Giai thoại tình yêu ( tiếp theo )
Mạn phép trích lời nhận xét của Đoàn Hữu phong để kết thúc 1 giai thoại tình yêu :
Trước vẻ đẹp cùng với sự tinh tế, dịu dàng của Nữ vương đã khiến một cao tăng đắc đạo như Đường Tăng cũng phải xiêu lòng (ta có thể thấy rõ điều này qua sự ngại ngùng, bối rối đến toát hết cả mồ hôi của Đường Tăng trong đoạn phim). Tuy là một nhà tuy hành có quyết tâm vượt mọi gian khó, cám dỗ, có phật tâm “tứ đại giai thông” nhưng có những giới hạn mà bản thân cái phật tâm của Đường Tăng cũng không thể vượt qua vì Đường Tăng cũng là một con người bằng xương bằng thịt chứ không phải là gỗ đá, cũng có những bản năng, tình cảm của một con người bình thường. Trong tâm khảm của của vi Thánh tăng lúc này có sự đấu tranh rất lớn giữa "tình" và "đạo", giữa "giới luật thanh quy" với "hoan lạc đời thường", liệu với đạo hành của mình Đường Tăng có vượt qua được thử thách này nếu không bị yêu quái cuốn đi?
Câu nói “nếu có kiếp sau...” của Đường Tăng như một lời khẳng định rằng tình cảm của mình với Nữ vương là có thật, nhưng không thể cùng chung vui hạnh phúc với Nữ vương vì kiếp này Đường Tăng đã hiến thân cho cửa phật và trót mang lời hứa đi lấy kinh với vua Đường, cái “tình” tuy có đấy nhưng cái “chí” vẫn lơn hơn, cái “tình” ấy bị rằng buộc bởi đạo luật và trách nhiệm nên nó mới mong chờ vào “kiếp sau”.
Phải nói thử thách này rất lớn với một nhà tu hành như Đường Tăng vì cái "tâm" phât bị dao động bởi cái "tình". Nếu giả sử như Đường Tăng không có tình cảm gì với Nữ vương thì ông ta có thể vượt qua thử thách này một cách dễ dàng, nhưng ở đây là có nên cái thử thách này là khó vô cùng, và chiến thắng hay vượt qua được nó thì cũng không phải là một điều vui mừng như khi các thầy trò vượt qua được những gian nan thử thách hay chiến thắng được những yêu quái.
Ở trên đời này có 4 kiểu người có thể vượt qua được thử thách Tây Lương nữ quốc:
+ Thứ nhất đó là những người có trái tim gỗ đá, không biết rung động.
+ Thứ hai đó là những kẻ đồng tính, pê đê.
+ Thứ ba đó là những người có tình cảm, có rung động như những con người bình thương khác nhưng có ý chí đủ mạnh để có thể chiến thắng tình cảm cá nhân mình.
+ Thứ tư đó là những ông sư có đạo hành cao thâm.
Hai kiểu người ở trên đầu thì có thể vượt qua thử thách Tây Lương nữ quốc một cách dễ dàng không đáng nói. Còn Đường Tăng thuộc kiểu người thứ 3 hay thứ 4 tùy vào nhận xét của mỗi người. Nhưng như các nhà làm phim thì Đường Tăng thuộc vào kiểu người thứ 3, kiểu người này vươt được qua thử thách Tây Lương nữ quốc mới đáng phục hơn cả bới vì khác với 3 kiểu người còn lại, kiểu người này vượt qua thử thách là khó khăn nhất vì có sự đấu tranh với nội tâm của mình chứ không như 3 kiểu người còn lại. Mọi người thử nghĩ xem! Nếu Đường Tăng không có tình cảm gì với Nữ vương thì đây đâu còn là một thử thách cho Đường Tăng nữa và cũng chẳng có giới hạn nào giành cho Đường Tăng cả. Phải nói sống ở trên đời này điều cơ bản nhất của một con người là sống phải biết yêu thương người khác, yêu thương mọi người, kẻ sống không biết yêu thương tức là kẻ ích kỷ - chỉ biết yêu bản thân mình. Nhưng các nhà làm phim đã rất giỏi khi xây dựng một nhân vất Đường Tăng mang dáng dấp của một con người thực sự, chứ không còn là Đường Tăng khô khan không biết rung động như trong truyện nữa.
