XI. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 - 1340)
1. Những việc cải cách đầu tiên
Đông A tỏ mặt vừng hồng,
Thái tông cải hiệu Kiến trung rõ ràng.
Trần Thừa là Thái thượng hoàng,
Chuyên quyền thính đoán , gồm đường kinh luân.
Soạn làm thông chế lễ văn ,
Thuế điền đã định, số dân cũng tường.
Tướng thần mới đặt bình chương ,
Huyện châu sai kẻ khoa trường trị dân,
Bạ đầu thi kẻ lại nhân.
Hiệu quân Tứ thánh, Tứ thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ Độ chuyên đường trị dân.
2. Văn học và võ công
Thượng hoàng phút đã từ trần,
Thái tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao minh đã có tư trời ,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.
Sùng văn , tô tượng Khổng, Nhan ,
Dựng nhà Quốc học , đặt quan Giám thần ,
Bảy năm một hội thanh vân ,
Anh tài náo nức dần dần mới ra.
Trạng nguyên, bảng nhỡn, thám hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái học chư sinh,
Lại thi tam giáo chia rành ba khoa.
Thân chinh trỏ ngọn thiên qua ,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.
3. Phong tục đời Trần
Vì ai, đạt gánh giang san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại , coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung
Bởi ai đầu mở hôn phong,
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng!
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng,
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên Thành công chúa vu quy,
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành?
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thụy bà lăng líu, Trung Thành ngẩn gơ:
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích ca.
Tin lời phong thủy khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc cung.
4. Đức độ và chánh trị của Trần Thánh tông
Thánh tông hiếu hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến lạc , cõi ngoài ấm phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn nho khuya sớm giảng cầu,
Kẻ tu sử ký, người chầu kinh diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn luyện tập thuyền Cửu sa.
5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ
Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngọa vân.
6. Anh tông và Minh tông
Anh Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn đức, ngoài cần vũ công.
Có châm để dạy Đông cung.
Thủy vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông A.
Quyện cần rồi lại xuất gía,
Minh tông kế thống cũng là hiền vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường mối sau.
Tiếc không biện biệt ngư châu
Để cho tà nịnh ở đầu giai ban.
Khắc Chung thêm dệt lời gian,
uốc Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.
7. Việc đánh dẹp về đời Hiến tông
Hiến tông làm máy lung linh,
Nghiêm xem tinh độ vận hành không sai.
Thạch đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ công,
Đà giang xa mã, Nam nhung tinh kỳ
Cổ quăng mấy kẻ truy tùy,
Nhữ Hài, Chiêu Nghĩa đều về thủy cung
Kiềm châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.
XII. Nhà Trần (Thời kỳ suy vi: 1341 - 1400)
1. Nhà Trần bắt đầu suy
Dụ tông em lại thừa diêu,
Ngôi thay anh cả, quyền theo Thượng hoàng.
Thượng thư mới đặt tỉnh đường,
Đề hình chuyển vận chức thường có tên.
Khuyến nông sai sứ đồn điền,
Vân đồn đặt trấn tra thuyền khách nhân.
Khu tào thống lĩnh cấm quân,
Phong đoàn lại mới kén dần các đô.
Uy thanh xa động biên ngu,
Chiêm thành Chế Mộ dâng đồ thổ nghi
Mong nhờ đưa lối về quê,
Hay đâu gặp gió trở về luống công.
Thượng hoàng đã vắng mặt trong,
Nào ai kiêng sợ mà lòng chẳng di?
Đền Song quế, ao Thanh trì,
Muông chim hoa cỏ thiếu gì trò chơi!
Trong cung cờ bạc chơi bời,
Tiệc vui chuốc chén, trận cười leo dây!
Đạo thường chẳng cẩn phòng vi,
Chị em chung chạ loạn bề đại luân.
2. Dương Nhật Lễ tiếm vị
Truyền ngôi con đứa ưu nhân,
Để Dương Nhật Lễ tiếm trần dựng lên.
Thói nhà bài hước đã quen,
Tiếng hòa nhịp phách, hát chen cung đàn.
Hiến từ đã phãi hàm oan,
Trần công mưu hở thân tàn cũng thương!
Nghệ tông dòng dõi thiên hoàng,
Đà giang lánh dấu, liệu đường khuất thân,
Tiềm mưu với kẻ tôn thần,
Đem về xã tắc nhà Trần thủa xưa.
Yêu phân dành đã tảo trừ,
Cũng là nối một mối thừa lại sau.
