Year: 1939
Director: Victor Fleming
Cast: Clark Gable, Vivien Leigh, Olivia de Havilland, George Reeves, Fred Crane, Hattie McDaniel,
Genres: War, Romance, Musical, Family, Drama, Adventure
Runtime: 222 min.
Scarlett O'Hara là một tiểu thư xinh đẹp quyến rũ và rất kiêu kỳ. Khi cuộc nội chiến Mỹ bùng nổ, cô cũng như mọi người dân khác phải sống một cuộc sống lam lũ vất vả. Tuy vậy cô vẫn có một ý chí và bản lĩnh mạnh mẽ vươn lên.
Scarlett (Vivien Leigh) rất yêu Ashley (Leslie Howard) nhưng anh lại lấy Melanie (Olivia de Havilland) - người mà Scarlett yêu quý làm vợ. Scarlett là một cô gái mạnh mẽ và cuồng nhiệt, trong khi Ashley lại là tuýp đàn ông cổ điển, thích cái đẹp dịu dàng, nữ tính và mềm mại của Melanie. Vì đau buồn và tuyệt vọng trước tình yêu đơn phương không thành, Scarlett tìm đến những cuộc hôn nhân ngắn ngủi và không hạnh phúc. Lần sau cùng, Scarlett đồng ý lấy Rhett Butler để thoát khỏi cảnh nghèo túng và cứu lấy gia đình.
2/ Casablanca
Nội dung: Rick - người đàn ông lạnh lùng và sắt đá một ngày kia gặp lại người yêu cũ khi đó đã có chồng. Cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt và sự giằng xé giữa tình yêu và bổn phận dường như khốc liệt hơn cả cuộc chiến tranh đang diễn ra lúc bấy giờ.
Bối cảnh phim là Chiến tranh thế giới thứ II, khi bóng đen của phát xít Đức đã bao trùm khắp châu Âu. Hàng triệu người tị nạn chạy trốn khỏi những cuộc tàn sát của Đức quốc xã. Casablanca – Morocco trở thành con đường tìm đến sự sống của rất nhiều người, cũng là điểm phân cách hai thế giới, một của nước Pháp thân Đức quốc xã và một là kẻ thù của Đức quốc xã.
Richard Blain - Rick (Humphrey Bogart) là một trong số những người tị nạn tự nguyện ở lại Casablanca. Anh mở một quán lấy tên là Rick’s Cafe và tuyên bố mình theo chủ nghĩa trung lập. Mọi sự đổi khác khi có sự xuất hiện của Ilsa Lund Laszlo (Ingrid Bergman). Ilsa là phu nhân của một thủ lĩnh kháng chiến quân Czech.
Rắc rối xảy ra khi hai người đưa thư người Đức bị giết và mọi tài liệu bị thất lạc. Ugarte (Peter Lorre) nhờ Rick chuyển một bức thư. Anh ta định bán nó nhưng rồi lại phải chạy trốn vì đã giết hai người đưa thư. Viên sĩ quan cảnh sát trưởng Renault (Claude Rains) với quan điểm chính trị trung lập đã báo với Rick rằng Victor Laszlo (Paul Henreid) đang có mặt ở Casablanca và tìm mọi cách để lấy visa. Renault được lệnh giữ chân Laszlo tại Casablanca. Laszlo đến quán Rick để gặp Ugarte để mua lại bức thư.
Tình yêu tưởng đã ngủ yên trong quá khứ một lần nữa bùng lên giữa người đàn ông trầm lặng đến sắt đá và lạnh lùng với người đàn bà xinh đẹp đã có chồng. Cuộc đấu tranh nội tâm và sự giằng xé giữa tình yêu và bổn phận tưởng chừng còn khốc liệt hơn cuộc chiến đang diễn ra xung quanh họ. Cuối cùng, Ilsa quyết định chôn vùi tình yêu mãnh liệt của mình để nguyện hết lòng chung thủy với chồng.
3/ Roman Holiday ( Kỳ Nghỉ Lãng Mạn)
Nội dung: Nàng công chúa Ann kiều diễm trốn thoát khỏi cuộc sống hoàng gia kìm kẹp với những nghi lễ ngoại giao chán ngắt để tự mình du ngoạn Roma. Tình cờ nàng gặp chàng phóng viên trẻ tuổi Joe. Tình yêu bất ngờ đến với họ.
Nàng công chúa Ann là biểu tượng tao nhã mẫu mực của vương quốc trong chuyến công du châu Âu. Nàng được hàng nghìn người Anh nghênh tiếp. Sau ba ngày thăm cung điện Buckingham, Ann bay đến Amsterdam rồi sau đó đến Paris, và cuối cùng là Rome.
Sắc diện quý phái thanh tao luôn thường trực trên gương mặt, trang phục và hành xử của nàng mỗi khi xuất hiện trước công chúng theo đúng nghi thức ngoại giao. Mặc dù vậy, trong lòng nàng đã chán ngấy cuộc sống hoàng tộc bó buộc vì không được sống thỏa thích với chính con người mình.
Một buổi tối, nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi một nửa thế giới đang sống cuộc sống thường nhật của họ, Ann khao khát được bay nhảy nơi ấy, nàng gào lên “Thôi đi” khi được nhắc nhở về một lịch trình kín mít của ngày hôm sau: thăm trại trẻ mồ côi, họp báo, ăn trưa với bộ ngoại giao… với sự lịch thiệp như thế nào, ăn mặc ra sao, dùng những đồ trang sức gì… Cô quyết định sẽ tự mình khám phá Rome. Công chúa Ann bỏ trốn ra ngoài chơi.
Bác sĩ Zhivago (tiếng Nga: Доктор Живаго; tiếng Anh: Doctor Zhivago) là một phim được sản xuất năm 1965 do David Lean đạo diễn và dựa theo truyện nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nga Boris Pasternak (tiếng Nga Бориса Пастернака. Cuốn tiểu thuyết đã được Hàn lâm viện Thụy Điển trao giải Nobel về văn học năm 1958, bị cấm phát hành tại Liên Bang Xô viết cho mãi đến năm 1988.
Nội dung phim
Nói về một mối tình của một bác sĩ đã vợ con, với hồn thơ lai láng, và một cô y tá xinh đẹp lãng mạn mà ông gặp gỡ như một định mệnh oái oăm với những giằng co éo le tình cảm, phim trình bày theo lối kể chuyện xen kẽ nhau hai cảnh đời của Yuri và Lara cho đến khi hai người yêu nhau và xa nhau, với nhạc phim "Lara's Theme" réo rắt làm nền, thiết tha trong tiếng đàn balalaika. Phim đã thành bất hủ trong hơn bốn mươi năm qua, đã khiến cho tên tuổi của nhà đạo diễn phim David Lean, và hai tài tử Omar Sharif cùng Julie Christie đi vào huyền thoại.
Tướng Yevgraf Zhivago (Alec Guinness) tìm kiếm một dứa cháu gái con ngoại hôn của em trai mình là bác sĩ Yuri Zhivago (Omar Sherif) và người tình Lara Antipov (Julie Christie). Ông tìm thấy một thiếu nữ quê mùa đang làm việc trên công trường mà ông tin rằng đó là người cháu thất lạc của ông, cho gọi lên để hỏi han, và thuật lại chuyện xưa.
Yuri môi côi lúc nhỏ. Gia sản duy nhất của cậu là cây đàn balalaika do mẹ để lại. Sau khi mẹ mất, Yuri về sống với gia đình Gromekos tại Moskva: ông Alexander (Ralph Richardson), bà Anna (Siobhán McKenna) và cô con gái độc nhất của họ là Tonya (Geraldine Chaplin) và sau đó Yuri lấy làm vợ. Ông Alexander Gromeko là một giáo sư đã về hưu và cũng nhờ đó mà Yuri đả được giới thiệu vào học trường thuốc dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Boris Kurt (Geoffey Keen) mặc dù chàng có tài làm thơ.
Trong lúc đó thì Lara đang sống với mẹ (Adrienne Corri) làm nghề thợ may và "dưỡng phụ" Victor Komarovsky, một luật sư rất có thế lực chính trị. Komarovsky cũng là bạn của thân phụ quá cố cũa Yuri trong việc hùn hạp kinh doanh trước kia. Lara có cảm tình với Pasha Antipov (Tom Courteney), một nhà cách mạng lý tưởng, bị thương (đạp bể kính đeo mắt) trong một cuộc biểu tình.
Khi mẹ Lara biết Komarovsky có quan hệ mật thiết với con mình, bà uống iodine để tự vận. Komarovsky cho mời bác sĩ Kurt và Yuri đến để cứu sống, và nhân đó mà Yuri gặp gỡ Lara lần đầu.
Khi Pasha, giờ này hoạt động cho Bolshevik, cho Komarovsky biết có ý định muốn lấy Lara, thì bị ông lạnh lùng và có ý miệt thị Pasha và chế nhạo hỏi, "Anh làm có đủ sống không ?", và có ý ngăn cản cuộc hôn nhân của Lara, mặc dù hai người tỏ thái độ rất quả quyết trước mặt ông. Thật ra thì Lara đã sa ngã vào vòng tay của Komarovsky trước đó vì những sự nuông chiều, lệ thuộc, và bị cám dỗ vào vật chất từ những sự cung phụng của ông. Ông đã ôm hôn lên môi nàng lần đầu trong cỗ xe sau một buổi dạ tiệc mặc dù nàng có kháng cự lại một cách yếu ớt. Nàng đã ở lại đêm với Komarovsky nhiều bận, và mặc dù không thấy rõ trên màn ảnh, ngấm ngầm cho người xem biết rằng nàng đã thất thân với ông. Sau khi biết Lara có ý định lấy Pasha, Komarovsky điên tiết mắng nàng: "Cô có biết không, cô chỉ là một con **!". Nàng tát vào mặt Komarovsky, ông tát lại, và đè nàng ra hãm. Nàng có đẩy ra, nhưng phút chốc lại ôm lấy cổ ông. Hãm hiếp nàng xong ông nói "cô đừng có tự dối mình rằng tôi đã cượng hiếp cô vì chính cả hai cùng được nịnh nọt". Chính thái độ miệt thị của Komarovsky mà Lara cảm thấy mình bị xúc phạm nặng nề. Để thỏa mãn lòng tự ái của mình, Lara bọc trong mình một khẩu súng lục của Pasha nhờ dấu hộ, theo Komarovsky đến một buổi tiệc Giáng sinh, bắn ông này (cũng may là ông thoát chết), trước cặp mắt sững sốt của quan khách, trong đó có Yuri.
Lara đem chuyện viết thư kể hết cho Pasha. Pasha đau khổ gục khóc trên vai nàng. Nhưng rồi hai người cũng lấy nhau sanh ra một đứa con gái.
Chiến tranh cách mạng xảy ra, Pasha bị mất tích. Lara xung phong làm y tá ra chiến trường để tìm chồng gặp Yuri - lúc này là Bác Sĩ Zhivago làm việc cứu thương cho đội Thánh Giá (Holy Cross). Hai người làm việc chung với nhau sáu tháng. Tình của hai người còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ bắt đầu từ tình đồng nghiệp. Cách mạng thành công "Nga Hoàng bị nhốt, Lê-nin ỡ tại Moskva". Phim chiếu đoạn hai người đối thoại nhau trong lúc chia tay, trong lúc Lara đang ủi đồ. Họ hỏi nhau, " Anh về đâu?", "Còn cô về đâu?". Bất giác Zhivago hỏi "Có lẽ cô đã có người đùm bọc khi trở về". Chàng có ý ám chỉ Komarovsky. Lara nhìn sững làm cháy khét cái áo đang ủi.