Cuộc chiến của Đường Tăng khác với cuộc chiến của các ông đồ đệ với những yêu tinh, yêu quái đầy những tiếng gươm đao, đầy những máu lửa chết chóc thì cuộc chiến của Đường Tăng luông là cuộc chiến âm thầm của nội tâm, chiến thắng với chính bản thân mình. Ở đây những ông đồ đệ không giúp gì được cho Đường Tăng mà tự Đường Tăng phải vượt qua tất cả. Đường Tăng cũng là một con người và cũng có những ham muốn tình cảm của con người, mà thứ tình cảm của con người này cũng giống như chiếc lò xo vậy, càng nén nó lại sức bật của nó lại càng lớn.
Đạo phật vẫn quan niệm đời là bể "khổ", con người ta chỉ có thể diệt "khổ" bằng cách dứt hết mọi tình cảm cũng như tham lam dục vọng nơi bản thân mình (hay còn gọi là giải thoát) chính vì vậy khi các nhà tu hành gửi mình nơi cửa Phật cũng là phải cắt đứt hết mọi duyên trần tục, tu tâm dưỡng tính sao cho lòng không vẩn đục, người tu hành nơi cửa phật phải đạt đến cái tâm thanh tịnh thì mới gọi là đắc đạo, lòng vẫn còn vương vấn bụi trần tức là không thể tu hành được. Đường Tăng là con người cái tâm luôn hướng về phật đạo (hay đúng hơn là một tín đồ sùng đạo) chính vì vậy mà cái giới luật thanh quy ở đây nó như cái vòng quy tắc không cho nhà tu hành được phép vượt qua. Nhưng chả phải đạo Phật vẫn khuyên con người ta phải hướng thiện, sống tốt với mọi người ư! Liệu rằng phụ tình một con người có phải là một điều tốt, liệu rằng chỉ vì giữ chữ “đạo” mà phụ bạc chữ “tình” có đáng với chữ “thiện” hay không? Vậy thì đối với Đường Tăng chữ “tình” và chữ “đạo”, chữ nào đáng quý hơn, cái giới luật thanh quy cứng nhắc có đáng đươc trân trọng như đối với thứ tình cảm chân thành, sâu nặng của nữ vương không? Đúng là tạo hóa thật chớ trêu sinh ra cái giới luật thanh quy của nhà Phật nhưng lại để cho kẻ tu hành vướng vào sợi tơ tình. Liệu rằng nếu không có cái giới luật thanh quy ấy đôi lứa có nên duyên? Liệu rằng nếu chàng không giữ chữ "đạo" đôi lứa có thể trở thành tri kỉ? Có phải chữ "đạo" là cái kéo cắt đứt sợi dây "tình". Nhưng rút cuộc đến giây phút cuối cùng Đường Tăng vẫn chon chữ “Đạo”. Âu! Đó cũng là cái chí của kẻ làm trai, sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng tư vì cái nghĩa lớn, từ bỏ cả hạnh phúc cá nhân để đem đến hạnh phúc cho chúng sinh trăm họ. Có lẽ cái tình nghĩa kia cũng thấu hiểu cho nỗi lòng của kẻ đa mang mà không oát trách vì đã kiềm lòng mà dứt áo ra đi.