3. Chiêm thành xâm nhiễu
Tiếc sao một bực ưu nhu,
Đông A từ ấy cơ đồ mới suy.
Giậu phên trống trải biên thùy,
Giặc Chiêm giong ruổi đô kỳ xôn xao.
Quý Ly cho dự khu tào,
Báu thiêng lại để gian hàokhải du
Duệ tông hăm hở phục thù,
Đánh Chiêm nào quản tri khu dặm trường.
Khinh mình vào động Ky mang,
Tinh kỳ tan tác gió sương mịt mù.
Em là Phế đế hôn ngu,
Chôn tiền giấu của như đồ trẻ chơi.
4. Lê Quý Ly phế lập
Quý Ly quyền lấn trong ngoài
Buông lời sàm gián quên bài tôn thân.
Truyền vời Phế Đế vào sân,
Lụa đào một tấm bể trần kết oan.
Thuận tông tuổi mọn tài hèn,
Ngồi không mà để chính quyền mặc ai.
Phải chăng bởi tại mưu người,
Mà điềm trẫm triệu cơ trời lạ sao!
Thượng hoàng một giấc chiêm bao,
” Bạch kê, xích chủy” ứng vào câu thơ.
Loạn trưng đã hiện từ giờ,
Mà đồ tứ phụ ai ngờ vẽ ra!
Chim con đem gửi ác già,
Chắc đâu phó thác hẳn là đắc nhân!
XIII. Nhà Hồ và giặc nhà Minh (1400 - 1418)
1. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần
Quý Ly gắm ghé vạc Trần.
Quyết dời kẻ chợ về gần An tôn.
Đã xui truyền vị cho con,
Ngọc Thanh lại kết oan hồn một giây.
Gặp khi Thiếu Đế thơ ngây,
Khát Chân, Trần Hãng đêm ngày hợp mưu.
Hội minh vừa mới lên lầu,
Ba trăm đồ đảng cùng nhau hiệp tình.
Dùng dằng chưa kịp cất binh,
Hở cơ một phút tan tành như tro.
Quý Ly mới đổi họ Hồ,
Quốc danh là hiệu Đại Ngu chương hoàng.
Truyền ngôi con cả Hán Thương,
Tự xưng là Thái thượng hoàng ở trong.
Sai người dâng biểu cầu phong,
Dối Minh xin để nối dòng quốc quân.
2. Quân Minh diệt nhà Hồ
Nguyễn Khang giả tiếng họ Trần,
Sang Minh xin lấy viện quân đưa về.
Chi lăng nghe động cổ bề,
Lý Bân, Mộc Thạnh trỏ cờ tới nơi.
Quân Minh nhân thế đuổi dài,
Nhị Hồ mới chạy ra ngoài phương xa.
Núi Cao vọng, bến Kỳ la,
Đường cùng phải bắt cũng là trời xui!
Tôn vinh kể được mấy hơi,
Sáu năm tiếm vị, muôn đời ô danh
3. Trần Giản Định chống Minh
Quý Ly tội ác đã đành,
Rồi ra lại gặp người Minh hung tàn.
Chia phủ, huyện, đặt quân quan,
Cỏ cây đều phải lầm than hội này
Dòng Trần chưa dứt một dây,
Triệu Cơ còn rắp ra tay đồ hồi.
Lại phù Giản Định lên ngôi,
Cảnh Chân, Đặng Tất vua tôi hiệp tình.
Mở cờ đánh với quân Minh,
Phá đồn Cổ lộng, đốt thành Bô cô.
Ví hay nhân thế tràng khu,
May ra khôi phục cơ đồ cũng nên.
Trùng hưng cơ tự chưa bền,
Bỗng không đem kẻ tướng hiền giết đi,
Cho nên hào kiệt bạn ly,
Cánh vây không có, còn gì mà mong?
4. Trần Trùng Quang chống Minh
Tướng môn lại có con dòng,
Đặng Dung, Cảnh Dị mới cùng hợp mưu.
Một hai quyết chí đồng cừu
Cùng đem binh sĩ ruổi vào Chi la.
Lại tìm dòng dõi Trần gia,
Tôn phù Quý Khoáng, ấy là Trùng Quang.
Đem binh vào phủ Thiên tràng,
Đón vua Giản Định về đàng Nghệ an.
Cùng nhau gánh việc gian nan,
Hạ hồng tế ngựa, Bình than đỗ thuyền.