Rồi hai người cũng chia tay. Zhivago trở về nhà tại Moskva khám phá ra nhà mình đang bị ủy ban cách mạng mới trưng dụng, phân theo lối ỡ chung cư rất chật hẹp. Nhà thiếu củi nấu ăn, Zhivago nửa đêm lẻn ra bẻ gỗ hàng rào và tình cờ gặp lại người anh cùng mẹ khác cha là Yegraf (người đang thuật chuyện) nay là một viên chức cao cấp; và qua lời khuyên của ông này, Zhivago cùng gia đình đến sống tại điền trang Gromeko, ở Varykino, vùng Unral. Và Zhivago đã tình cờ gặp Lara tại một thư viện địa phương. Hai người nhận diện ra nhau. Lara mời Zhivago về nhà. Hai người hôn nhau, và chẳng mấy chốc đã mau chóng yêu một cách mãnh liệt.
Nội dung phim
Nói về một mối tình của một bác sĩ đã vợ con, với hồn thơ lai láng, và một cô y tá xinh đẹp lãng mạn mà ông gặp gỡ như một định mệnh oái oăm với những giằng co éo le tình cảm, phim trình bày theo lối kể chuyện xen kẽ nhau hai cảnh đời của Yuri và Lara cho đến khi hai người yêu nhau và xa nhau, với nhạc phim "Lara's Theme" réo rắt làm nền, thiết tha trong tiếng đàn balalaika. Phim đã thành bất hủ trong hơn bốn mươi năm qua, đã khiến cho tên tuổi của nhà đạo diễn phim David Lean, và hai tài tử Omar Sharif cùng Julie Christie đi vào huyền thoại.
Tướng Yevgraf Zhivago (Alec Guinness) tìm kiếm một dứa cháu gái con ngoại hôn của em trai mình là bác sĩ Yuri Zhivago (Omar Sherif) và người tình Lara Antipov (Julie Christie). Ông tìm thấy một thiếu nữ quê mùa đang làm việc trên công trường mà ông tin rằng đó là người cháu thất lạc của ông, cho gọi lên để hỏi han, và thuật lại chuyện xưa.
Yuri môi côi lúc nhỏ. Gia sản duy nhất của cậu là cây đàn balalaika do mẹ để lại. Sau khi mẹ mất, Yuri về sống với gia đình Gromekos tại Moskva: ông Alexander (Ralph Richardson), bà Anna (Siobhán McKenna) và cô con gái độc nhất của họ là Tonya (Geraldine Chaplin) và sau đó Yuri lấy làm vợ. Ông Alexander Gromeko là một giáo sư đã về hưu và cũng nhờ đó mà Yuri đả được giới thiệu vào học trường thuốc dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Boris Kurt (Geoffey Keen) mặc dù chàng có tài làm thơ.
Trong lúc đó thì Lara đang sống với mẹ (Adrienne Corri) làm nghề thợ may và "dưỡng phụ" Victor Komarovsky, một luật sư rất có thế lực chính trị. Komarovsky cũng là bạn của thân phụ quá cố cũa Yuri trong việc hùn hạp kinh doanh trước kia. Lara có cảm tình với Pasha Antipov (Tom Courteney), một nhà cách mạng lý tưởng, bị thương (đạp bể kính đeo mắt) trong một cuộc biểu tình.
Khi mẹ Lara biết Komarovsky có quan hệ mật thiết với con mình, bà uống iodine để tự vận. Komarovsky cho mời bác sĩ Kurt và Yuri đến để cứu sống, và nhân đó mà Yuri gặp gỡ Lara lần đầu.
Khi Pasha, giờ này hoạt động cho Bolshevik, cho Komarovsky biết có ý định muốn lấy Lara, thì bị ông lạnh lùng và có ý miệt thị Pasha và chế nhạo hỏi, "Anh làm có đủ sống không ?", và có ý ngăn cản cuộc hôn nhân của Lara, mặc dù hai người tỏ thái độ rất quả quyết trước mặt ông. Thật ra thì Lara đã sa ngã vào vòng tay của Komarovsky trước đó vì những sự nuông chiều, lệ thuộc, và bị cám dỗ vào vật chất từ những sự cung phụng của ông. Ông đã ôm hôn lên môi nàng lần đầu trong cỗ xe sau một buổi dạ tiệc mặc dù nàng có kháng cự lại một cách yếu ớt. Nàng đã ở lại đêm với Komarovsky nhiều bận, và mặc dù không thấy rõ trên màn ảnh, ngấm ngầm cho người xem biết rằng nàng đã thất thân với ông. Sau khi biết Lara có ý định lấy Pasha, Komarovsky điên tiết mắng nàng: "Cô có biết không, cô chỉ là một con **!". Nàng tát vào mặt Komarovsky, ông tát lại, và đè nàng ra hãm. Nàng có đẩy ra, nhưng phút chốc lại ôm lấy cổ ông. Hãm hiếp nàng xong ông nói "cô đừng có tự dối mình rằng tôi đã cượng hiếp cô vì chính cả hai cùng được nịnh nọt". Chính thái độ miệt thị của Komarovsky mà Lara cảm thấy mình bị xúc phạm nặng nề. Để thỏa mãn lòng tự ái của mình, Lara bọc trong mình một khẩu súng lục của Pasha nhờ dấu hộ, theo Komarovsky đến một buổi tiệc Giáng sinh, bắn ông này (cũng may là ông thoát chết), trước cặp mắt sững sốt của quan khách, trong đó có Yuri.
Lara đem chuyện viết thư kể hết cho Pasha. Pasha đau khổ gục khóc trên vai nàng. Nhưng rồi hai người cũng lấy nhau sanh ra một đứa con gái.
Chiến tranh cách mạng xảy ra, Pasha bị mất tích. Lara xung phong làm y tá ra chiến trường để tìm chồng gặp Yuri - lúc này là Bác Sĩ Zhivago làm việc cứu thương cho đội Thánh Giá (Holy Cross). Hai người làm việc chung với nhau sáu tháng. Tình của hai người còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ bắt đầu từ tình đồng nghiệp. Cách mạng thành công "Nga Hoàng bị nhốt, Lê-nin ỡ tại Moskva". Phim chiếu đoạn hai người đối thoại nhau trong lúc chia tay, trong lúc Lara đang ủi đồ. Họ hỏi nhau, " Anh về đâu?", "Còn cô về đâu?". Bất giác Zhivago hỏi "Có lẽ cô đã có người đùm bọc khi trở về". Chàng có ý ám chỉ Komarovsky. Lara nhìn sững làm cháy khét cái áo đang ủi.
Rồi hai người cũng chia tay. Zhivago trở về nhà tại Moskva khám phá ra nhà mình đang bị ủy ban cách mạng mới trưng dụng, phân theo lối ỡ chung cư rất chật hẹp. Nhà thiếu củi nấu ăn, Zhivago nửa đêm lẻn ra bẻ gỗ hàng rào và tình cờ gặp lại người anh cùng mẹ khác cha là Yegraf (người đang thuật chuyện) nay là một viên chức cao cấp; và qua lời khuyên của ông này, Zhivago cùng gia đình đến sống tại điền trang Gromeko, ở Varykino, vùng Unral. Và Zhivago đã tình cờ gặp Lara tại một thư viện địa phương. Hai người nhận diện ra nhau. Lara mời Zhivago về nhà. Hai người hôn nhau, và chẳng mấy chốc đã mau chóng yêu một cách mãnh liệt.
Diễn viên
Omar Sharif .... Bác sĩ Yuri Zhivago
Julie Christie .... Lara Antipova
Geraldine Chaplin .... Tonya Gromeko
Rod Steiger .... Viktor Komarovsky
Alec Guinness .... Tướng Yevgraf Zhivago
Tom Courtenay .... Pasha
Siobhan McKenna .... Anna
Ralph Richardson .... Alexander Gromeko
Rita Tushingham .... Cô gái
Jeffrey Rockland .... Sasha
Tarek Sharif .... Yuri (lúc 8 tuổi)
Bernard Kay .... Bolshevik
Klaus Kinski .... Kostoyed Amourski
Gérard Tichy .... Liberius
Thắng giải Oscar
Chỉ đạo nghệ thuật, dàn dựng cảnh trí và màu sắc: John Box; Terence Marsh; Dario Simoni
Quay phim: Freddie Young
Trang phục: Phyllis Dalton
Nhạc phim: Maurice Jarre
Chuyển dịch truyện sang phim ảnh: Robert Bolt
5/ The Godfather (Bố Già - 1972)
Bố già (tiếng Anh: The Godfather) là một bộ phim hình sự sản xuất năm 1972 dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mario Puzo và do Francis Ford Coppola đạo diễn. Bộ phim có dàn diễn viên nổi tiếng gồm Marlon Brando, Al Pacino, Robert Duvall, Diane Keaton và James Caan. Phim xoay quanh diễn biến của gia đình mafia gốc Ý Corleone trong khoảng 10 năm từ 1945 đến 1955.
Bộ phim được coi là một trong những phim hay nhất của lịch sử điện ảnh, nó luôn xếp ở các vị trí dẫn đầu trong các bảng xếp hạng phim hay uy tín. Bố già được bình chọn là bộ phim xếp thứ 2 trong Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ và là bộ phim đứng đầu trong danh sách 250 phim hay nhất của trang web dữ liệu điện ảnh uy tín IMDb. Đây cũng là bộ phim đầu bảng trên các danh sách phim hay nhất của Metacritic và Rotten Tomatoes.
Bố già được nối tiếp bởi 2 phần là Bố già phần II (The Godfather Part II) sản xuất năm 1974 và Bố già phần III (The Godfather phần III) sản xuất năm 1990.
Phim bắt đầu bằng cảnh đám cưới của Connie Corleone, con gái duy nhất của ông trùm Vito Corleone với Carlo Rizzi vào cuối mùa hè năm 1945 ở Long Island, New York. Vì phong tục "không người Sicilia nào được từ chối những đề nghị vào ngày cưới của con gái họ", Vito Corleone, thường được bạn bè và người cộng tác gọi là "Bố già", cùng với người cố vấn Tom Hagen phải ngồi nghe những thỉnh cầu từ bạn bè và đối tác làm ăn. Cùng lúc đó, con út của nhà Corleone, Michael, người vừa trở về sau chiến tranh với tư cách một anh hùng, kể cho bạn gái của anh là Kay Adams những giai thoại về cuộc đời tội ác của cha mình và cam đoan với cô rằng anh không giống với gia đình mình.
Trong số khách mời đám cưới có ca sĩ nổi tiếng Johnny Fontane, con đỡ đầu của Vito Corleone, tới để đề nghị Bố già giúp đỡ anh ta có được vai diễn trong một bộ phim Hollywood của Jack Woltz, người trước đó đã từ chối thẳng thừng Fontane. Don Corleone đã nói với Johnny:
"Ta sẽ đưa ra một đề nghị mà hắn không thể chối từ - I'm gonna make him an offer he can't refuse".