“Đạo” chàng bất tận “tình” thiếp đành trân trọng, chàng giữ“đạo” thiếp cũng ngàn trọng trân
“Tình” nàng sâu nặng “chí” chàng từng vương vấn, bởi chữ "tình" mà lòng phải vấn vương
Nhiều bạn nói rằng Đường Tăng là Phật, vậy thì Đường Tăng không thể động lòng trước bất kỳ một bóng hồng nào. Điều này hoàn toàn không dúng, vì Phật cũng là do con người tu đắc đạo mà thành, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni (người sáng lập và đặt nền móng đầu tiên cho đạo Phật) tương truyền ngài cũng là một hoàng tử được kế nhiệm ngôi vương nhưng do thấy chúng sinh lầm than khổ cực, ngài đã từ bỏ mọi vương quyền phú quý để đi tìm con đường tu đạo, giải thoát chúng sinh, và tại gốc cây Bồ Đề, ngài đã bỏ lại vợ dại con thơ để hóa thân thành Phật. Vậy thì Phật Thích Ca trước khi thành Phật ngài cũng là một con người bình thường như bao con người khác, cũng có vợ có con, cũng biết yêu thương rung động như một con người. Đường Tăng cũng vậy trước khi đến được “đất Phật” Tây Thiên thì tại nơi “đất tình” Tây Lương, Đường Tăng vẫn là một con người chứ đã phải là Phật đâu, mà đức Phật Thích Ca trước khi thành Phật có thể lấy vợ sinh con thì tại sao Đường Tăng lại không thể nhỉ ? Rõ ràng cả đức PHật Thích Ca và Đường Tăng đều giống nhau đó là trước khi thành Phật họ đều là con người, mà đã là con người cần phải biết yêu thương, rung động và mang những tình cảm của con người chứ không thể như những thứ thể xác vô hồn vô cảm được. Nếu ngay cả những thứ tình cảm cơ bản cần phải có của con người đó mà họ cũng không có được thì họ đâu đáng được làm đức Phật cao quy để đi giáo hóa, dăn dậy chúng sinh, đâu đáng để muôn ngàn người tôn kính. Như vậy Đường Tăng rung động trước một Tây Lương nữ vương cũng là một điều hợp lẽ và cần phải có để chứng tỏ Đường Tăng là một con người chứ đâu phải là một thứ vô tri vô cảm do cha mẹ sinh ra.
Chưa đến đất "Phật" Tây Thiên... thì "người" chưa là "Phật"
Vẫn ở cõi "tình" Tây Lương... thì "Phật" vẫn là "người".
Thế nên với Tây Lương Nữ vương đó chỉ là một duyên phận hẩm hiu. Nữ vương đa tình thât, Đường Tăng cũng xiêu lòng, nhưng có lẽ ý chí cộng với Phật tâm đã giúp vị thánh Tăng dứt bỏ tình cảm để đi tiếp trên con Đường cầu chân Kinh.
Công nhận đoạn chia li giữa hai người cảm động thật...
Bài hát nghe hay đến chạnh lòng...
Nữ vương mặc dù rất muốn ngự đệ ở lại nhưng không thể ép ngự đệ được. Bởi vì cái chí nguyện của kẻ tu hành không phải giành cho Tây Lương, vất vả cầu kinh vạn dặm không thể buông suôi tất cả nên cũng đành tạ tội với tấm tình nhi nữ. Nữ vương có lẽ cũng hiểu ”chí” chàng nên đành nghẹn ngào nén chặt tình cảm trong lòng mà đóng chiện vào tờ văn điệp thông quan cho Ngự đệ ra đi.
Thôi thì giấc mộng hương trần đó sẽ mãi chỉ là mộng phù vân. Bể đời trầm luân, chuyện hợp tan, ly hợp thật vô thường. Giữa đoạn trường ly biệt, bóng hồng lệ nhòa hoen mi chỉ biết lặng lẽ thả hồn với gió cuốn ngút ngàn cùng tiếng vó ngựa xa xăm muôn dặm của người đi. Chàng thì cất bước với chốn xa mây gió, thiếp ngậm ngùi với nỗi nhơ niềm thương. Từ đây, duyên phận đôi lứa sẽ mãi là lỡ làng cùng với thiên thu. Tơ duyên đã không định thôi đành chia lìa , chút hương thầm vương vấn này đành mang theo trong mộng tưởng. Người đi giữa muôn dặm trường hư không mờ ảo, người ở lại với nổi niềm nhung nhớ khôn nguôi. Ai bảo rằng yêu là chia ly đau khổ, ai bảo rằng yêu là xa lìa, sao sự đời lại luôn đúng như vậy! Chút tình này chỉ xin được ghi khắc vào trong giấc mộng êm đềm. Như cái ngó sen kia! Dẫu cho ai đã cắt lìa thì vẫn còn lại những sợi tơ, tình chàng thiếp cũng vậy, dẫu cho lìa ngó ý thì vẫn còn vương tơ lòng. "Kiếp nhân sinh" dẫu đã trót tàn phai, thì chỉ còn "kiếp sầu tư" sẽ mãi theo cùng vô vọng. Thật xót xa cho mảnh hồng nhan, chút hương yêu cố quận này mong được gửi tới gió mây ngàn, tới bóng tình lang và hãy rọi sáng cho người gối chiếc chăn đơn trong đêm cô quạnh.