Quân Minh cố giữ thành bền,
Bỗng đâu Trương Phụ băng miền lại sang.
5. Quân Minh chiếm toàn cõi Đại Việt
Từ khi Giản Định đầu hàng,
Nghệ an đất cũ Trùng Quang lại về.
Quân Minh chiếm giữ Bắc kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thùy một nơi.
Đặng Dung, Cảnh Dị mấy người,
Thế cùng dù có tướng tài cũng thua.
Trước sau mười bốn đời vua,
Một trăm tám chục xuân thu chưa chầy.
Loạn cơ bởi tự ai gầy?
Quý Ly tiếm thiết tội dây muôn đời.
Chẳng qua lịch đổi, số dời,
Xui ra cho đứa gian hồi nhuốm tay.
6. Chính sách nhà Minh
Cốc lăng trời khéo đổi thay,
Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Minh.
Người trí thức, kẻ tài danh,
Nam sơn đào độn, Bắc đình câu lưu,
Thuế tơ, thuế thóc tham cầu,
Mỏ vàng mỏ bạc, trưng thâu cũng nhiều;
Săn bạch tượng, hái hồ tiêu,
Mò châu, cấm muối, lắm điều hại dân.
XIV. Nhà Hậu Lê (Thời kỳ thống nhất: 1418 - 1526)
1. Lê thái Tổ phá giặc Minh
Mới hay cơ tạo xoay vần,
Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
Thiếu chi hào kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh luân.
Lương giang trời mở chân nhân,
Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới ra.
Lam sơn khởi nghĩa từ nhà,
Phong trần lắm lúc kể đà gian nguy.
Lạc xuyên đầu giết Mã Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản chương.
Chia quân kinh lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
Vương Thông bền giữ cô thành.
Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sang.
Trời nam đã có chủ trương,
Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tinh.
Chi lăng các đạo phục binh,
Liễu Thăng, Mộc Thạnh liều mình nẻo xa.
Vương Thông thế túng cầu hòa,
Quyền phong Trần Cảo gọi là Quốc vương.
Ngôi thiêng sao xứng tài thường.
Trần Công trẫm sát để nhường long phi.
2. Nhà Lê kiến quốc
Thuận thiên niên hiệu cải đề,
Non sông mới thuộc về Lê từ rầy,
Quan danh, quân hiệu mới thay,
Bản đồ đổi lại huyện này, phủ kia.
Dựng nhà học, mở khoa thi,
Triều nghi, quốc luật một kỳ giảng tu
Mười năm khai sáng cơ đồ,
Sáu năm bình trị qui mô cũng tường.
Thái tông rộng mở khoa trường,
Lập bia tiến sĩ trọng đường tư văn.
Chín năm noi nghiệp cơ cần,
Viễn di mến đức, cường thần sợ uy.
Tuổi xanh hoang túng nhiều bề,
Vườn xuân lắm lúc say mê vì tình.
Đông tuần về đến Bắc ninh,
Riêng cùng Thị Lộ quên mình bởi ai?
Nhân tông tuổi mới lên hai,
Quyền trong mẫu hậu, chính ngoài thần công.
Mười năm một hội đại đồng,
Văn mô rạng trước, vũ công phục ngoài.
Đánh Chiêm thành, cằt Bí cai,
Đổ bàn, Cổ lũy các nơi hướng tiền.
3. Lê Nghi Dân cướp ngôi
Diên ninh vừa độ trung niên,
Nhân tông tuổi cả mới lên ngự trào.
Nghi Dân cốt nhục nỡ nào,
Tiềm mưu đêm bắc thang vào nội cung
Mẹ con đương thủa giấc nồng,
Hồn tiên liều với gian hùng một tay.
Nghi Dân chuyên tiếm từ đây,
Lương tâm đã dứt, ác cai lại nồng.
Đình thần nghị tội truất phong,
Rước Gia vương, ngự đền rồng cải nguyên.
4. Thời kỳ toàn thịnh: Lê Thánh tông
Thánh tông cốt cách thần tiên,
Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia công,
Quốc âm, Đường luật tinh thông,
Thiên văn, toán pháp, binh nhung cũng tường.
Tài cao mại, đức thù thường.
Kiến văn đã rộng, thi trương cũng già,
Ba năm lại mở một khoa,
Tân hưng, đại tị theo nhà Thành Châu,
Nhạc âm, lễ chế giảng cầu,
Quan danh, phục sắc theo trào (triều) Đại Minh.
Mở Quảng nam, đặt Trấn ninh
Đề phong muôn dặm uy linh ai bì.