Hagen được cử tới California để thương lượng nhưng Woltz vẫn giận dữ nói rằng không bao giờ giao vai cho Fontane. Sáng hôm sau khi Woltz thức dậy, lão nhận ra rằng mình đang nằm cạnh cái đầu đầy máu của con ngựa quý mà lão giới thiệu với Hagen trước đó.
Sau đó nhà Corleone gặp tay buôn bán heroin Virgil Sollozzo biệt danh "gã người Thổ" (The Turk), người có ảnh hưởng với gia đình Tattaglia thù địch. Gã đề nghị Don Corleone bảo vệ về mặt chính trị và đầu tư để gã nhập và phân phối một lượng ma túy lớn tuy nhiên Corleone đã từ chối. Sau đó Hagen bị Sollozzo và tay sai bắt cóc, còn bản thân Bố già cũng bị ám sát không thành nhưng trọng thương. Sollozzo thuyết phục Hagen đề nghị Sonny chấp nhận vụ làm ăn mà cha anh ta đã từ chối, Sonny cũng vẫn bỏ qua nó, cũng có nghĩa đã khơi ngòi cho cuộc chiến với Sollozzo và gia đình Tattaglia. Bây giờ, nhà Corleone phải chuẩn bị để chống lại cuộc chiến toàn diện với 4 gia đình lớn còn lại.
Michael, người được các gia đình mafia khác coi là "dân thường" trong cuộc xung đột này, đến thăm bố mình tại bệnh viện, anh nhận ra không có vệ sĩ nào của ông canh gác. Biết rằng Bố già sắp bị giết, Michael vội chuyển ông vào một phòng khác, gọi Sonny dến cứu trợ và đi ra canh chừng cửa chính. Sau khi lừa được vài tay chân của Sollozzo, anh gặp cảnh sát đến bệnh viện trong đó có tay đại úy bị mua chuộc McCluskey, gã này làm vỡ quai hàm của Michael chỉ với một cú đấm. Ngay sau đó Hagen xuát hiện với những "thám tử tư" được phép mang súng để bảo vệ Don Corleone.
Nhận thấy tính mạng của Vito Corleone đang bị đe dọa, Michael tình nguyện đi giết Sollozzo và McCluskey. Anh hẹn gặp được Sollozo và McCluskey trong một nhà hàng sắp đặt trước với lý do là thương lượng hòa bình. Michael lấy cớ đi vào nhà vệ sinh, ở đây anh lấy khẩu súng đã được giấu sẵn và ám sát Sollozzo, McCluskey. Để tránh bị bắt vì tội giết người, Michael được nhà Corleone gửi về đảo Sicilia, nơi anh sống dưới sự bảo vệ của mafia địa phương. Cũng ở đây, anh yêu và cưới một cô gái địa phương tên là Apollonia, người sau đó chết trong một vụ ám sát không thành nhằm vào Michael.
Cùng lúc đó ở New York, Don Corleone trở về nhà và nổi điên khi biết Michael là người đã giết Sollozzo và McCluskey. Vài tháng sau, vào năm 1948, Sonny hành hung Carlo vì gã này đã thô bạo với với vợ, Connie, em gái của Sonny. Carlo vẫn tiếp tục hành hung Connie, lần này Sonny tự lái xe một mình đi tìm để giết gã, nhưng trên đường anh bị phục kích và bị một nhóm dùng súng máy giết chết. Thay vì trả thù cho Sonny, Don Corleone gặp người đứng đầu của nhóm 5 gia đình lớn nhằm thương lượng kết thúc chiến tranh giữa các gia đình mafia. Trong cuộc họp này, Bố già nhận ra rằng chính Don Barzini, chứ không phải Tattaglia, là người phải chịu trách nhiệm cho cuộc xung đột.
Được bảo đảm an toàn, Michael trở về nhà hơn một năm sau đó, anh gặp lại Kay người yêu cũ của mình và hỏi cưới cô. Vì Don Corleone đã gần như từ bỏ vị trí ông trùm, Sonny bị giết còn người anh Fredo tỏ vẻ không có khả năng trong việc lãnh đạo băng nhóm, Michael phải đứng ra nhận trách nhiệm đứng đầu gia đình Corleone và anh tuyên bố rằng công việc làm ăn của gia đình sẽ sớm được hợp pháp hóa hoàn toàn. Hai caporegime (lãnh đạo cao cấp) của gia đình Corleone là Peter Clemenza và Salvatore Tessio phàn nàn rằng họ bị gia đình Barzini chèn ép và đề nghị đánh trả nhưng Michael từ chối và nhận ra rằng hai người này có thể sẽ phản lại nhà Corleone. Anh quyết định rời công việc làm ăn của gia đình về bang Nevada.
Trong một cuộc họp kín, Vito cho rằng kẻ thù sẽ tìm cách giết Michael thông qua một người cộng tác tin cậy, không lâu sau ông ta chết vì lên cơn đau tim khi đang chơi với đứa cháu trong vườn cà chua. Trong đám ma, Tessio truyền đạt đề nghị một cuộc gặp mặt của Barzini với Michael, chứng tỏ rằng suy đoán của Vito trước đó là chính xác. Michael sắp đặt cuộc thanh trừng Moe Greene, Philip Tattaglia, Emilio Barzini, Salvatore Tessio, Anthony Stracci và Ottilio Cuneo, tất cả sẽ được tiến hành vào lễ đặt tên thánh cho con trai thứ hai của Connie và Carlo mà Michael là cha đỡ đầu. Ngay sau lễ đặt tên, Michael tra hỏi Carlo về cái chết của Sonny và lừa cho gã phải công nhận vai trò của mình trong việc sắp đặt vụ phục kích. Michael nói với gã: "Hôm nay, ta sẽ giải quyết ổn thỏa mọi việc của gia đình" (Today, I settle all Family business), anh cho Carlo biết hình phạt của hắn là bị tống cổ khỏi công việc làm ăn và phải bay đến Nevada ngay lập tức. Carlo lên ô tô tới sân bay, và bị Clemenza xiết cổ đến chết.
Sau đó, Connie đối mặt với Michael và buộc tội em trai đã giết chồng mình. Kay chất vấn Michael về lời buộc tội của Connie, nhưng anh từ chối trả lời. Kay cố nài nỉ và cuối cùng Michael phải nói dối rằng anh không hề liên quan tới cái chết của Carlo, Kay tin vào lời nói của chồng. Ở cảnh kết phim, Kay thấy Clemenza và caporegime mới của gia đình Corleone, Rocco Lampone, đang bày tỏ sự kính trọng với Michael, hôn tay anh và gọi anh là "Don Corleone". Cánh cửa đóng lại, Kay nhận ra rằng Michael đã trở thành Bố già mới.
Phát hành
Bố già được phát hành ở Mỹ vào ngày 24 tháng 3 năm 1972, gần đúng 1 năm sau ngày khởi quay.
Đánh giá
Bộ phim được cả giới phê bình và công chúng mong đợi từ khi chưa ra mắt. Khi phát hành, Bố già đã trở thành bộ phim ăn khách nhất tính cho đến thời điểm đó (kỷ lục này bị phá bởi phim Hàm cá mập ra đời năm 1975) với doanh thu hơn 5 triệu USD trong tuần đầu và hơn 81 triệu USD cho lần phát hành đầu tiên, 134 triệu USD cho lần phát hành tiếp theo.
Bố già đã giành các giải Oscar: Phim hay nhất, Vai nam chính (Marlon Brando từ chối nhận giải) và Kịch bản chuyển thể (Francis Coppola và Mario Puzo). Ngoài ra bộ phim còn giành được 5 giải Quả cầu vàng, một giải Grammy và nhiều giải khác. Nhạc phim do Nino Rota viết ban đầu cũng được đề cử giải Oscar nhưng phải rút lại vì Rota đã sử dụng lại một phần nhạc của ông được viết cho bộ phim Fortunella. Bài hát chủ đề của phim, Speak Softly Love, đã trở nên nổi tiếng và cũng được công chúng hâm mộ.
Sau này bộ phim được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của lịch sử điện ảnh, nó luôn xếp ở các vị trí dẫn đầu trong các bảng xếp hạng phim hay uy tín, thứ hai trong Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ, đứng đầu trong danh sách 250 phim hay nhất của trang IMDb, đầu bảng trên các danh sách phim hay nhất của Metacritic và Rotten Tomatoes. Đạo diễn nổi tiếng Stanley Kubrick tin rằng Bố già có lẽ là tác phẩm lớn nhất đã từng được làm, và dàn diễn viên của phim không còn nghi ngờ gì là tuyệt vời nhất (có tới 4 diễn viên của phim sau này đã đoạt giải Oscar cho Diễn viên chính xuất sắc là Marlon Brando, Al Pacino, Robert Duvall và Diane Keaton).
Câu thoại của Bố già Vito Corleone: "I'm going to make him an offer he can't refuse" đã được bình chọn là câu thoại đáng nhớ thứ hai trong lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ trong danh sách của AFI.
6/ 12 Angry Men (1957)
Nội dung:
Một vụ án gây chấn động dư luận. Một thanh niên bị tình nghi giết cha ruột của mình. 12 người của hội thẩm đoàn bắt đầu phiên làm việc của mình để đưa ra kết luận: liệu bị cáo có bị buộc tội không. Tất cả hội thẩm viên đều muốn kết thúc nhanh chóng vụ án vì các chứng cớ đã quá rõ ràng. Trừ một người duy nhất. Ông không muốn sinh mạng của một con người lại có thể được quyết định chỉ trong vòng chưa đầy 10 phút. Ông có một sự nghi ngờ riêng đối với vụ án kì lạ này. Và ông quyết định: tìm cách thuyết phục mọi người...
Đánh giá của các nhà phê bình:
12 Angry Men lúc ban đầu bị đánh giá thấp và không thu được lợi nhuận như mong đợi, thậm chí còn bị lỗ nặng do gặp phải một bộ phim lớn khác: The Bridge on the River Kwai. Nhưng sau này, khi đã được xem xét và đánh giá một cách kĩ lưỡng, 12 Angry Men được tôn vinh như một chuẩn mực của nghệ thuật điện ảnh. AFI xếp 12 Anry Men ở vị trí thứ 87 trong bảng xếp hạng 100 phim hay nhất mọi thời đại, thứ 42 trong bảng xếp hạng 100 phim truyền cảm hứng cho con người nhiều nhất. Trang web IMDB xếp 12 Angry Men vào vị trí thứ 10 trong danh sách 250 phim hay nhất mọi thời đại. Ngoài ra, nhân vật Hội thẩm viên số 8 (do Henry Fonda thủ vai) được bình chọn là một trong những nhân vật chính diện tuyệt với nhất của nền điện ảnh thế giới
Review phim:
Có lẽ không có một bộ phim nào chịu số phận kém may mắn như kiệt tác đầu tay "12 Angry Men" của đạo diễn Sidney Lumet. Tác phẩm dựa trên vở kịch cùng tên của nhà văn Reginald Rose đã gặp phải một đối thủ quá lớn: bộ phim The Bridge On The River Kwai công chiếu cùng năm. Và mặc dù được đề cử 3 giải Oscar, 12 Angry Men vẫn trắng tay, xa lạ với các giải thưởng và cũng dần mờ nhạt trong tâm trí người yêu điện ảnh. Mãi cho đến năm ngoái, khi AFI đưa bộ phim vào danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại, người ta mới lại biết đến một kiệt tác bị bỏ quên. Đây có lẽ là một nỗi buồn lớn cho những người làm phim.