" Dù cho tóc có điểm sương
Mãi là nỗi nhớ yêu thương một người ".
Một kiếp gặp nhau dù chẳng nên duyên giai ngẫu, người thì mang vận mệnh cao cả là giải thoát chúng sinh, kẻ thì gánh trách nhiệm lớn lao là chăm lo cho lê dân chăm họ, nhưng gạt nước mắt họ vẫn phải bước tiếp trên con Đường mình đã chọn, sau ngày dù cho cách trở quan san thì lòng dặn lòng vẫn nhớ về nhau, chỉ mong đêm về được gặp người trong mộng. Giấc mộng uyên ương bươm bướm trên đời dẫu chẳng thành hiện thực. Xin hẹn kiếp sau để nối lại duyên này.
Chàng là Thánh Tăng siêu thoát cho chúng sinh trăm họ
Thiếp phận nữ vương an nghiệp cho bách tính muôn dân.
Lúc chia tay người lên ngựa, kẻ chia bào rất quyến luyến, bịn rin.
Lúc Đường Tăng quất ngựa ra đi, nghe câu nói thân thương của nữ chúa Tây Lương “ngự đệ chàng ơi” liền ngoảnh đầu lại ngắm nhìn người thương một chút để rồi ngoảnh mặt đi quyết chẳng hồi đầu. Mang theo trong lòng mối tình nặng trĩu thẳng tiến tới Tây phương vạn dặm. Để người ở lại phải vương đôi dòng lệ thầm chúc chàng thượng lộ bình an.
Nơi Tây Lương chí trai từng lưu luyến.
Đất Tây Thiên lữ khách chẳng hồi đầu.
Tấm tình nữ nhi.... thầm chúc chàng đến thiên trúc bình yên gió lặng.
Nỗi lòng nam nhi.... mong cho nàng tìm được một bến bờ ấm êm.
Tây Thiên ..... Người ra đi lòng mang “chí” lớn.
Tây Lương ...... Kẻ ở lại vương vấn bởi nặng chữ “tình”.
Sự đời vẫn vậy! Phàm là những thứ gì lung linh, đẹp đẽ nhất thì cũng thường mong manh nhất. Mây ngũ sắc thì dễ tan, ngọc lưu ly thì dễ vỡ, cầu vồng bảy sắc tuy đẹp thật đấy nhưng rồi cũng sẽ mau chóng phai tàn. Giấc mộng hương tình của Tây Lương và Đường Tăng cũng vậy! Thật tiếc thay! Đúng là có "duyên" mà không có "phận", vừa mới có duyên nhưng phận đã buộc phải chia lìa. Người thì có tình ý sâu nặng, nhưng kẻ giữ đạo lại mang một lòng cố chấp không dám phá vỡ nó. Mà cũng đâu hẳn là phá vỡ được nó rồi thì xong vì chí nguyện một đời đã giành cả cho nó, bao năm ròng rã là một nhà sư tu tâm niệm Phật, bao nhiêu năm ròng rã theo đuổi con đường tìm đến với chân kinh. Con đường của nhà tu hành là tìm đến với Tây Thiên chứ không phải là dừng lại ở Tây Lương. Có lẽ cái tâm nguyện này đã giúp cho kẻ tu hành có đủ lý trí để vượt qua được thử thách nơi tâm khảm để rồi đành ngậm ngùi mong chờ vào “kiếp sau”.
Ngày xưa khi còn nhỏ mình xem Tây Du Ký không cảm nhận được cái hay của Tập phim này. Giờ khi đã trưởng thành dần có được những suy nghĩ, sự chín chắn của người lớn thì mình lại rất thích tập phim này. Nhân vật Đường Tăng hồi bé mình vẫn ghét nhất vì vừa ngu vừa dại thì giờ lại thấy thích nhất. Trước dây phút thử lòng giữa lý trí và tình cảm Đường Tăng không còn là một ông sư với cái đầu ấu trĩ và một trái tim vô cảm nữa mà là một con người thực sự như chúng ta, cũng mang những tình cảm yêu thương. Còn mối tình Đường Tăng và Tây Lương thật là một giấc mộng đẹp. Tiếc thay! trời cũng chẳng toại lòng người nên giấc mộng hương tình đó vẫn mãi chỉ là một giấc mông và cũng mãi mãi chỉ là một chữ "nếu", nó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực vì mỗi người bọn họ đều có một mục tiêu, một sở nguyện khác nhau. Sau này người đất Tây Thiên, kẻ đất Tây Lương còn chăng duyên tương ngộ, còn mong đợi được hai chữ "kiếp sau".