Kỷ công núi có Đá bia,
Thi văn các tập ‘ Thần khuê còn truyền.
Thừa diêu lại có con hiền,
Hiến tông nhân thứ rạng nền tiền huy.
5. Nhà Lê bắt đầu suy
Túc tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thân.
Văn Lang xướng suất phủ quân.
Thần phù nối áng phong trần một phương.
Giản Tu cùng phái ngân hoàng,
Vào Thanh hợp với Văn Lang kết thề.
Đem binh vây bức đô kỳ,
Quỷ vương khuất mặt, quyền về Trư vương.
Lại càng dâm ngược kiêu hoang.
Trăm gian, nghìn nóc, cung tường xa hoa.
Lại càng bác tước họ nhà.
Cành vàng lá ngọc đều là điêu linh.
6. Loạn Trần Cảo và Trịnh Duy Sản
Phương ngoài Trần Cảo lộng binh,
Mà trong Duy Sản mống tình bạn quân.
Đem binh vào cửa Bắc thần,
Bích câu một phút mông trần bởi ai.
Giềng Lê khi đã đổi dời,
Mặc tay Duy Sản đặt người chủ trương
Đã tôn con Mục ý vương,
Lại mưu phù lập Chiêu hoàng cớ sao?
Thị thành vừa lúc xôn xao,
Lại đưa xa giá ruổi vào cõi Tây,
Lòng trời khử tật mới haý,
Giết Duy Sản lại mượn tay giặc Trần.
Tướng tài còn có Trần Chân,
Nguyệt giang chống với giặc Trần mấy phen
Ngụy Trần vào cứ Đồng Nguyên,
Truyền ngôi con cả, cải nguyên Tuyên hòa,
Cạo đầu vào cửa Thích già,
Y qui nương bóng Di đà độ thân.
7. Chính quyền tan rã
Trời sinh ra hội phong trần,
Mạc Đăng Dung lại cường thần nổi lên.
Trần Chân tay giữ binh quyền,
Trên ngờ thế cả, dưới ghen tài lành
Tiếc thay có tướng can thành,
Tin sàm mà nỡ dứt tình chẳng tha.
Vì ai gây gỗi oan gia,
Để cho Nguyễn Kính lại ra báo thù.
Kinh sư khói lửa mịt mù.
Xe loan ra cõi Bảo châu tỵ trần.
Nguyễn Sư cũng đảng nghịch thần,
Nửa năm phù lập hai lần quốc vương.
Ngàn Tây một cõi chiến trường,
Phó cho Mạc súy sửa sang một mình.
8. Mạc Đăng Dung chuyên quyền
Đăng Dung cậy có công danh,
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chi.
Chiêu Tông gặp lúc hiềm nghi,
Nửa đêm lén bước chạy về Tây phương.
Đăng Dung lập lại Cung hoàng,
Hành cung tạm trú Hải dương cõi ngoài.
Xe loan về đến kinh đài,
Sẵn sàng thiền chiếu ép bài sách phong.
Họa tâm từ ấy càng nồng
Lương châu Tây nội cam lòng cho đang.
XV. Nhà Mạc (1527 - 1592)
1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung
Mạc rầy rõ mặt tiếm cường,
Thăng long truyền nước, Nghi dương dựng nhà.
Dỗ người lấy vẻ vinh hoa,
Nhưng lòng trung nghĩa ai mà sá theo.
Cầu phong sai sứ Bắc triều,
Dâng vàng, nộp đất nhiều điều dối Minh.
Lê thần có kẻ trung trinh,
Trịnh Ngung sang đến Bắc đình tỏ kêu.
Minh tham lễ hậu của nhiều,
Phụ tình trung nghĩa, quên điều thị phi.
Đăng Dung thỏa chước gian khi,
Tuổi cao rồi lại truyền về Đăng Doanh.
Mã giang đầu xướng nghĩa thanh,
Gần xa đâu chẳng nức tình cần vương.
Được thua mấy trận chiến trường.
Nghìn thu tiết nghĩa đá vàng lưu danh.
2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê
Cành Lê có độ tái vinh,
Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiền.
Đức vua Triệu tổ ta lên,
Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng,
Sầm châu ỷ thế nguồn rừng,
Mười năm khai thác mấy từng nước non,
Dù khi đỉnh tộ suy mòn,
Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lê.
Trang tông lưu lạc tìm về,
Chia binh Thúy đả, mở cờ Ai lao.
