều làm lu mờ danh hiệu "Phi pháo vương" của danh thủ Trần Đình Thủy, một phần cũng vì trận "phi pháo" đã không còn bén nhọn, bị đối phương bắt bài nhiều.
Hai năm sau, trước một giải đấu khác, ông Hòa lại tự tin tuyên bố là mình vẫn dùng thuận pháo để chiến đấu. Dù theo ông, lúc đó các cao thủ người Hoa ở Q.5 đã có nhiều tài liệu nghiên cứu để phá thế trận này. Thực tế khi vô giải, đôi lúc thuận pháo đã không còn chiếm nhiều thượng phong ở khai cuộc và trung cuộc. Đến lúc này, bản lĩnh Phạm Tấn Hòa lại một lần nữa thể hiện ở chữ "nhẫn". Trận chung kết, mặc dù cờ về tới tàn cuộc với ưu thế thuộc về đối phương, pháo - ngựa - 3 chốt đối lại với bên Hòa chỉ có pháo - ngựa - 1 chốt nhưng ông Hòa vẫn thắng nhờ "mình chơi cờ tàn bén, yếu quân nhưng tiến công ráo riết nên giành thắng lợi".
Cờ là nghệ thuật - không phải nghiệp mưu sinh
Phạm Tấn Hòa sinh năm 1940 tại Sài Gòn trong một gia đình có truyền thống yêu nước và yêu cờ. Ngôi nhà ông ở hiện nay ở đường Cô Bắc, Q.1, đã từng là nơi chứa vũ khí và nuôi dưỡng lực lượng cách mạng. Cha ông là Tư Ngọc, cao thủ cờ hạng tiền bối; chú ông là Năm Sáng cũng là bậc "thượng tướng" trong làng cờ; anh ruột ông là Phạm Tấn Nghĩa có biệt tài chơi cờ mù rất giỏi. Có lẽ do truyền thống vậy mà Phạm Tấn Hòa cũng như nhiều đồng môn danh vọng viên mãn hiện nay - không chú trọng cờ là nghiệp mưu sinh: "Tôi hay anh Tú, anh Vị đều có chung nguyên tắc lấy cờ làm nghệ thuật. Không lấy đó làm nghề kiếm sống".
Phải biết rằng, hoàn cảnh ông Hòa trước đây cũng giống với nhiều kỳ thủ đã trót vận vô "nghiệp cờ", đó là không có điều kiện học hành, thiếu bằng cấp bài bản. Nhưng lối thoát của ông lại hoàn toàn khác: "Nhà tôi trước rất khó khăn. Chơi cờ đã tập cho tôi tính kiên nhẫn, cũng vì đó nó giúp cho tôi tự học văn hóa rất nhiều". Trước năm 1960, Sài Gòn không có nhiều nhà máy, xí nghiệp, để xin được việc làm lúc đó là rất khó. Ông nhớ lại: "Hồi đó, kể cả người bằng cấp đàng hoàng, để kiếm việc làm cũng khó. Có kiếm được việc, mất trước 3 tháng lương tiền "cò" cho người giới thiệu là cũng mừng muốn chết rồi".
Nhờ người quen từ cờ, ông Hòa chẳng bằng cấp gì hết nhưng lại xin được vô làm một hãng dược phẩm của Pháp, cũng chẳng mất trước tháng lương nào. Ông kể: "Trước đó, tôi phải đi coi tiệm bán nón nỉ cho một chủ ở đường Nguyễn An Ninh, coi từ 7 giờ sáng đến 5 rưỡi chiều, không có thời gian đi học". Tự trang bị cho mình kiến thức, ông Hòa đăng ký học hàm thụ, họ gửi bài vở đến cho ông qua đường bưu điện, ông vừa làm vừa học ở nhà. Rồi ông học thêm tiếng Pháp... "Tôi đến phỏng vấn xin việc với người phiên dịch. Ông chủ Pháp nói, tôi không quen nên nghe không được. Nhưng tôi nói, ổng nghe được. Tôi hứa với ổng, nếu được nhận vô làm, tôi sẽ rèn luyện tiếng Pháp hơn". Vậy là ông Hòa đậu.
Con ông Hòa giờ thành đạt lắm, 5 người thì ai nấy đều có bằng cử nhân, ông còn có đến 7 đứa cháu nội, ngoại. Giờ nghĩ chuyện xưa, ông thấy tự hào: "Nhớ lại quá khứ sao thấy khó khăn quá. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy tự hào về hồi đó, cũng nhờ làm việc cho hãng Pháp mà tôi có điều kiện đầu tư cho gia đình, dù tiền bạc không nhiều". Năm 1971, Phạm Tấn Hòa tham dự giải Tuệ Thành lần 2, vô tận trận chung kết gặp kỳ thủ khét tiếng Trần Đình Thủy. Trước giải, ông kêu thợ mộc tới, hỏi họ muốn nâng thêm cái gác gỗ cho căn nhà đang ở thì hết khoảng bao nhiêu tiền? Vợ ông mới càm ràm "ông bày đặt, tiền đâu mà sửa nhà". Ông Hòa cười, nói vợ rằng "tôi linh cảm sẽ có tiền".
Y như rằng, lần đó ông Hòa giật giải nhất, phần thưởng rất cao là một kim bài bằng vàng, khoảng 2 lượng. Số vàng đó, cộng với những lần đấu thắng giải chắt chiu được tiền thưởng, ông Hòa cất được căn gác gỗ. Chuyện đang rất vui, chợt ông Hòa chùng xuống, tiếc nuối cho lớp kỳ thủ đàn em: "Nhiều đứa coi cờ là nghiệp, từ cờ chuyển sang cả cờ bạc. Giờ dòm lại, không thấy anh nào khá cả. Đứa đạt giải nhiều nhất, được thưởng nhiều nhất lại là đứa nghèo nhất, nợ nần nhiều nhất". Nghe mà xót xa...
*
Gần 3 năm nay, "Thuận pháo vương" đã giã từ làng cờ để về vui vầy với con cháu, một phần vì mắt ông cũng đã mờ, không thấy đường vì bị "teo gai thị". Một ngày tháng 12.2008, tới thăm ông ở căn nhà nhỏ, gặp một phong thái đĩnh đạc, nói chuyện rất say sưa về cờ, về đời. Ông Hòa kể, hồi chưa hỏng mắt, thỉnh thoảng ông vẫn bày trận thuận pháo "chiêu đãi" anh em đến giao lưu, học hỏi. Thế trận vẫn vững mạnh như năm nào, dù tuổi ông đã cao...