Tuy nhiên, chúng ta đang nói đến bộ phim. Những tình huống trong phim đều mang nặng kịch tính. Đạo diễn Sideney Lumet đã cho hầu như toàn bộ các tình huống phim xảy ra trong một căn phòng chật hẹp, và cùng với kĩ thuật quay đặc biệt, nó đã làm cho bộ phim tăng thêm tính căng thẳng đến tột cùng. Trong căn phòng nóng bức ngột ngạt này, 12 hội thẩm viên - 12 con người phải nhất trí một lời tuyên án: có tội hay không có tội. 12 con người đang chịu trách nhiệm về sinh mệnh của một con người khác. Liệu họ có thể làm qua loa, vô trách nhiệm được không?
Ban đầu, 11 người đã nhanh chóng đồng ý rằng bị cáo có tội, chỉ có duy nhất vị Hội thẩm viên số 8 (Henry Fonda) là không đồng ý, vì ông cho rằng số phận một con người không thể được quyết định chỉ trong vòng chưa tới 5 phút đồng hồ. Ông đã đưa ra những lý lẽ của riêng mình, qua đó giúp - hay nói đúng hơn, chỉ ra những điểm sai lầm - của từng vị hội thẩm còn lại, cho tới khi tất cả mọi người đều công nhận rằng: tính mạng của con người phải được đặt lên trên hết. Bị cáo có thể có tội, nhưng hoàn toàn không có chứng cớ xác đáng để buộc tội. Do đó, lời tuyên án sẽ là vô tội.
Song song với diễn xuất tuyệt vời của Henry Fonda là phần diễn xuất không kém hơn chút nào của các diễn viên khác. Vì tính chất khá là đặc biệt của kịch bản, mỗi nhân vật trong phim đều có một cách thể mình rất riêng, không phụ thuộc vào nhân vật khác, nhưng vẫn trong tổng thể chung. Qua diễn xuất của cả 12 người, ta có thể thấy được rằng, họ đã làm rất tốt phần việc của mình. Nếu như không như vậy, có lẽ, bộ phim đã trở thành những mảnh rời rạc không thể kết nối, và chúng ta đã không có một kiệt tác lớn như ngày nay
07-06-2011, 12:35 AM
alex_ferguson
7/ A farewell to arms (Giã từ vũ khí - 1932)
Đạo diễn: Frank Borzage
Năm sản xuất: 1932
Thời lượng: 80 phút
Diễn viên chính: Gary Cooper, Helen Hayes...
Bộ phim dựng theo tiểu thuyết cùng tên của đại văn hào Ernest Hemingway. Tác phẩm từng đoạt giải Nobel Văn Học năm 1929.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Frederic Henry đang du học tại nước Ý. Chàng tình nguyện làm tài xế lái xe cứu thương của quân đội, được phong cấp bậc Thiếu úy rồi được gửi tới miền núi phía bắc, nơi mà quân Ý đang giao tranh với quân Áo.
Vào mùa Thu năm 1916, tuyết rơi sớm nên quân đội Ý hoãn các cuộc tấn công qua năm sau. Henry vì thế được nghỉ phép. Vị tuyên úy thúc dục chàng về miền quê thăm gia đình nhưng Henry đã đi tới hai thành phố Rome và Naples, tại hai nơi này chàng chỉ uống rượu và theo đuổi phụ nữ. Sau kỳ nghỉ phép, Henry trở lại đơn vị, lòng đầy bất mãn và cảm thấy tội lỗi vì đã phí phạm thời giờ và tiền bạc.
Tại đơn vị, một người bạn cùng phòng của Henry tên là Rinaldi cho chàng biết rằng các nữ y tá người Anh mới tới phục vụ tại bệnh viện và Rinaldi đã để ý tới một cô, tên là Catherine Barkley. Rinaldi kéo Henry tới thăm các cô y tá rồi ngay sau đó, Henry và Catherine đã chú ý tới nhau. Khi không bận việc lái xe cứu thương, Henry thường tới thăm Catherine. Chàng coi sự giao du này là cách tán tỉnh trong thời chiến, một mối liên lạc tốt đẹp hơn là tìm cách yêu đương một trong các nàng kiều nữ tại Villa Rossa, một ổ điếm dành cho các sĩ quan. Tuy nhiên, Henry thú nhận rằng chàng cảm thấy "cô đơn và trống rỗng" sau mỗi lần say sưa, và chàng nhớ nhung nàng Catherine.
Về phía Catherine, thái độ của nàng phức tạp hơn. Nàng có vẻ cần tình yêu và đã từng bị tổn thương vì người yêu mà nàng đã đính hôn, một cậu trai người Anh, đã bị chết vì mìn nổ tại nước Pháp. Nàng giúp đỡ Henry và trước khi chàng ra trận, nàng đã tặng cho chàng chiếc mề đay Saint Anthony để hộ mệnh cho chàng.
Tại mặt trận, quân đội Ý bắt đầu tấn công. Khi bị quân Áo oanh tạc, Henry cùng bốn người tài xế khác trú ẩn trong một hầm hố nhưng một quả đạn đại bác đã nổ rất gần, khiến cho Henry bị thương nặng ở chân. Một người tài xế khác bị chết do không cầm được máu. Henry được đưa về trạm y tế rồi được chuyển sang bệnh viện. Tại nơi này, vị linh mục và Rinaldi đã tới thăm Henry. Chàng lại nhận được một tin mừng là sẽ được chuyển sang điều trị tại một bệnh viện Hoa Kỳ ở Milan, nơi mà nàng Catherine đã được thuyên chuyển tới làm việc.
Tại Milan, Henry phục hồi dần và Catherine thường viếng thăm chàng. Mỗi lần nàng bước vào phòng, chàng thấy rung cảm, thấy yêu nàng. Và nàng Catherine cũng tình nguyện làm ca đêm để hai người có thể ở bên nhau nhiều thời giờ hơn.
Sau đó, cuộc giải phẫu chân của Henry đã thành công. Chàng có thể đi đứng bình thường và cùng với nàng Catherine, họ tới quán ăn, cùng ngồi xe ngắm cảnh và cưỡi ngựa. Henry muốn kết hôn với Catherine nhưng nàng còn lưỡng lự. Thế rồi vào một đêm, Catherine cho chàng biết nàng đã mang thai.
Ngày hôm sau, Henry tỉnh dậy và được chẩn bệnh là mắc bệnh vàng da. Người trưởng y tá đã báo cáo với cấp trên là Henry tìm cách trốn tránh ra trận tuyến bằng cách uống rượu say sưa. Giấy nghỉ phép của Henry vì thế bị từ chối và chàng được lệnh ra mặt trận ngay sau khi bình phục.
Frederic Henry trở lại mặt trận. Tới lúc này, quân đội Ý đang gặp thất bại. Quân Đức đã tăng cường giúp quân Aùo khiến cho quân Ý phải bỏ chạy tán loạn. Henry đã lái xe cứu thương rút lui trước khi quân Đức tiến tới. Để tránh lối bế tắc trước mặt, Henry dùng con đường bên. Xe cứu thương bị xa lầy. Các tài xế đã bỏ xe, chạy lấy người. Trong cuộc bỏ chạy này, họ suýt gặp các toán quân tuần tiễu Đức. Có người trong nhóm bị chết vì bị bắn sẻ, cũng có người phải đầu hàng quân địch.
Henry và nhiều người khác đi theo dòng người rút lui, tới được cây cầu bắc qua giòng sông Tagliamento. Tại phía bên kia của cây cầu, các quân cảnh người Ý đang lùng bắt các sĩ quan cao cấp, xét xử họ một cách sơ sài rồi đem ra xử bắn vì tội đào ngũ. Do nói tiếng Ý với giọng ngoại quốc, Henry bị bắt vì bị tình nghi là một kẻ gián điệp Đức. Chàng đã tìm cách lẩn trốn, nhẩy xuống dòng sông, bơi ra xa ngoài tầm đạn bắn tới. Chàng trú ẩn trong cánh đồng miền Venetian rồi theo xe tải, đi tới Milan. Trở lại bệnh viện, chàng được tin nàng Catherine đang nghỉ phép tại Stresa, một tỉnh nằm trên bờ hồ gần biên giới Thụy Sĩ.
Henry bèn dùng quần áo dân sự, đi tới Stresa để gặp Catherine. Tại khách sạn, người pha rượu cho Henry biết chàng đang bị truy nã và rồi hai người đã tìm cách trốn qua nước Thụy Sĩ trung lập. Tối hôm đó, Henry chèo thuyền suốt đêm. Chàng lẩn tránh được các toán tuần phòng người Ý và cuối cùng đã tới được đất Thụy Sĩ. Tại nơi này, hai người đã bị cảnh sát bắt giữ nhưng nhờ có đủ thông hành hợp lệ, họ được trả tự do. Henry và Catherine mướn phòng khách sạn và trải qua nhiều thời giờ yên vui, chờ đợi đứa con chào đời. Họ bàn chuyện sẽ làm gì khi chiến tranh chấm dứt. Sau đó, họ dời về Lausanne, gần một bệnh viện.
Trong lần sinh con, Catherine đã gặp khó khăn. Bác sĩ chăm sóc nàng đã phải dùng thuốc mê và đứa con đã chết sau lần giải phẫu. Henry tới thăm viếng Catherine trong bệnh viện. Nàng bị xuất huyết và ít có hy vọng sống sót. Henry đã nhìn thấy nàng chết dần dần. Chàng đã cố gắng ngỏ lời từ biệt với người chết và thấy rằng cách bày tỏ tâm sự này giống như nói với một pho tượng. Chàng từ biệt và trở về khách sạn trong cơn mưa...