Lôi dương một trận binh giao,
Phá tan nghịch đảng tiến vào Nghệ an
Cỏ hoa mừng rước xe loan,
Thổ hào ứng nghĩa dân gian nức lòng,
Tây đô quét sạch bụi hồng,
Dặm tràng thẳng trỏ ngọn đòng tràng khu
Hẹn ngày vào tới Đông đô,
Một hai thu phục cơ đồ thủa xưa.
Độc sao hàng tướng tiến dưa!
Trước dinh Ngũ trượng bỗng mờ tướng tinh.
3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc
Tiếc thay công nghiệp thùy thành,
Dể cho Trịnh Kiểm thay mình thống quân
Sáu năm vừa hội hanh truân,
Đỉnh hồ đâu đã đến tuần mây che.
Trung tông nhờ cậy dư uy,
Mạc thần mấy kẻ cũng về hiệu trung.
Biện dinh quân mạnh, tướng hùng,
Bốn phương hào kiệt nức lòng y quang.
Đông kinh trỏ ngọn việt vàng,
Phúc Nguyên Mạc chúa chạy sang Kim thành.
Thần phù thuyền giã lênh đênh,
Lại còn Kính Điển đeo tình quấy trêu.
Quan binh theo ngọn thủy triều,
Duyên giang một trận, nước bèo chảy tan.
Anh tông nối nghiệp gian nan,
Tây đô một giải giang san cõi nhà.
Mạc vào xâm nhiễu Thanh hoa,
Thái sư Trịnh Kiểm lại ra tiễu bình.
4. Nguyễn Hoàng vào Hóa Châu
Hóa châu có đất biên thành,
Bốn bề sơn hải trời dành kim thang.
Trịnh công tâu với Lê hoàng,
Chọn người ra giữ một phương thành dài.
Bản triều Thái tổ hùng tài,
Gióng cờ ra trấn cõi ngoài từ đây.
Việt mao khi đã đến tay,
Hoành sơn một giải mới gây cơ đồ.
5. Trịnh Mạc phân tranh
Mặt trong đành đã khỏi lo,
Trịnh công chuyên ý trì khu cõi ngoài.
Quận Gia, quận Định mấy người,
Hưng, Tuyên binh hợp các nơi thêm dầy.
Mạc dần suy yếu từ nay,
Vận Lê xem đã đến ngày trùng hanh.
Đem quân về giữ Tây kinh,
Bể Thanh lại lặng tăm kình như không.
Nhân khi Mậu Hợp ấu trùng,
Mở đường Phố cát, qua sông Bồ đề.
Mạc vào, quân lại rút về,
Mạc lui, quân lại bốn bề kéo ra.
Tuyết sương trăm trận xông pha,
Trịnh Công vì nước cũng đà cần lao.
6. Trịnh Tùng chấp chính
Tuổi già vừa giải tiết mao,
Con là Trịnh Cối lại vào đổng nhung.
Kiêu hoang quen thói con dòng,
Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh,
Cối, Tùng một gốc đôi cành,
Vinh khô đã khác, ân tình cũng khuê,
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xâm.
Mạc lui, Tùng mới manh tâm,
Ngoài trương thanh thế, trong cầm quyền cương.
Lại mưu tàn hại trung lương,
Vàng đưa ngoài cửa, búa trương dưới màn.
Tạ tình phụ tấm niềm đan,
Đem Lê Cập Đệ giết oan nỡ nào!
Bằng không nổi trận ba đào,
Để cho xa giá chạy vào Nghệ an.
Giá điền vừa mới hồi loan,
Lôi dương đã nổi tiếng oan giữa vời.
Thế tông con thứ nối đời,
Trịnh Tùng phù lập cùng loài giả danh.
7. Trịnh Tùng diệt Mạc
Cõi ngoài giặc Mạc tung hoành,
Bắc hà cát cứ mấy thành nhân dân.
Giáng uy nhờ có lôi thần,
Nhân khi Mậu hợp đến tuần thiên tru
Mạc thần mấy kẻ vũ phu,
Sao mai lác đác, lá thu rụng rời.
Xuất binh vừa gặp cơ trời,
Đường ghềnh len lỏi ra ngoài Thiên quan.
Tràng khu một lối duyên san,
Huyện châu gió lướt, Tràng an lửa nồng.
Bỏ thành, Mạc chạy qua sông,
Đuổi sang Phượng nhỡn đường cùng mới thôi,
Kể từ Ngụy Mạc tiếm ngôi,
Năm đời truyền kế sáu mươi năm chầy.