Mình có viết một bài thơ tiếc cho duyên phận của Tây Lương và Đường Tăng. Hi vọng mọi người đừng chê thơ mình nhé.
Duyên kiếp này, phận kiếp sau
Đoàn Hữu Phong (doanhuuphong)
Duyên gặp gỡ, phận chia li
Người thì cất bước, người thì lặng trông
Trách chi duyên phận lỡ làng
Sao chàng đến thiếp vội vàng chàng đi
Giữa trời đất, chuyện bể dâu
Tình nàng sâu nặng, lòng chàng đa mang.
Hỏi sao muôn sự tại trời
Trăm năm có nối duyên này nữa không ?
Đường tình ai lỡ phân ly
Để cho ai nhớ ai chờ đợi ai ?
Mong sao luân ngả trăm hồi
Gặp người trong mộng nối tình duyên xưa .
Kiếp sau... Kiếp sau... Kiếp sau...
Duyên thì gặp gỡ, phận đừng chia li.
Tương kiến nan, biệt diệc nan
(bài hát cuối phim)
Lời: Diêm Túc
Nhạc: Hứa Kính Thanh
Ca sĩ thể hiện: Ngô Tĩnh
Duyên này gặp gỡ vội chia ly
Muôn ngàn tâm sự dấu trong tim
Tấm "tình" thiếp mênh mông sông lớn
Nhưng "chí" chàng vượt mọi núi sông
Chỉ oán trách tơ duyên không định
Chàng giữ đạo thiếp ngàn trân trọng
Cầu chúc chàng thượng lộ bình an.
Việc nhân gian thường đâu như nguyện
Bóng nguyệt kia lúc tỏ lúc mờ
Lặng hồn theo bóng người xa khuất
Chỉ gặp chàng trong mộng mà thôi.
(dịch bởi Đoàn Hữu Phong)
1/Tương kiến nan, biệt diệc nan
Tây Lương Nữ Quốc - Tương kiến nan biệt diệc nan - YouTube
2/ Tương kiến nan, biệt diệc nan
Tay Du Ky TQ - 8- Tương kiến nan, biệt diệc nan - YouTube
( Nguồn internet )
( Còn tiếp : đệ nhất chung tình )
Tháp Đại Nhạn, Ngàn Năm Mây Trắng !
Tháp Đại Nhạn, Ngàn Năm Mây Trắng
Tháp Đại Nhạn, ngàn năm mây trắng - TỜ BÁO CỦA GIỚI DOANH NHÂN - DOANHNHANSAIGON.VN
Quảng trường mênh mông, tượng Đường Tam Tạng chắc bằng đồng đen nổi bật từ xa. Mọi người chỉ đứng tới mí dưới áo của Ngài. Nhà sư dáng người tầm thước, mặc áo cà sa, bàn tay trái xòe ra chắp trước ngực, cổ tay đeo chuỗi bồ đề, cánh tay áo quảy một túi vải rất lớn thòng đến đầu gối.
Tay phải cầm một thiền trượng. Đầu cạo trọc, hai vành tai to đẹp như tai phật, nét mặt hiền hòa nhưng ẩn chứa sự cương nghị quyết tâm. Tuổi khoảng năm sáu mươi. Chắc đây là tượng của nhà sư lúc thỉnh kinh trở về. Không thấy nét khắc khổ phong trần của con người vượt bao nhiêu hiểm nguy trắc trở đi cầu đạo, không thấy nét rắn rỏi hiển hiện của con người trải qua bao cuộc gian lao, đấu tranh trí tuệ. Chỉ thuần một nét điềm đạm, bình an.