8/ It's A Wonderful Life (Cuộc Đời Tuyệt Đẹp - 1946)
Đạo diễn: Frank Capra Nhà SX: Frank Capra Kịch bản: Frances Goodrich, Albert Hackett, Jo Swerling, Frank Capra
(Dựa trên truyện ngắn "The Greatest Gift" của nhà sử học Philip Van Doren Stern) Thể loại: Dramma/Comedy/Fantasy Diễn viên: James Stewart, Donna Reed, Lionel Barrymore,Jimmy Hawkins Ngày công chiếu: 20/12/1946 Thời lượng: 130 phút Nội dung: George Bailey, một thương gia ở thị trấn giả tưởng Bedfort Falls là một con người mẫu mực. George luôn hy sinh bản thân mình để cứu giúp những người xung quanh. Trong mùa Giáng sinh năm nọ, George bỗng gặp phải một khó khăn bất ngờ tưởng chừng như không thể vượt qua. Ông nghĩ tới cái chết và đã định trả món quà cao quý nhất mà Thượng đế ban tặng - cuộc sống - lại cho Người. Nhưng những vị Thánh thần ở trên cao không để cho một người tốt gặp phải kết cục buồn như vậy. Nghe thấy những lời cầu nguyện từ những người thân, những người đã từng mang ơn George, các vị Thánh đã gửi xuống một thiên thần để cứu giúp George - bằng cách cho ông thấy cuộc đời sẽ ra sao nếu như ông chưa bao giờ tồn tại
Đánh giá của các nhà phê bình
Trong suốt hơn 60 năm qua, It's A Wonderful Life luôn được đánh giá là một bộ phim gần như hoàn hảo. AFI xếp bộ phim vào hạng 20 trong 100 bộ phim vĩ đại nhất mọi thời đại, hạng nhất trong 100 bộ phim truyền cảm hứng nhiều nhất cho con người. Geogre Bailey cũng được xếp hạng 9 trong số 50 nhân vật chính diện xuất sắc nhất của Điện ảnh Mĩ. Bộ phim cũng đứng đầu danh sách những bộ phim nên xem trong m ùa Giáng sinh trong vô số các cuộc bình chọn
9/ Love Story (Chuyện Tình - 1970)
Đạo diễn: Arthur Hiller Diễn viên: Ali MacGraw, Ryan O'Neal Nhà sản xuất: Paramount Pictures Thể loại: Tâm lý Độ dài: 99 phút Quốc gia: Mỹ Năm sản xuất: 1970
Giới thiệu: Là một trong những câu chuyện tình nổi tiếng trên màn ảnh rộng, bộ phim Love Story kể về tình yêu giữa cô gái Jenny nghèo khó đến từ đảo Rhode và anh chàng sinh viên luật giàu có Oliver ở vùng Boston.
Họ yêu nhau nhưng bị cha của Oliver ngăn cản, ông cho rằng giai cấp của Jenny không xứng đáng với con trai mình. Bất chấp tất cả, Jenny và Oliver vẫn kết hôn với nhau bằng chính tình yêu chân thật của hai người.
Ngỡ rằng hạnh phúc sẽ kéo dài mãi mãi thì Jenny bị phát hiện mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo và giờ đây Oliver phải đối diện với sự thật đau lòng rằng trong tương lai không xa, anh sẽ phải sống mà thiếu vắng đi hình bóng của người phụ nữ anh yêu thương nhất trên đời.
Bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết của Erich Segal này trải qua bao nhiêu năm đã là một minh chứng tuyệt vời cho câu nói nổi tiếng: "Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói nên lời hối tiếc".
07-06-2011, 12:49 AM
alex_ferguson
10/ Annie Hall (1977)
Annie Hall - Sự phức tạp của tình yêu
Thể loại: Hài/Tâm lí Đạo diễn: Woody Allen Sản xuất: 1977 Giải thưởng: 4 Giải Oscar, gồm cả giải Best Picture, Best Actress và Best Director
Hiếm khi nào mình xem được một bộ phim hài hấp dẫn và đầy tính trí tuệ như Annie Hall, bộ phim được coi là hay nhất của đạo diễn/diễn viên Woody Allen.
Annie Hall là một câu chuyện tình của diễn viên hài New York Alvy Singer (Woody Allen) và một người phụ nữ nhí nhảnh tên Annie Hall (Diane Keaton). Cốt truyện không có gì đặc biệt. Mở đầu phim là cảnh Alvy kể lể sơ qua về bản thân và sau đó kể về mối tình đã qua với Annie. Đặc sắc nhất ở bộ phim có lẽ là phần đối thoại vô cùng thông minh và dí dỏm.
Alvy là một người đàn ông trung niên, hình thức không mấy gì hấp dẫn (gày gò, nhỏ con), tính tình thì tinh vi, miệng luôn liến thoắng những câu nói mỉa mai, châm biếm, chê bai cuộc đời và con người. Alvy có cách nhìn cuộc sống vô cùng cực đoan. Lúc nào cũng suy tư, lo lắng, trăn trở về cái chết và sự khổ sở của kiếp người. Để lý giải cho cách nhìn đời tiêu cực, ông lấy cớ là do hồi nhỏ sống ngay dưới chân cái roller-coaster nên thần kinh ông luôn bị kích động. Là một diễn viên hài, ông sở dĩ khiến khán giả cười được cũng nhờ những quan niệm mang tính lập dị, khác đời của ông. Người như Alvy luôn nhăn nhó, trầm tư và khó có thể hòa nhập với cộng đồng.
Ngược lại với Alvy, Annie tuy cũng không còn trẻ trung nhưng rất hồn nhiên, vô tư, và nhiều lúc rất trẻ con. Nhiều hành động của Annie dường như hơi lố bịch, vô duyên nhưng thật đáng yêu. Alvy cũng đã phải thốt lên: “Anh không ngờ có ngày anh yêu một phụ nữ thích sử dụng những từ như la-de-da” (La-de-da ở đây là một từ đệm Annie sáng tạo ra, và dùng trong những lúc bối rối, lúng túng và không biết nói gì khác). Có lần Annie kể một câu chuyện về một ông George nào đó đứng xếp hàng để nhận gà tây nhân dịp Giáng Sinh rồi chết bất ngờ ngay tại đó. Người xem có lẽ sẽ không cười câu chuyện mà sẽ cười cách cô kể chuyện. Rồi tình tiết Annie, sau lần chia tay lần thứ nhất, dựng Alvy dậy vào lúc 3h sáng, gọi anh đến nhà cô chỉ để nhờ Alvy giết ... một con nhện trong buồng tắm. Những lí do thật là vì Annie nhớ Alvy không chịu nổi. Tình tiết này mình thấy cảm động và dễ thương thế không biết.
Cả bộ phim là một chuỗi những cuộc tranh luận không mệt mỏi giữa Annie và Alvy. Hai người đều thích lý sự và rất hay mâu thuẫn nhau. Nhiều lúc mâu thuẫn đến mức không chịu nổi nhau và phải bỏ đi. Bỏ nhau rồi quay lại. Rồi lại bỏ nhau. Giữa họ tồn tại nhiều tình cảm nhưng họ không sống được bên nhau vì không giải quyết được những xung khắc.
Nét hay của phim, theo mình, không phải ở những tình tiết lãng mạn, sướt mướt, mùi mẫn, hay kịch tính thường thấy ở các phim tình cảm mà ở khía cạnh rất đời thường của một mối tình. Phim không hề mô tả tình yêu qua những cuộc hẹn hò lãng mạn, những cảnh ân ái nỏng bỏng mà ngắm nhìn tình yêu qua một lăng kính “thực tế”. Trong Annie Hal, yêu nhau là sống cùng nhau, tìm cách hòa hợp với nhau để chia sẻ mọi điều trong cuộc sống. Tình yêu nhiều lúc không đủ mạnh để giữ hai con người trái ngược nhau về mặt tính cách sống bên nhau.
Phim tập trung vào những chi tiết rất bình thường và cả những vấn đề rất thực tế của cuộc sống mà hai người gặp phải khi ở chung. Hai người chành chọe nhau từ những cái nhỏ nhất: từ việc giải quyết những con lobster bò lồm cồm trên sàn nhà đến những bất đồng và trục trặc trong vấn đề tình dục. Những tình huống đời thường mà bất kì cặp tình nhân nào cũng phải trải qua đều được đề cập tới.
Annie Hall còn cách thể hiện đặc biệt mà mình chưa từng thấy ở phim khác. Nếu xem phim, bạn sẽ thấy thỉnh thoảng nhân vật Alvy như tách khỏi cảnh phim, đứng gần màn ảnh hơn hoặc là xuất hiện trong một tình tiết trong quá khứ để giải thích, thanh minh với khán giả hoặc đả kích về một điều gì đó. Ngay từ đầu phim, Alvy (của hiện tại) đã nhảy vào tranh luận với cô giáo tiểu học của mình về vấn đề con trai - con gái khi ông kể cho khán giả thời gian ở trường tiểu học. Buồn cười nhất là lúc hai người bỏ nhau lần đầu ở ngay trên vỉa hè một con phố. Sau khi Annie đi khỏi rồi, Alvy tóm cổ bất kì một người qua đường (tất nhiên là không quen biết) để hỏi han tại sao Annie lại bỏ đi, tại sao quan hệ của anh gặp vấn đề. Cách này cũng khá độc đáo, có tác dụng gây cười nhưng Woody Allen có vẻ sử dụng hơi nhiều trong suốt bộ phim.
Đoạn cuối phim là những đúc kết của nhân vật Alvy về tình yêu sau khi thấm thía những bài học, những vấp váp anh được trải nghiệm qua thực tế: Tình yêu thật phức tạp và nhiều lúc điên rồ nhưng dường như ta thể sống thiếu nó. Con người ta sẽ không bao giờ ngừng tìm kiếm nếu họ còn thiếu cái gọi là tình yêu.
11/ Citizen Kane (1941)
Nội dung:
Lấy nguyên mẫu từ một nhân vật tiếng tăm trong lĩnh vực truyền thông của Mỹ thời bấy giờ, Citizen Kane tái hiện cuộc đời một ông trùm với những diễn biến từ thời thơ ấu đến những thành công trong sự nghiệp và bi kịch sau này.
Phim kể về cuộc đời ông trùm trong lĩnh vực truyền thông Charles Foster Kane (Orson Welles) với cảnh mở màn là hình ảnh Charles đang hấp hối tại ngôi biệt thự Xanadu với lời nói cuối cùng là từ “Rosebud” (nụ hồng). Một phóng viên trẻ (William Alland) tò mò đi tìm hiểu ý nghĩa của từ này bởi cuộc đời và cái chết của Kane là một sự kiện lớn.
Citizen Kane tái hiện cuộc đời của nhà tỷ phú, từ thời thơ ấu đến những thành công trong sự nghiệp sau này, rồi tham vọng quyền lực dẫn đến sự sụp đổ cuối đời. Được sự giúp đỡ của Jedediah Leland (Joseph Cotton), Kane đã xây dựng được một trung tâm báo chí tầm cỡ quốc gia từ một tờ báo có số lượng in dưới 30.000 bản. Để làm được việc này, Kane đã phải chấp nhận mất 1 triệu USD một năm để chiến thắng trong cuộc đua về số lượng bản in. Tờ New York Inquirer của ông đặc trưng ở những dòng tít lớn. Cũng trong thời gian đó, ông kết hôn với Emily Norton (Ruth Warrick), cháu gái của Tổng thống. Kane trở thành một trong những người đàn ông quyền lực nhất nước Mỹ trong lĩnh vực truyền thông.
Cuối cùng thì Kane chuyển sang vũ đài chính trị với cuộc chạy đua ghế thống đốc bang New York, nhưng bị sự cản trở của Jim Gettys (Ray Collins). Thất bại trong chính trường, Kane chán nản ly dị vợ và kết hôn với Susan Alexander (Dorothy Comingore) rồi chuyển đến sống ẩn dật tại Xanadu. Sau nhiều năm ông càng trở nên bi kịch và lảng tránh mọi người. Mệt mỏi với miền đất Xanadu hẻo lánh và người chồng tuyệt vọng, Susan ra đi. Cô đơn và thiếu thốn tình cảm, Kane chờ đợi cái chết đang dần đến với mình…
Citizen Kane là bộ phim do Orson Welles viết kịch bản, làm đạo diễn, diễn viên chính và sản xuất khi mới 25 tuổi. Phim được các nhà phê bình điện ảnh đánh giá là phim xuất sắc nhất mọi thời đại bởi thành tựu đột phá trong kỹ thuật quay, âm thanh có tính chuẩn mực cao và cách xây dựng cốt truyện. Citizen Kane nhận 9 đề cử Oscar năm 1942 nhưng chỉ đoạt giải Kịch bản gốc xuất sắc.