Trần ai quét sạch từ rày,
Về kinh ban yến, tiệc bầy thưởng công.
XVI. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê Chúa Trịnh: 1593 - 1729)
1. Giao thiệp buổi đầu với Trung hoa
Mới sai sứ giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin nghi.
Sai quan hội khám một kỳ,
Phong làm Đô thống, cơ mi gọi là!
Phùng Khoan sứ tiết cũng già,
Biểu từ biện chiết thật đà thiết minh.
Mấy lời ôn dụ đinh ninh,
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.
2. Trịnh Tùng xưng chúa
Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh nầy lại lên.
Tùng xem căn cứ đã bền,
Công danh càng thịnh, uy quyền càng cao.
Rỡ ràng ngọc sách, tinh bao,
Gia phong Nguyên súy, dự vào sủng chương
Bình an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm thiết, mở đường khải du.
Kính Tông còn độ ấu cô,
Đống lương ai kẻ xanh phù vạc Lê?
Triều thần những lũ Bùi Khuê,
Lại tìm Mạc nghiệt theo về Kính Cung.
Nghi dương tro tắt lại nồng,
Thị thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô thành.
Quan quân ra đánh lại bình,
Thặng dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu cữu biết đời thịnh suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh chúa lại nghi Lê hoàng.
Sinh con gặp đứa vô lương,
Châu liên sao nỡ quên đường quân thân?
3. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa
Thừa gia theo lối cường thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân tuần đã quen,
Thần tông vừa mới cải nguyên,
Sách phong Trịnh Tráng đã ban từ giờ.
Thành đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian khi,
Làm cho rõ mặt phúc uy tự nhà.
Chân Tông tuổi mới mười ba,
Hững hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc vương Minh mới cải phong,
Bảy năm lịch số vừa chung một đời
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng hoàng lại đổi mặt ra tân hoàng.
Thờ ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính quyền phó mặc Trịnh vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường thần.
Sắc phong chiếu dụ ân cần,
Phó vương Trịnh lại thêm phần tôn vinh.
Cả giầu sang, lớn quyền hành,
Giang sơn chung một triều đình chia đôi.
4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc
Tiếm phong, Trịnh Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài bồi cho con.
Càn cương ngày một suy mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu trung,
Bản triều mở dấu Kỳ phong,
Thánh thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc kỳ tiến chinh.
Sáu năm rồi mới bãi binh,
Lũy dài còn dấu uy linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân chuyên,
Huyền tông thơ ấu để quyền Tây vương.
Đẳng uy đã biến lễ thường,
Vào chầu không lạy, miếu đường có ai?
Thiên nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải bộ gây nền tranh vương.
Vũ công lại muốn phấn dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao bình.
Mạc vào cầu viện Yên kinh,
Phong làm Đô thống tung hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia tông vừa nối cơ đồ,
Xe loan đã giục trì khu ra ngoài.
Phòng biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, lũy dài phá tan,
Mã đầu đã trở quy an,
Hà trung Trịnh lại đặt quan lưu đồn.
5. Trịnh Căn và nhà Thanh
Về nhà lập lại Trịnh Côn (Căn)
Nam vương theo lối quyền môn một dòng.
Đêm ngày bí các thong dong,
Văn thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc Trinh tham tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu binh?
Hy tông hoàng đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc nghiệt mấy đời đến nay.
Di thư sang với Quảng tây,
Một lần hội tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị xuyên, Bảo lạc, Nà oa, Lộc bình.
Thổ quan lại có tư tình,
Tham vàng đem giới kệ chuyển di.
6. Triều thần nhà Lê
Bên ngoài xâm tước nhiều bề,
Ở trong chính sự chỉnh tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm anh,
Nguyễn Đang, Đồng Trạch công thanh một đường.
Thế Vinh tài học ưu trường,
Nguyễn Hành, Hà Mục văn chương cũng già.
Bởi ai thiên hạ âu ca,
Chẳng quan tham tụng Vãn hà là chi?
Bởi ai thiên hạ sầu bi,
Chẳng quan tham tụng Lê Hy hãnh thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giầu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ trụ làm bia trong đời!
7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương
Dụ tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố gia
Lục phiên lại đặt tư nha,
Bao nhiêu tài phú đều là về tay.
Các quan trấn thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống hạt từ rầy chia hai.
Vũ thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên ly.
Lấy năm điều khảo trấn ti,
Cứ trong điến tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp ti.