Trí nhớ của tôi thuở ấu thơ in đậm hình ảnh Tam Tạng, người trắng trẻo đội mũ, nét mặt thật thà, da thịt thơm tho mà yêu quái nào cũng muốn ăn một miếng để được trường sinh. Thầy Đường Tăng cỡi con ngựa bạch, cùng ba đệ tử Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ sinh ra từ đá, Trư Bát Giới Ngộ Năng mỏ heo là Thiên Bồng Nguyên soái bị đày xuống phàm trần và Sa Tăng Ngộ Tịnh. Sau này lớn lên tôi biết Ngô Thừa Ân viết truyện Tây Du Ký dựa vào câu chuyện có thật về nhà sư Trần Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ nghiên cứu học hỏi và đem nhiều kinh Phật về Trung Quốc.
Nhưng Đường Tăng thật chỉ một mình, không có ba học trò, không thấy con ngựa bạch. Và bức tượng Ngài trước mặt tôi, như hiển hiện. Xúc động, tôi chấp tay chiêm bái hình ảnh huyền thoại của tuổi thơ, nhà sư tài ba vĩ đại của Phật giáo Trung Quốc và toàn cõi Á Đông. Sử Trung Hoa ghi lại, cậu bé Trần Vỹ sinh ra tại đất Lạc Dương, đời Tùy Văn Đế Dương Kiên, 13 tuổi đã xuất gia. Quy y năm 20 tuổi tại Trường An, nơi đây đã thành đế đô của nhà Đường. Nhiều năm đi đây đi đó, viếng nhiều cảnh chùa, tu học kinh sách Phật pháp với nhiều bậc thầy.
Càng học càng rối vì thấy có nhiều điều không nhất quán nên nung nấu trong lòng tâm nguyện cầu đạo gốc ngay đất Phật. Sư đã phải trốn đi, vì thời đó lệnh vua cấm dân chúng ra khỏi biên giới phía Tây, vì Đường Thái Tôn mới nắm quyền trị nước, mối quan hệ với Tây Vực đang căng thẳng.
Tôi đứng rất lâu ngắm nhìn Đường Tam Tạng, vô cùng cảm khái. Đúng đây là Trường An - đế đô nhà Hán, nhà Tùy, nhà Đường. Trong đầu tôi rõ mồn một các nhân vật trong truyện Thuyết Đường. Lý Thế Dân - sau này là Đường Thái Tôn - đánh Nam dẹp Bắc cùng các tướng tài Tần Thúc Bảo mặt vàng như nghệ gọi là Tần Huỳnh, Trình Gião Kim tài nghệ chỉ được ba búa mà có số hên, quân sư Từ Mậu Công lỗ mũi trâu.
Em Lý Thế Dân là Lý Ngươn Bá người gầy nhom mà sức mạnh vô cùng được xếp là anh hùng số một. Nhân vật giang hồ hảo hớn nhất là Đơn Hùng Tín. Nhà Tùy sụp đổ, nhà Đường tiếp nối. Trong thời buổi tao loạn ấy, sư trẻ Huyền Trang mải mê học đạo, bỏ công tu học Kinh sách Tiểu Thừa (Theravàda) lẫn Đại thừa (Mahàyàna).
Hai mươi tám tuổi, sư Huyền Trang trốn ra khỏi nước. Hành trình gian khổ, trèo non lội suối vượt sa mạc mênh mông, nhiều lúc tưởng đã chết dọc đường. Sư chỉ đi một mình với con ngựa già đỡ chân. Trong Hồi ký Đại Đường Tây Vực ký do sư Huyền Trang soạn thì hành trình đến đất Phật còn nguy hiểm hơn các chuyện giả tưởng trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Có lúc lạc trong sa mạc, đói khát, kiệt lực, sư vẫn tiến tới phía trước và tự nhủ: “Trước kia đã thề nếu không đến được Tây phương cõi Phật quyết không trở về phía Đông độ. Thà đến Tây phương mà chết hơn quay về sống hèn”.
Rồi như có phép màu. Một vùng xanh tươi hiện ra giữa sa mạc hoang vắng, sư uống nước suối và thoát chết. Sư kể trong hồi ký: “Không thấy con chim nào trên trời, không thấy con thú nào dưới đất. Không có cây cỏ nào mọc, không có dấu vết của con người. Không có nước và thức ăn. Tôi thấy hàng đống xương và vũ khí. Chập chờn bóng ma quái”. Có lúc bị bọn mọi bắt và sẵn sàng ăn thịt nhà sư. Rốt cuộc sư đã cảm hóa được chúng. Hai năm qua 110 nước để đến Ấn Độ, Sư theo Con đường Tơ lụa phía Bắc. Đến đất Phật, sư lưu học năm năm tại Na-Lan Đà-tu viện Phật giáo lớn nhất thời đó, dưới sự dìu dắt của pháp sư Giới Hiền, người có trên mười ngàn tín đồ học đạo.