Phim được đánh giá là cột mốc lịch sử trong quá trình phát triển kỹ thuật làm phim. Đạo diễn Welles sáng tạo kỹ thuật quay phim và cách thể hiện khác hẳn những phim cùng thời với việc tái hiện câu chuyện bằng cách hồi tưởng. Kỹ thuật phim, cảnh quay sâu, góc nhìn rộng, ánh sáng, sự kết hợp bối cảnh sáng tạo là những thành công mà các nhà làm phim hiện đại vẫn phải học tập. Theo đó, cuộc đời Kane được tái hiện trong suốt chiều dài bộ phim. Nhân vật Kane được lấy từ nguyên mẫu cuộc đời William Randolph Hearst, ông trùm trong lĩnh vực truyền thông và là nhà xuất hản hầu hết của các tờ báo trên toàn nước Mỹ. Chính đạo diễn Orson Welles cũng tìm được những mối đồng cảm với nguyên mẫu này, vì thế nhân vật được ông xây dựng với tất cả say mê. Mặc dù được đánh giá cao, Citizen Kane đã gây một vụ scandal, hậu quả là ngành sản xuất phim thời bấy giờ cũng đi vào khủng hoảng.
12/ Lawrence Of Arabia (Lawrence ở xứ Arập - 1962)
Đạo diễn: David Lean Nhà SX: Sam Spiegel Kịch bản: Robert Bolt, Michael Wilson Diễn viên: Peter O'Toole, Omar Sharif, Alec Guinness, Anthony Quinn, Jack Hawkins, José Ferrer, Anthony Quayle, Claude Rains Quay phim: Freddie Young Biên tập: Anne V. Coates
25 năm sau, diễn viên Omar Sharif, một trong những ngôi sao của bộ phim sử thi Lawrence of Arabia nói về bộ phim như sau: “Nếu bạn có tiền và một người nào đó đến bên bạn nói, ông ta muốn làm một bộ phim dài 4 tiếng đồng hồ mà không cần ngôi sao tên tuổi nào, không cần phụ nữ, không quan tâm đến những pha đánh đấm, không có câu chuyện tình nào và sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để quay nó trong sa mạc, thì bạn sẽ nghĩ thế nào?”
Một thử nghiệm mới của đạo diễn David Lean
Động lực của bộ phim hoàn toàn dựa vào sự tưởng tượng. Không cần sướt mướt hay bạo lực, đạo diễn vẫn biết cách khơi gợi tình cảm và sự chú ý của khán giả và ông tin rằng đứa con của mình sẽ thành công. Ấn tượng nhất của phim là cảnh người hùng T.E. Lawrence làm cuộc hành trình tự sát qua sa mạc, không có nơi trú thân, không nước uống, mà còn phải quay trở lại để cứu một người bạn bị bỏ lại phía sau. Phim bấm máy giữa cái nóng sa mạc với hình ảnh những con người nhỏ xíu từ rất xa. Lawrence of Arabia không chỉ đơn giản là một phim tiểu sử hay mạo hiểm, mà là một bộ phim dùng sa mạc để nói lên sức mạnh tiềm tàng của con người. Dù tronglịch sử, T. E. Lawrence là tác nhân chính trong cuộc vận động những bộ lạc sa mạc đứng về phía quân Anh chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, trong thời gian từ 1914 - 1917, nhưng trong phim ông lại không hành động như một người yêu nước mà là kẻ bác bỏ những chuẩn mực cổ hủ của xã hội Anh, bị cuốn hút vào cái đẹp và bí ẩn của thế giới Ả rập hoang sơ. T.E. Lawrence là một người hùng kỳ lạ nhất, với tính cách thay đổi và là nhân vật trung tâm của bộ phim. Đạo diễn David Lean đã chọn một trong những diễn viên thú vị nhất trong lịch sử điện ảnh Anh quốc: Peter O’ Toole, ngay từ lúc ông chưa được ai biết đến. Khuôn mặt như bức tượng điêu khắc của Peter rất thích hợp vai này. Dù nhiều người tin rằng Lawrence là kẻ đồng tính, nhưng ông lại rất nam tính trong phim. Kịch bản do Robert Bolt và Michael Wilson biên soạn đã cho Peter đất diễn rất rộng để thi thố tài năng. Thông qua O’ Toole, Lawrence đã tái hiện như một người anh hùng quân sự với cả lòng trắc ẩn lẫn sự điên rồ trong cuộc vận động người bản xứ cùng chịu cam khổ trong cuộc hành trình băng qua sa mạc châu Phi. Có lúc O’ Toole, mặc chiếc áo dài trắng, nhảy múa ăn mừng trên nóc toa xe lửa chiếm được của quân Thổ, trong tư thế của một người đang tạo dáng chụp ảnh thời trang. Một trong những nhân vật quan trọng khác của phim là nhà báo Mỹ (Arthur Kennedy đóng), mô phỏng nhà báo Lowell Thomas, kẻ đã bán rẻ những bí mật của T.E. Lawrence cho báo chí tiếng Anh. Arthur thừa nhận là ông ta tìm kiếm một nhân vật anh hùng để tôn vinh trong bài viết. Và nhân vật này chính là Lawrence. Lawrence hạnh phúc kể cho nhà báo những từng trải của mình tại một xứ sở xa lạ...
Trên lộ trình thực hiện sứ mệnh của mình, Lawrence thống nhất nhiều bộ lạc khác nhau trong sa mạc, ông làm bạn với những phó vương sa mạc như Sherif Ali (Omar Sharif), ông Hoàng Feisal (Alec Guinness) và Auda Abu Tayi (Anthony Quinn) bằng cách vừa tranh thủ sự kính trọng của họ, vừa cho họ thấy chính nghĩa đứng về phía người Anh. Lawrence còn trải qua cuộc giằng xé lương tâm khi chứng kiến bạo lực trong chiến tranh, sự tàn bạo của quân Thổ và số phận của những bộ lạc sống trên sa mạc yếu ớt. Trong phim, có lúc ông tự hỏi mình là ai và tự xem mình như người dân thường thay vì một chiến binh.
Thi vị hóa một nhân vật lịch sử
Lawrence of Arabia dựa vào cuộc sống của nhân vật lịch sử có thật T. E. Lawrence tại Arabia thời thế chiến I, đặc biệt là trận tấn công của ông vào Aqaba, Damascus và sự tham gia của ông vào Hội đồng Quốc gia Arab (ANC). Phim bắt đầu bằng cảnh Lawrence như một thường dân lái xe mô tô xuống một con đường nông thôn hẹp ở Anh và bị chết khi ông cố tránh va chạm với hai người đi xe đạp. Tang lễ của ông diễn ra tại nhà thờ St. Paul’s Cathedral. Các phóng viên cố tìm hiểu về người đàn ông bí ẩn này từ những người biết về ông, nhưng họ chỉ thu được rất ít thông tin. Sau đó, phim đưa khán giả trở lại Cairo trong Thế chiến I, nơi Lawrence công tác như một trung úy quân đội viễn chinh Anh và nổi tiếng nhờ sự ngạo mạn và kiến thức về bộ lạc Bedouin. Dù bị tướng Murray (Donald Wolfit) nghi ngờ về năng lực, anh vẫn được Mr. Dryden (Claude Rains) của văn phòng Arab gửi đến giúp ông Hoàng Feisal (Alec Guinness) trong cuộc nổi dậy chống lại quân Thổ, đồng minh của quân Đức. Trong cuộc hành trình của mình, người Bedouin hướng dẫn anh bị tộc trưởng Sherif Ali (Omar Sharif) giết, vì uống nước từ giếng của ông ta mà không xin phép. Ngay bên ngoài lều trại của Feisal, Lawrence gặp sĩ quan giám sát của mình, Đại tá Brighton (Anthony Quayle), và đại tá ra lệnh cho ông giữ im lặng trước khi giới thiệu ông với ông Hoàng rồi bỏ đi. Nhưng Lawrence đã bỏ qua những mệnh lệnh này khi trò chuyện với Feisal. Tính cách thẳng thắn của anh gây ấn tượng cho ông Hoàng. Brighton khuyên lãnh tụ Arab rút lui sau một thất bại lớn, nhưng Lawrence tiến cử giải pháp thay thế: tấn công thành phố chiến lược Aqaba. Nếu chiếm được thành phố này, nó sẽ cho quân Anh một cảng để bốc dỡ những tiếp liệu cho quân nổi dậy, đồng thời bảo vệ họ chống lại một cuộc tập kích từ phía biển. Lawrence thuyết phục Feisal cho anh 15 người, trong đó có Sherif Ali và hai thanh niên mồ côi Daud (John Dimech) và Farraj (Michel Ray) vốn là người hầu cận của anh. Toán quân băng qua sa mạc Nefud khắc nghiệt mà chính người Bedouin còn phải ngán ngại. Họ đi suốt ngày đêm để sớm đến nơi có nước uống. Gasim (I. S. Johar), một thành viên trong đoàn bị ngủ gật và ngã khỏi lạc đà khi đêm xuống mà không ai hay biết. Những người còn lại đến được ốc đảo, nhưng Lawrence quyết định quay trở lại tìm đồng đội, dù biết làm vậy là nguy hiểm tính mạng. Khi anh cứu được Gasim, Ali thực sự cảm kích và chấp nhận anh là bạn. Sau đó Lawrence gặp Auda abu Tayi (Anthony Quinn), lãnh đạo bộ lạc Howeitat đầy quyền lực cai quản khu vực này và thuyết phục Tayi chống lại quân Thổ.