Vũ khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao lược, thử nghề dao cung.
Ba trường phúc thí đã xong,
Đề danh tạo sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ trấn binh đinh,
Vệ quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công tư điền thổ xưa nay,
Sai quân khám đạc san tay dân cùng
Tuần hành có sứ khuyến nông.
Giữ gìn đê lộ, xét trong dân tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ chú hà,
Giới cương tự đó mới là phân minh.
Qui mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ đường ở Cổ bi,
Toan đem kinh quốc dời về cố hương
Đông cung đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao?
XVII. Nhà Lê suy vi (Trịnh Nguyễn phân tranh: 1729 - 1782)
1. Chính sách đồi bại của Trịnh Giang
Trịnh Giang quen lối gian hào.
Truất ngôi Vĩnh Khánh hãm vào tội nhân.
Thuần Tông đặt bỏ mấy lần,
Phúc uy mặc sức cường thần mới ghê.
Ý tông còn tuổi hài đề
Danh tuy chính thống , quyền về phó vương.
Trịnh càng dâm ngược kiêu hoang,
Đêm ngày luống những tham đường vui chơi.
Dấu xe giong ruổi quanh trời,
Sửa sang cảnh Phật, vẽ vời động tiên.
Quỳnh lâm, Hương hải, Hồ thiên ,
Của thiên hạ chất cửa thiền biết bao?
Kho tàng ngày một tiêu hao ,
Bán khoa, mua tước tiền vào sáu cung
Phó vương còn chửa cam lòng,
Thượng vương lại giả sắc rồng nhà Thanh.
Tội trời kể đã quánh doanh ,
Sao cho nghiệp báo đến mình mới thôi.
Bỗng đâu một tiếng thiên lôi ,
Thất kinh ngơ ngác như người chứng điên.
Ở hang lại gọi cung tiên,
Để đoàn nội thụ chuyên quyền lộng uy .
2. Sự loạn lạc ở Bắc hà
Lòng người đâu chẳng bạn ly ,
Ếch kêu, ác họp thiếu gì gần xa!
Sơn nam có giặc Ngân già,
Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ấy là giặc Đông.
Sơn tây: nghịch Tế, nghịch Bồng ;
Động ngoài ba mặt, nhộn trong bốn bề.
Nằm hang Trịnh có biết gì!
Quận Bào, quận Thực đua bì tranh công.
3. Trịnh Doanh và Lê Hiển tông
Phó vương quen lối nhà dòng,
Chẳng phò Trịnh thị sao xong việc đời?
Nguyễn công Quí Cảnh mấy người,
Vào trong định sách ra ngoài diệu binh .
Cùng nhau phù lập Trịnh Doanh,
Thái vương Trịnh lại tôn anh làm vì.
Sai quan kinh lược bốn bề ,
Khải ca mấy khúc đều về tấu công .
Cơ mưu Trịnh cũng gian hùng,
Nghĩ mình chuyên tiếm ắt lòng ai ưa.
Có Lê mới có đến giờ,
Phải cầu hiền đức để nhờ phúc chung .
Kìa người mắt phượng râu rồng,
Duy Diêu vốn cũng là dòng thần minh .
Hạ đài khuất bóng tiền tinh ,
Khuôn thiêng còn để một cành phúc chi .
Hay đâu cầu ứng cũng kỳ,
Bỗng xui Trịnh chúa tạm di ra ngoài.
Vũ công một giấc hiên mai,
Mơ màng dường thấy phong tài đế vương .
Tinh kỳ nhã nhạc lạ nhường,
Thái bình nghi vệ rõ ràng chẳng ngoa.
Sáng mai vừa mới tỉnh ra,
Duy Diêu xảy đến chơi nhà lạ sao?
Thấy người mà nghiệm chiêm bao,
Mới hay trẫm triệu ứng vào tự nhiên.
Nghe lời Trịnh mới phù lên,
Hiển tông từ ấy chịu truyền nối ngôi.
4. Trịnh Doanh và Trịnh Sâm dẹp loạn
Vận Lê đến lúc suy đồi,
Chắp tay rủ áo lặng ngồi mặc ai.
Gặp khi nhiều việc chông gai,
Loạn trong Ba phủ, giặc ngoài bốn phương
Văn thần có kẻ phấn dương ,
Phạm công Đình Trọng gồm đường lược thao .
Phao sơn trỏ ngọn cờ đào,
Nguyễn Cừ đã phá, Nguyễn Cầu cũng tan.