Về sau, vượt trội trong cuộc tranh luận Phật học lớn nhất thời bấy giờ, sư Huyền Trang trở nên lừng lẫy, được lòng tin yêu của các sư Ấn Độ và các tín đồ. Đặc biệt Sư được sự khâm phục và quý mến của vua Harsha, tín đồ Phật giáo cuối cùng uy quyền nhất. Vua nài nỉ Sư lưu lại nhưng Huyền Trang cương quyết trở về. Năm 643, Sư lên đường về quê nhà.
Năm 644 khi qua sông Indus thì năm mươi bản kinh bị rơi và trôi mất tăm. Sư cùng đoàn phải dừng lại cho người đi thỉnh lại các kinh đã mất. Chuyến thỉnh kinh cả lượt đi lượt về của Huyền Trang mất 17 năm. Năm 645 về đến Trường An, đoạn đường ông qua tính ra khoảng 25.000 cây số. Ông mang về nhiều tượng Phật, 150 xá lợi và 657 bộ kinh bằng tiếng Phạn. Ngày về Trường An thật vinh quang.
Từ đó vua Đường Thái Tôn rất kính trọng sư Huyền Trang, thường cầm tay hỏi han mọi sự, giao ông tường trình chuyến đi kỳ thú và vĩ đại. Đại Đường Tây Vực ký có được là do sư soạn theo lệnh vua. Vua ban cho ông danh hiệu Tam Tạng (tiếng Phạn là Tripitaka) vì là người tinh thông kinh sách cả Ba Tạng, gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng.
Suy nghĩ miên man về con người thám hiểm vĩ đại, người cầu đạo kiên trì, nhà hành hương đĩnh ngộ học hỏi không mệt mỏi, tôi chợt nghĩ nếu tới Tây phương mà không đem kinh về được Đông độ thì sao? Và nếu kinh còn nguyên gốc tiếng Phạn thì sao? Đường Tam Tạng đã miệt mài dịch Kinh.
Nhà sư đứng trước mặt tôi đã làm nên sự nghiệp vô tiền khoáng hậu tại ngôi tháp Đại Nhạn sừng sững uy nghi vút lên trên trời xanh, mây trắng bay bay đàng xa kia, trong vòng thành của đền Từ Ân. Vòng thành của đền nhìn đến mút mắt. Đền được Thái tử Lý Trị (sau lên ngôi là Đường Cao Tôn) xây để tưởng niệm mẫu hậu. Khuôn viên của đền rộng khoảng 30.000m2.
Có một ngôi chùa lớn ở trung tâm đền, khói nhang nghi ngút, đông nghẹt người kính tín. Tôi nhắm hướng ngôi tháp cao đàng xa mà đi tới. Tháp cao quá, đứng gần ngước nhìn mỏi cổ. Tháp bảy tầng, bằng gạch. Được biết hiện nay tháp cao sáu mươi bốn thước. Tôi lại lặng người chiêm bái. Sư Huyền Trang thỉnh kinh về, tấu xin vua cho xây tháp theo kiểu Ấn để cất giữ kinh Phật. Vua Đường Thái Tôn rất vui chuẩn tấu.
Tháp được xây có năm tầng trong khuôn viên đền Từ Ân. Năm mươi năm sau tháp bị sụp. Nữ hoàng Võ Tắc Thiên cho tu sửa lên thành mười tầng. Trận động đất năm 1557 làm tháp bị lún ba tầng, còn lại bảy tầng và có chiều cao như hiện nay, rồi được trùng tu vào đời nhà Minh và mới đây vào năm 1964. Tôi hơi ngạc nhiên về thiêän ý tu sửa tháp Đại Nhạn của Võ Hậu, người vốn sùng bái Đạo Lão có tài trị nước nhưng cũng đầy nhẫn tâm. Qua bao nhiêu năm tháng mà tháp Đại Nhạn vẫn còn đó, uy nghi thanh thoát. Các tiền bối kiến trúc cổ xưa thật đáng khâm phục.