Chuyển biến trong tư tưởng người anh hùng
Kế hoạch của Lawrence tưởng như bị phá sản, khi một người của Ali giết thủ hạ của Auda vì nợ máu. Anh tuyên bố sẽ tự mình xử kẻ sát nhân, nhưng sững sờ khi biết đó chính là Gasim, người anh đã cứu. Dù vậy, Lawrence vẫn bắn Gasim như động thái nhằm xóa bỏ hận thù giữa hai bộ tộc. Liên minh được tái lập, đoàn quân tiến đến Aqaba và chiếm được thành phố một cách không mấy khó khăn. Lawrence trở về Cairo để báo tin chiến thắng cho tướng Dryden và chỉ huy mới của anh, tướng Allenby (Jack Hawkins). Nhưng dọc đường, Daud chết khi ngả vào xoáy cát. Lawrence được thăng hàm thiếu tá, được cho vũ khí và tiền để chi viện cho người Arab. Anh hỏi Allenby có phải người Arab nghi ngờ người Anh sẽ chiếm Arabia sau khi quân Thổ rút đi là đúng? Vị tướng nói ông không phải là nhà chính trị, nên không thể trả lời câu hỏi này. Nhưng sau đó ông lại khẳng định quân Anh không hề có ý đồ này. Được giải tỏa mối nghi ngờ, Lawrence mở cuộc chiến tranh du kích, đánh tan nhiều chuyến tàu hỏa của người Thổ và liên tục quấy rối phe địch. Phóng viên chiến trường Mỹ Jackson Bentley biến anh thành người nổi tiếng thế giới, bằng cách công bố những chiến công của anh. Khi mùa đông đến, nhiều người bộ lạc trở về nhà nên quân số ngày một mỏng dần khó có thể tiếp tục cuộc chiến. Trong một cuộc bố ráp, Farraj bị thương nặng khi chất nổ anh mang nổ quá sớm. Để tránh cho Farraj lọt vào tay quân Thổ và bị tra tấn, Lawrence buộc phải bắn chết đồng đội trước khi đào thoát. Chỉ còn 20 người, anh cùng Ali cải trang lẻn vào thành phố Daraa đang bị quân Thổ chiếm giữ. Họ bị bắt cùng với nhiều người Arab khác và được đưa đến trình diện tướng Thổ Bey (Jose Ferrer), bị đối xử tàn nhẫn và bị ném ra ngoài đường. Nếm trải những kinh nghiệm đau thương, Lawrence ngưng chiến đấu và tìm cách trở lại cuộc sống bình thường. Đến Jerusalem, Allenby khuyên anh quay về với hàng ngũ và tham gia cuộc tấn công lớn vào Damascus. Lúc đó Lawrence đã là một người khác, độc ác hơn. Anh ra lệnh giết chứ không giữ tù nhân, dẫn đến cuộc thảm sát những người lính Thổ tháo chạy tại Tafas. Đa số người tham gia đạo quân của Lawrence là vì tiền hơn là vì người Arab. Dù vậy, họ vẫn chiếm được Damascus trước Allenby. Người Arab thành lập một hội đồng để cai quản thành phố, nhưng hành xử công việc như những người xuất thân từ các bộ lạc, chứ không từ một quốc gia. Không có điện, điện thoại và nước, họ thường xuyên đụng độ với nhau và không lâu sau giao gần hết Damascus cho người Anh. Lawrence được thăng hàm Đại tá rồi qui cố hương, chuyển những cuộc thương lượng chia sẻ quyền hành cho ông Hoàng Faisal, người Anh và người Pháp.
Cơn mưa giải thưởng
Lawrence of Arabia được đề cử 10 Oscar năm 1963 và thắng 7 giải: phim hay nhất, chỉ đạo nghệ thuật, quay phim, đạo diễn, biên tập-cắt ráp phim, âm nhạc, âm thanh. Phim cũng được 4 giải BAFTA (phim Anh hay nhất, nam diễn viên chính (cho Peter O’ Toole), phim hay nhất, kịch bản) và 4 Quả cầu vàng: phim nhựa hay nhất, đạo diễn, quay phim, nam diễn viên phụ (Omar Sharif), diễn viên mới triển vọng (cho Omar Sharif).
Năm 1998, Viện Phim Mỹ (AFI) xếp Lawrence of Arabia hạng 5 trong 100 phim vĩ đại nhất mọi thời. Năm 1999 phim đứng thứ 3 trong cuộc bình chọn phim hay nhất ở Anh. Năm 2004, tạp chí Total Film xếp nó hạng 8 trong những bộ phim Anh lớn nhất mọi thời. Lawrence of Arabia là một thử nghiệm khác của Lean, như ông đã thử nghiệm với Bridge on the River Kwai trước đó và Doctor Zhivago sau này. Không được trao Oscar phim hay nhất năm 1962, Lawrence of Arabia có nguy cơ rơi vào quên lãng, nếu nó không được hai nhà phục chế lừng danh Robert A. Harris và Jim Painten cứu sống. Họ phát hiện ra âm bản gốc của bộ phim nằm trong kho chứa của hãng phim Columbia và đặt trong một chiếc hộp méo mó, rỉ sét. Họ cũng phát hiện ra các nhà phát hành đã cắt rời 35 phút phim từ bản hoàn chỉnh cuối cùng của Lean. Những đoạn phim bão cát sa mạc do F.A. Young quay bằng máy Super Panavision 70 được phục hồi rất tốt. Lawrence of Arabia là một trong ít phim sử dụng âm bản 60mm thay vì 35mm. Phim dài hơn 216 phút, đối thoại dễ hiểu, sạch theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Lawrence of Arabia kinh phí 15 triệu USD vào thời điểm đó. Nhạc nền của nhà soạn nhạc Maurice Jarre.
Năm sản xuất: 1967 Hãng sản xuất: MGM Home Entertainment Thời lượng: 105 phút Thể loại: Hài, tâm lý Xếp loại: PG Đạo diễn: Mike Nichols Kịch bản: Charles Webb (I), Calder Willingham, Buck Henry Diễn viên chính:
Anne Bancroft ... Mrs. Robinson
Dustin Hoffman ... Benjamin Braddock
Katharine Ross ... Elaine Robinson
William Daniels ... Mr. Braddock
Murray Hamilton ... Mr. Robinson
Elizabeth Wilson ... Mrs. Braddock
Buck Henry ... Room Clerk
Brian Avery ... Carl Smith
Walter Brooke ... Mr. McGuire
Norman Fell ... Mr. McCleery
Alice Ghostley ... Mrs. Singleman
Marion Lorne ... Miss DeWitte
Eddra Gale ... Woman on Bus
Giải thưởng: * Oscar 1968
Đạo diễn xuất sắc nhất: Mike Nichols
* 19 giải thưởng và 13 đề cử khác
Giới thiệu phim:
Phim hay nhất năm 1968 đóng dấu nét diễn xuất của Dustin Hoffman trong vai Benjamin Braddock.
Bộ phim mở ra khi Benjamin tốt nghiệp Đại học xong trở về nhà và tự mình bắt đầu cuộc sống va chạm với xã hội. Mike Nichols ( đạo diễn phim Who's afraid of Virginia Woolf ? ), với tài đạo diễn thiên tài, đã giúp The Graduate trở thành một phim hài vui vẻ đồng thời cũng tái hiện cảnh chuyển tiếp của chàng thanh niên bị bắt phải lựa chọn nghề nghiệp dưới áp lực của bố mẹ. Trong nỗ lực cố gắng quyết định tương lai, vấn đề của chàng trở nên khó khăn hơn khi bị bà Robinson (Anna Bancroft), vợ của bạn thân của gia đình, quyến rũ. Bancroft đã tinh tế đưa sự gợi cảm hấp dẫn già dặn vào phim. Bắt đầu là phim hài, phim này bỗng nhiên trở thành phim tình cảm khi Benjamin được giới thiệu cho con gái độc nhất của nhà Robinson, cô Elaine (Katharine Ross). Trong lần gặp gỡ đầu tiên, Benjamin cố gắng hết sức để từ chối, nhưng đến hết đêm thì chàng cảm thấy mình bắt đầu yêu Elaine. Chuyện này trở thành một tình huống khá tồi tệ.
Ngoài nét diễn xuất tinh tế của Hoffman, sự đạo diễn xuất sắc của Nichols, và kịch bản truyệt vời của Buck Henry, một phần của sự nổi tiếng của bộ phim đến từ sự thay đổi giá trị xã hội trong những năm 60.
Điểm đáng chú ý khác của phim là nhạc của Simon và Garfunkel. Nhiều bài hát trong phim trở nên vô cùng nổi tiếng và được yêu thích khắp nơi như The Sound of Silence hay Scarborough Fair/ Canticle.
07-06-2011, 01:37 AM
vicaichet
không có titanic à , đúng là :-?
07-06-2011, 10:51 AM
bsx
Chỉ giới thiệu suông thế này thì buồn lắm alex ơi. Phải thòng thêm phát là ai có nhu cầu xem phim, xin mới mang ổ cứng đến gặp alex nữa chứ ;))
07-06-2011, 11:48 AM
alex_ferguson
14/ Titanic (1997)
Hãng sản xuất : Paramount Pictures Đạo diễn : James Cameron Thời lượng (phút) : 203 Nước sản xuất : Mỹ
Titanic là bộ phim kể về vụ đắm tàu Titanic - một trong những sự kiện kinh hoàng nhất thế kỉ 20 - đã được đạo diễn James Cameron dàn dựng thành một trong những bộ phim nổi tiếng nhất mọi thời đại.
Bộ phim mở đầu với việc một nhóm thăm dò dưới đáy biển trong thập niên 1990 đã phát hiện ra bức tranh của một người con gái tên Rose DeWitt Bukater (Kate Winslet) trong con tàu Titanic bị đắm đó. Vô tình, việc họ tìm thấy bức tranh và đang chiếu trên TV được một bà lão xem và nhận ra, bà lão ấy chính là cô gái trong bức tranh. Từ đây họ được nghe kể về câu chuyện của người phụ nữ đó trong chuyến tàu Titanic định mệnh.
Bộ phim mở đầu với việc một nhóm thăm dò dưới đáy biển trong thập niên 1990 đã phát hiện ra bức tranh của một người con gái tên Rose DeWitt Bukater (Kate Winslet) trong con tàu Titanic bị đắm đó. Vô tình, việc họ tìm thấy bức tranh và đang chiếu trên TV được bà lão Rose đó xem và nhận ra, bà lão ấy chính là cô gái trong bức tranh. Từ đây họ được nghe kể về câu chuyện của một người phụ nữ sống sót trong chuyến tàu Titanic định mệnh, người đã sống thọ tới hơn trăm tuổi.
Rose sinh ra ở một gia đình quyền quý ở Philadelphia, mới 17 tuổi cô đã được đính hôn với Caledon Hockley (Billy Zane). Thông mình, đĩnh đạc và xinh đẹp dù mang trong mình sự nổi loạn ngầm, Rose được dạy dỗ từ thuở ấu thơ tất cả những điều của phụ nữ quý tộc. Lời hứa hôn của Rose với Hockley - người thừa kế nhà máy luyện thép thịnh vượng tại Pittsburgh và là kẻ có tính kiêu ngạo vũ phu - là một vận may tuyệt vời với một gia đình đang xuống dốc. Họ được xem là một cặp đôi hoàn hảo của sự giàu có và địa vị xã hội nhưng đó là sự ép buộc đối với Rose. Quá phẫn uất, Rose định tự tử nhưng được cứu bởi Jack Dawson (Leonardo DiCaprio), một chàng họa sĩ nghèo phóng khoáng, đẹp trai, hài hước, đang trên đường tìm cơ hội lập nghiệp ở Mỹ. Tình yêu đến với họ thật tự nhiên và dịu dàng.
