Printable View
1. Hứa Quang Việt (1975 - Trung tá)
2. Nguyễn Thái Ninh (1989 - Trung tá)
3. Chu Viết Dũng (1986 - Thiếu tá)
4. Phạm Ngọc Minh (1990 - Đại úy)
5. Nguyễn Trường Kha (1984 - Thiếu tá)
6. Nguyễn Ngọc Ngạn (1997 - Đại úy)
7. Nguyễn Văn Thủy (1985 - Đại úy)
8. Đào Văn Trọng (2001 - Trung tá)
9. Đào Duy Khánh (1999 - Trung tá)
10. Phạm Tiến Lực (1984 - Đại úy)
Các VĐV bắt buộc phải ghi biên bản và nộp lại cho BTC
(Lưu ý: Đẳng cấp chỉ mang tính tham khảo)
Tuyệt vời quá
Bạn luuhieukhanh và mọi người cho tôi hỏi, làm thế nào để phân biệt được đâu là Thiếu tá, đâu là Trung tá, Thượng tá, Đại tá? Cũng giống như Thiếu, Trung, Thượng, Đại uý? Thiếu tá và trung tá thì dựa trên cơ sở nào để đánh giá? Hay cứ đánh giá theo cảm tính?
Theo quan điểm của tôi phân biệt Thiếu tá, trung tá...:
1. Dựa trên cảm nhận chủ quan cá nhân về sức cờ 1 kỳ thủ
2. Dựa trên thành tích cá nhân thi đấu giải của kỳ thủ đó
3. Dựa trên tỉ lệ thắng/ thua khi đánh độ của kỳ thủ đó
4. Dựa trên bảng xếp hạng Đại tá, Thượng tá, Trung tá của các kỳ thủ Hà Nội để so sánh.
10 kỳ thủ trên tôi nắm tương đối về thành tích và sức cờ thì tôi mới viết vào như vậy.
Cờ là 1 môn thể thao trí tuệ mà ko ai che giấu được sức cờ thật sự. Hj!
Câu lạc bộ cờ hạ Long ơ cột 5 gần Bic phải không anh? Mai sắp xếp đc em sẽ đi xem Hihi hoàng tráng quá
Theo tôi bạn Khánh từng đánh trạng cờ cỡ trung tá đến thượng tá ở hà nội. Hàng tướng hà nội có thể chấp được 2 tiên. Hai kỳ thủ xếp hàng trung tá kia theo tôi là không hợp lý. Vì trung tá là tướng hà nọii cháp 2 tiên là cân. Hai cậu trẻ này 2 tiên thua chắc. Đôi lời góp ý cho thêm xôm