Nguyễn Phương cứ Độc tôn sơn ,
Tuyên, Hưng là đất, lâm man là nhà.
Trịnh vương quyết chí xông pha,
Huyệt sào quét sạch, binh xa mới về.
Quyền gian kế tập quen lề ,
Trịnh Sâm lại cũng sính nghề vũ công.
Mạnh thiên hang thẳm núi cùng,
Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng ẩn thân.
Sai Đoàn Nguyễn Thục đem quân,
Cùng rừng săn thú một lần mới thanh .
Lại toan dẹp cõi Trấn ninh,
Chỉn e địa thế, dân tình chưa quen.
Địa đồ ai khéo vẽ nên,
Thu ngoài man cảnh về bên khuyết đình .
Gần xa đã tỏ tình hình,
Mới sai chư tướng đề binh đánh liền,
Chiềng quang thành lũy vững bền.
Bồ chông núi cả cũng nên hiểm trời.
Biến đâu trửu dịch lạ đời!
Nửa đêm mở lũy cho người tiến sang.
Bởi mưu Ngũ Phúc chiêu hàng
Nguyễn Thiều trong lại đem đàng nội công .
Vậy nên Duy Mật thế cùng,
Hỏa viêm một phút cô dung cũng liều.
5. Trịnh Sâm đánh chúa Nguyễn
Cậy công Trịnh mới thêm kiêu,
Càng đầy đức sắc , càng nhiều ác cai ,
Vu oan nỡ đặt nên lời,
Để cho thái tử thiệt tài thông minh.
Phúc uy chuyên tiếm một mình.
Mạo giầy điên đảo , nghĩa danh còn gì?
Thế mà vạc cả duy trì ,
Bởi tiên liệt thánh Nam Kỳ Nối ngôi.
Nền danh phận, đạo vua tôi,
Gian hùng mất vía đứng ngồi sao an.
Bây giờ có giặc Tây san,
Ở trong lại có Phúc Loan lộng hành .
Thừa cơ Trịnh mới sai binh,
Đưa thư vào trước kể tình ngoại thân .
Rằng: ” Toan trừ đứa lộng thần ,
Cùng nhau quét sạch bụi trần cõi Tây .”
Lá cờ theo ngọn gió bay,
Thừa hư trực để vào ngay nhà Hồ .
Phúc Loan đem lại hiến phù ,
Trịnh binh nhân thế tràng khu dưới thành.
Đôi bên lập lũy phân dinh,
Trầm than mấy trận quan binh hiểm nghèo.
Độ quân nó bắc phù kiều ,
Thúy hoa phất phới qua đèo Hải vân.
Quảng nam đồn trú lục quân ,
Trong Tây ngoài Trịnh, xa gần với ai?
Thuyền rồng vào bến Đồng nai,
Long hưng còn đợi cơ trời có khi.
6. Trịnh Sâm hỏng mưu thoán đoạt
Gió thu lần úa cành Lê,
Ác bay chưa biết đỗ về nhà ai.
Ngụy Tây gắm ghé mặc ngoài,
Trịnh Sâm trong lại sai người cầu phong.
Vũ Trần Thiệu kể là trung,
Mặt tuy ứng mệnh , nhưng lòng vẫn kiên.
Động đình xa vượt bè tiên ,
Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trong.
Biểu tiên phó ngọn đuốc hồng,
Ngậm cười thề với chén nồng , cho xuôi.
Làm cho vỡ mật gian hồi ,
Mà người chìm nổi trong đời thẹn riêng.
7. Đặng Thị Huệ lộng quyền
Xoay vần hay có khuôn thiêng ,
Càng già cỗi ác, càng nghiêng sóng tình.
Tuyên phi là gái khuynh thành ,
Đem bề ân ái chuyên vành phúc uy.
Cướp quyền đích trưởng dựnh bè đồng mông
Yêu cơ khí diễm càng nồng.
Khiến nên Trịnh Khải sinh lòng âm mưu.
E khi sự thế đáo đầu ,
Ước cùng các trấn đều vào giúp công
Điển thư có đứa hầu trong,
Tin lòng nên mới ngỏ cùng Ngô Nhâm .
Người sao chẳng chút lương tâm!
Khoa danh đã nhục, quan trâm cũng hoài!
Lòng riêng tham đắm mùi đời,
Phụ tình thầy tớ , cãi lời phụ thân
Quyết đem sự ấy củ trần ,
Làm cho Trịnh Khải một lần châu liên.