Nhưng chuyến tàu định mệnh đã thay đổi toàn bộ số phận hành khách trên con tàu cũng như những dự tính, ước vọng của đôi tình nhân Jack & Rose. Một thảm họa đã xảy ra khiến mọi chuyện lệch khỏi quỹ đạo không còn đi theo kế hoạch: Tinatic va phải một tảng băng trôi. Người ta nháo nhào tranh nhau xuống thuyền cứu hộ, thậm chí dám cướp nhau một cái áo phao. Tồi tệ hơn, giới quý tộc đã khóa cửa không cho những người thuộc tầng lớp bình dân vào khoang tàu dưới chỉ vì sợ họ tranh mất cơ hội sống của họ. Lúc này Jack đang bị kẹt bên một đường ống dẫn nước vì vướng vào một vụ vu oan giá họa, người ta nghi ngờ anh ăn cắp chuỗi ngọc trang sức quý giá của Hockley tặng Rose. Nước đang tràn vào tàu, lạnh buốt xương. May sao vì tình yêu Rose đã không xuống thuyền cùng mẹ mà chạy đi tìm Jack, kịp thời cứu anh thoát chết trước khi nước ngập vào. Hai người chạy trốn, thoát hiểm cùng nhau cho đến khi con tàu bị dựng đứng lên rồi gẫy ra làm đôi. Chỉ có một số nhỏ thoát chết còn hàng ngàn hành khách, đa phần là người thuộc tầng lớp bình dân, đã thiệt mạng. Họ chết vì cái lạnh của nước biển, họ chết vì cái lạnh lùng tàn nhẫn của một số người ham sống sợ chết.
Trong giờ phút lênh đênh giữa đại dương, Jack đã nhường người yêu một tấm phản khá to. Rose may mắn được nằm trên một tấm phản gỗ trôi dập dềnh trên mặt biển, còn Jack thì đã vĩnh viễn rời xa cô trong làn nước giá lạnh. Xung quanh cô toàn xác người chết cóng, bản thân cô cũng đã quá mệt mỏi nhưng vì lời hứa Jack, cô đã quyết tâm sống. Cô lăn mình xuống nước băng giá, vùng vẫy tới gần xác thuyền trưởng để lấy cái còi. Cô thổi những hơi lạnh buốt vào chiếc còi lấy được với hy vọng sẽ gây được sự chú ý. Và rồi chỉ có duy nhất một chiếc thuyền cứu hộ quay nhìn thấy cô và Rose sống sót.
Ký ức buồn vui về Jack đã đi theo Rose suốt cả cuộc đời, để bây giờ bà già Rose đang sắp bước sang tuổi 101 ngồi kể chuyện cho những người thăm dò tàu Titanic về một người mà bà thực sự yêu, một người đã đem đến cho bà cuộc sống chân thực.
Ngay đêm kể xong câu chuyện, Rose đã chết, một mình và thanh thản. Linh hồn bà đến với Jack tại con tàu Titanic dưới đáy biển, nơi họ đều trở về thời thanh xuân ban đầu. Một kết thúc có hậu cho họ.
Các nhân vật
* Kate Winslet vai Rose DeWitt Bukater: Nhân vật chính của phim, Rose là một phụ nữ 17 tuổi bị ép gả cho Caledon Hockley với mong muốn có được một cuộc sống quý tộc cùng mẹ, Ruth, sau khi cha cô chết để lại một món nợ lớn làm tiêu sản gia tài. Cùng với Cal và Ruth, Rose lên con tàu RMS Titanic với tư cách là hành khách khoang hạng nhất, tại đây cô đã gặp Jack, một hành khách ở khoang hạng ba.
* Leonardo DiCaprio vai Jack Dawson: Jack là một chàng trai nghèo, anh đi du lịch nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Paris. Ở đầu phim, Jack thắng được 2 tấm vé lên tàu Titanic sau một ván poker và cùng với người bạn, Fabrizio, lên tàu với tư cách là hành khách khoang hạng ba. Anh bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của Rose từ cái nhìn đầu tiên và vô tình nói chuyện với cô khi Rose cố gắng nhảy xuống biển ở đuôi tàu. Hành động anh hùng này đã giúp anh được mời tới dự buổi tiệc đêm với những hành khách khoang hạng nhất .
* Billy Zane vai Caledon Nathan "Cal" Hockley: Hôn phu của Rose, một người đàn ông thượng lưu kiêu ngạo và tự phụ, Cal là người thừa kế một công ty thép giàu có. Trong phim, Cal ngày càng trở nên lúng túng, ganh tị và thô bạo trong mối quan hệ của Rose với Jack. Anh tặng Rose viên kim cương "Trái tim Đại dương" như một kỉ vật thể hiện tình cảm của anh dành cho Rose, và yêu câu cô "mở cửa trái tim" cho anh. Cal đã thoát khỏi vụ chìm tàu sau khi giả vờ có con để được lên tàu cứu hộ. Nhân vật Rose khi già tiết lộ Cal đã đặt súng vào miệng và tự tử sau cuộc khủng hoảng phố Wall năm 1929.
* Frances Fisher vai Ruth DeWitt Bukater: Người mẹ góa của Rose, người sắp đặt chuyện hôn nhân của cô với Cal để đảm bảo một cuộc sống thượng lưu. Bà yêu cô con gái nhưng lại tin rằng kết hôn với Cal là một điều đúng đắn. Một hình ảnh thu nhỏ về sự nông cạn và tính giả tạo của xã hội thượng lưu, bà khinh bỉ Jack mặc dù anh là người đã cứu con gái bà. Ruth được cứu bởi thuyền cứu hộ.
* Danny Nucci vai Fabrizio De Rossi: Anh bạn thân nhất người Ý của Jack, người lên tàu Titanic cùng Jack sau khi Jack thắng 2 vé trong một ván poker. Fabrizio bị chết sau khi ống khói của tàu sập và đổ xuống người anh.
* Jason Barry vai Tommy Ryan: Một hành khách khoang hạng ba người Ireland, bạn của Jack và Fabrizio. Tommy bị thuyền viên Murdoch bắn chết khi con tàu đang chìm, sau khi anh xô đẩy giữa cảnh hỗn loạn trên boong tàu.
* David Warner vai Spicer Lovejoy: Một cựu cảnh sát của Pinkerton, Lovejoy là người hầu và bảo vệ của Cal, ông được giao quyền để mắt tới Rose và nghi ngờ về mối quan hệ của Rose với Jack sau khi Jack cứu Rose. Theo như Rose thì Lovejoy được cha của Cal thuê để "trông cậu con trai bé nhỏ". Ông hộ tống Cal, Rose và Ruth lên tàu Titanic. Lovejoy chết khi tàu đang chìm, ông được nhìn thấy lần cuối khi cố gắng bám vào thanh chắn boong tàu khi tàu tách làm đôi.
* Bill Paxton vai Brock Lovett: Một thợ săn kho báu tìm kiếm viên kim cương "Trái tim Đại dương" trong xác con tàu Titanic ở thời điểm hiện tại. Thời gian và tiền dành cho chuyến thám hiểm của anh đang cạn dần.
* Gloria Stuart vai Rose Dawson Calvert: Rose khi đã là một cụ già 100 tuổi, sau khi Lovett phát hiện một bức tranh khỏa thân của bà trong xác tàu Titanic, bà đi cùng đoàn tàu của Lovett để cung cấp thông tin về viên kim cương "Trái tim Đại dương". Gloria Stuart lúc tham gia phim đã 87 tuổi. Bà qua đời ngày 26/9/2010 vì ung thư phổi.[7]
* Suzy Amis vai Lizzy Calvert: Cháu gái của Rose, người chăm sóc và hộ tống bà trong chuyến đi với Lovett.
* Lewis Abernathy vai Lewis Bodine: Bạn của Lovett, người lúc đầu nghi ngờ câu chuyện của 'bà cụ' Rose. Anh giải thích cho Rose về cách con tàu chìm với một máy tính 3-D. Khi Rose kết thúc câu chuyện, anh tỏ vẻ khá cảm thông với bà
Chuyện hậu trường
Bộ phim hoành tráng này của Hollywood, với kinh phí sản xuất trên 200 triệu USD, là một hiện tượng của điện ảnh thời gian đó. Đây còn là phim ăn khách nhất suốt 12 năm 1997-2009 trong lịch sử điện ảnh thế giới và đoạt được 11 giải Oscar.
Tuy thành công về thương mại và giải thưởng nhưng không ít người lại chê bai Titanic. Trên trang dữ liệu điện ảnh rất uy tín IMDB bộ phim chỉ đạt 7.3/10 điểm qua hơn 200.000 lượt bình chọn [15] trong khi để vào đượt Top 250 của trang này thì ít nhất phải được trên 8.0 điểm - đó là một số điểm khá khiêm tốn khi so sánh Titanic với các phim đạt giải Oscar khác.
Sắp ra mắt Titanic 3D
Thiên tình sử Titanic với sự kết hợp của Leonardo DiCaprio và Kate Winslet sẽ tái xuất trên màn ảnh rộng vào năm sau dưới phiên bản 3D
Đạo diễn James Cameron vừa thông báo Titanic 3D sẽ được công chiếu rộng rãi vào ngày 6-4-2012 nhân kỷ niệm 100 năm (10-4-1912) ngày con tàu này nhổ neo.
“Một thế hệ công chúng mới, những người chưa bao giờ xem Titanic, sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng bộ phim trên màn ảnh rộng. Được chuyển thể sang công nghệ 3D một cách kỹ lưỡng, Titanic - với sức mạnh về hình ảnh và cảm xúc còn được giữ nguyên vọn sẽ mang lại trải nghiệm mới cho những người hâm mộ cũ cũng như khán giả mới,” đạo diễn Cameron nói.
Ra mắt lần đầu tiên năm 1997, Titanic đã dành 11 giải Oscar bao gồm giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất dành cho James Cameron.
Tính đến thời điểm hiện đại, Titanic là tác phẩm điện ảnh có doanh thu cao thứ nhì thế giới -1,8 tỷ đôla và chỉ chịu xếp sau “người anh em cùng cha” của mình là Avatar (Hiện thân) - hơn 2,7 tỷ đôla.
07-06-2011, 12:03 PM
ppt
Mình thấy thiếu Ben Hur (sản xuất 1959) thì phải.
07-06-2011, 01:21 PM
Johnny
Thế thì còn thiếu nhiều lắm đấy bạn! Hình như chỉ thấy đại diện của Châu Âu & Châu Mỹ, còn châu Á... thì sao? Mỗi vùng, mỗi châu đều có 1 nền văn hóa riêng và nếu xét trên quan điểm triết lý văn hóa Phương Đông thì Châu Á có đóng góp nhiều bộ phim kinh điển lắm đấy.
Riêng TQ không thôi, ta có "Tứ đại danh tác" (tiếng Trung: 四大名作) chỉ bốn tác phẩm văn học cổ điển được cho là danh tiếng nhất của Trung Quốc, xếp theo thứ tự:
1. Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung
2. Tây du kí của Ngô Thừa Ân
3. Thủy Hử của Thi Nại Am và La Quán Trung (hiệu đính)
4. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần
Tất cả 4 đại danh tác này đã thành phim và có thể được gọi là kinh điển không bạn?!!!
Nên xét về quan điểm "kinh điển" thì phần liệt kê của bạn sẽ còn thiếu nhiều, nhiều lắm. Tuy nhiên, đây là 1 topic rất hay, cung cấp, sưu tầm nhiều thông tin thú vị, bổ ích!
07-06-2011, 01:27 PM
hung_namdong
Ngoài ra bộ phim Titanic gắn liền với tên tuổi ca sĩ Celine Dion và tuyệt phẩm My Heart Will Go On.
Quá hay!