Tại sao lại có tên là Tháp Đại Nhạn? Tên thật đẹp thật hay. Sư Huyền Trang giống như con chim nhạn lớn bay đi thật xa, rồi lại quay về (có người gọi là tháp Đại Ưng, còn tên tiếng Anh là Wild Big Goose Pagoda). Gần một ngàn năm trăm năm trước, bậc Đại Tăng của Đại Đường đã dịch kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Hán tại tháp Đại Nhạn này. Nhìn tháp in trên nền trời xanh, mây trắng bay bay, nhớ câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay (Tản Đà dịch). Các bản dịch của Đường Tam Tạng đã đem lời dạy của đức Phật đến khắp cõi Á Đông.
Còn thú vị nữa là, sau khi sư Huyền Trang rời đất Phật thì chẳng lâu, Ấn giáo mạnh lên, làm lu mờ đạo Phật, rồi các vua Hồi giáo đến hủy hoại cả Ấn giáo và Phật giáo. Nhờ kinh gốc và bản dịch của Đường Tam Tạng mà lời dạy của Phật còn nguyên. Sư Huyền Trang là người dịch kinh Phật từ tiếng Phạn ra Hán tự số một trong bốn vị uy tín nhất thuở ấy. Các bản dịch của ông đồ sộ nhất, chuẩn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất.
Sức làm việc của sư thật kinh khủng, miệt mài dịch bảy mươi lăm bộ kinh, một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển. Sư là một học giả vĩ đại, từ nhỏ thông Nho học, trước khi sang Tây phương, sư đã bỏ công học nhiều ngoại ngữ và nắm vững tiếng Phạn. Ở đất Phật, sư lại tinh luyện tiếng Phạn đến mức thắng lợi trong các cuộc tranh luận và được các học giả và tín đồ ở đó tâm phục khẩu phục.
Thăm bảo tàng Rừng Bia vốn xưa kia là miếu thờ Khổng Tử ở ngay cửa Nam thành cổ Tây An, tôi quá bất ngờ và thú vị. Bên các tấm bia đá cổ xưa khắc các kinh sách Nho giáo cổ điển như Hiếu Kinh, Tứ Thư, Ngũ Kinh từ đời Đường, tôi cảm khái tấm bia khắc bài Giới thiệu các lời dạy thiêng liêng của sư Tam Tạng, nước Đại Đường do vua Đường Minh Hoàng đích thân soạn.
Người hướng dẫn chỉ bức tượng đá hoa cương trắng tạc Lão Tử và hỏi tôi có biết là Đường Tam Tạng cũng là người dịch bản Đạo Đức Kinh sang tiếng Ấn Độ để giới thiệu văn hóa Trung Hoa. Thật sòng phẳng, có đi có lại.
Taxi đưa tôi từ Tháp Đại Nhạn trở về đến cửa Nam thành cổ Tây An. Tôi chợt nghĩ đến điều thú vị, tháp nằm bên ngoài thành cổ Tây an, mà xưa kia tháp Đại Nhạn và đền Từ Ân nằm bên trong thành Trường An, thì ra đế đô của nhà Đường được xây trên vị trí hiện nay của Tây An, nhưng rất rộng lớn, ước tính chu vi là 35km, rồi khi nữ hoàng Võ Tắc Thiên cho dời đô về Lạc Dương thì cho phá hủy Trường An. Tại sao bà chừa lại và trùng tu Tháp Đại Nhạn? Vua Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cho xây thành Tây An vững chắc, còn y nguyên cho đến ngày nay, nhưng nhỏ hơn nhiều, chu vi chỉ có 12km.
Tôi được thăm đất Trường An, Tây An xưa và nay. Quá khứ Trung Quốc chồng chất tại đây: đế đô Phong, Hạo của nhà Chu, Kinh đô Hàm Dương của vua Tần, đế đô Trường An của Hán Cao Tổ nằm hai bên bờ sông Vị Thủy. Tôi được thăm bảo tàng Bình Mã Dũng trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng, được cùng nhà thơ Bạch Cư Dị ngậm ngùi cho mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi tại Thanh Hoa Trì nơi mỹ nhân thường tắm gội.
Và tháp Đại Nhạn với tượng Đường Tam Tạng lại đậm nét nhất trong tôi.
( NGUYỄN CHẤN HÙNG )