Kỳ Lạ Giếng Tiên Ở Bảy Núi_An Giang
http://nd2.upanh.com/b6.s15.d2/2a6df...6195692.13.jpg
Vùng Bảy Núi ở An Giang có hàng chục “giếng tiên”. Điều kỳ lạ là các giếng này đều nằm trên những đỉnh núi cao chót vót, ăn sâu vào lòng đá nhưng quanh năm luôn đầy ắp nước.
< Toàn cảnh Bảy Núi.
Cũng nước lớn, nước ròng
Ông Võ Văn Oanh ở ấp Tha Lót, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang trồng một rẫy rau xanh lớn trên vồ Đá Bạc, núi Dài Lớn, huyện Tri Tôn. “Nhờ giếng tiên trên vồ mà cư dân núi ở Chót Ông Còn mới sống nổi. Ăn uống, tắm giặt, tưới cây... đều từ nước giếng đó”, ông Oanh cho biết.
Ông Nguyễn Văn Đa, ở xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, khoe, ông vừa mua được 30 công đất (3 ha) rừng trên vồ Đá Bạc để trồng rau xanh và một vườn xoài. “Nghĩ cũng lạ thật, nước ở đâu không biết, nhưng hễ múc cạn thì một lúc sau lại tự dâng đầy trở lại.
Lâu ngày để ý, tôi thấy mực nước trong giếng thay đổi lên xuống theo hai thời điểm sáng - chiều trong ngày. Người dân làm rẫy xem đây là cách báo hiệu thời gian để xuống núi”, ông Đa giải thích. Từ đó, ông theo dõi và nhận thấy “giếng tiên” ở vồ Đá Bạc cũng có nước lớn, nước ròng xoay theo con trăng hằng tháng.
Giếng không cạn
Núi Ba Thê ở thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang là một trong những nơi có nhiều “giếng tiên” nhất xứ Thất Sơn. Hàng chục năm trước, đây còn là vùng hoang sơ, quanh chân núi đã có nhiều nhà dân sinh sống. Trong một lần lên núi, ông Mai Đức phát hiện trên sườn phía Đông có một giếng đầy ắp nước, mát lạnh và trong vắt.
Mỗi đêm trăng sáng, dưới đáy giếng này lung linh những hạt cát vàng óng ánh nên người dân địa phương đặt tên là giếng Vàng. Trên đỉnh núi Ba Thê, cạnh một phiến đá cheo leo bên phải chùa Chân Tiên cũng có một giếng hình tam giác, quanh năm không bao giờ cạn. Không ai biết giếng này bắt nguồn từ đâu nên người ta gọi theo tên của chùa Chân Tiên.
http://nd4.upanh.com/b5.s2.d4/c54f29...6gieng2nd2.jpg
Không ai thống kê được vùng Bảy Núi có bao nhiêu “giếng tiên” nhưng hầu như trên mỗi ngọn núi đều có một vài cái mà người dân vô tình phát hiện được. Đỉnh núi Két ở thị trấn Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên (An Giang) cũng có một “giếng tiên” trên phiến đá cao nhất. “Thấy giếng nằm trên một phiến đá cheo leo mà lại có nước ngọt và nhiều người tới viếng, tôi đã làm hàng rào bảo vệ an toàn cho khách”, ông Nguyễn Văn Sơn, sống trên đỉnh núi Két, nói. Cũng theo ông Két, giếng này chỉ rộng khoảng 0,5 m, ăn sâu vào lòng đá. Càng ăn sâu, lòng giếng càng nhỏ lại nhưng không biết nước từ đâu cứ dâng lên khi vừa vơi bớt.
Những người thường xuyên đến thăm vùng Thất Sơn không ai có thể bỏ qua núi Dài Năm Giếng (còn gọi là Ngũ Hồ Sơn) ở thị trấn Nhà Bàn, đối diện núi Két. Trên 5 đỉnh của núi này, ở độ cao hàng trăm mét có 5 giếng nước. Còn ở núi Cấm tại xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, khó có thể đếm hết số “giếng tiên”. Trong đó, dồi dào nước nhất, được người dân nhắc đến nhiều nhất là giếng ở vồ Đá Vàng - mạch nước lớn nhất vùng. Từ trong lòng đá, nước cứ dâng đầy. Thấy nguồn nước xanh mát, quanh năm không bao giờ cạn, những người sống trên núi đã xây dựng vách ngăn như một bể chứa để không chảy tràn lãng phí.
Nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân
Không chỉ cung cấp nước sinh hoạt cho hàng nghìn hộ dân trên các ngọn núi cao, những “giếng tiên” này còn là nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng và là nơi giải khát của thú rừng. Anh Trần Văn Thảo ở ấp Vồ Bà, xã An Hảo, trồng hơn 5 ha quýt hồng trên núi Cấm. Nhờ nguồn nước ở giếng Đá Vàng mà vườn nhà anh luôn xanh tốt. Lúc gia đình anh mới đem giống quýt hồng về trồng trên núi, điều trăn trở nhất là nguồn nước tưới, giờ thì anh hoàn toàn yên tâm về vấn đề này.
Trong một lần đi bẫy thú rừng trên vồ Đá Vàng, anh Thảo lội theo dấu chân lợn rừng, tìm đến một mạch nước lớn ở đây. Mệt lả người, anh đưa tay hớt một bụm nước uống cho đỡ khát thì thấy nước ngọt lịm. Anh về bàn với cha tìm cách đưa nước về tưới cây trồng ở vườn nhà. Cha con anh Thảo vận động một số hộ dân trên núi đem vật liệu lên xây vách ngăn như một miệng giếng để trữ nước. Bà Hai Mính, trồng 2 ha bưởi da xanh phía trên vườn quýt của anh Thảo, cũng học cách dẫn nước từ giếng Đá Vàng về tưới xanh vườn bưởi.
(Theo báo An Giang)
Chùa Vô Vi Trên Núi Vô Vi..
http://nd3.upanh.com/b1.s8.d4/9045dd...753.tutram.jpg
Dãy núi Tử Trầm nằm cách trung tâm Hà Nội hơn 20km. Núi thuộc xã Phụng Châu - huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
< Một góc núi Tử Trầm nhìn từ chùa Vô Vi.
Chân núi có một ngôi chùa nổi tiếng - chùa Trầm. Nhưng nằm trong quần thể núi đồi, di tích nơi đây còn có một ngôi chùa độc đáo khác có cái tên nghe rất lạ: Vô Vi.
Chùa nằm cách Hà Nội không xa, cứ thẳng đường 6 đi, qua khỏi Hà Đông chừng 7km, bên trái là thị trấn Chúc Sơn, chếch bên phải là có thể nhìn thấy núi Ninh Sơn - tục gọi là núi con phượng. Có 2 đường để bạn có thể tìm đến chùa một cách dễ dàng:
Một là đi xuyên làng Ninh Sơn, hai là có thể lượn xe vòng phía sau núi..
http://nd9.upanh.com/b4.s17.d1/f7cc2...7e1d8c5aao.jpg
< Những bậc thang đá lên chùa.
Đỉnh Vô Vi là một núi đá nhỏ, tách khỏi dãy Tử Trầm - còn gọi là núi con rồng mà Vô Vi được ví như viên ngọc, nằm chênh vênh giữa trời đất.
Men theo chân núi nhấp nhô đá, từ chùa Trầm sang núi Vô Vi chỉ vài trăm bước. Tương truyền, vào thế kỷ thứ X, một trong những thủ lĩnh của 12 sứ quân đến đây mai danh ẩn tích rồi dựng lên ngôi chùa.
http://nd2.upanh.com/b6.s10.d4/035f7...3100112596.jpg
< Cổng chùa Vô Vi.
Thời Tiền Lê, chùa xây dựng ở chân núi có tên gọi là Phúc Trù tự. Thời Trần chùa được xây dựng ở lưng núi gọi là Trai Tinh tự. Thời Hậu Lê, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) chùa dời lên gần đỉnh núi như ngày nay, đổi lại tên như thời Đinh là Vô Vi tự.
http://nd8.upanh.com/b5.s5.d1/28aa33...18.img1661.jpg
Vì nằm trên đỉnh núi nên chùa không rộng, chỉ chừng hơn 10m2, tượng Phật cũng không có nhiều nhưng kiến trúc chùa còn gần như nguyên vẹn. Trên vách núi còn treo một quả chuông đúc năm 1814.
Bước qua hơn 100 bậc thang đá quanh co là lầu Nghênh Phong (đón gió) trên đỉnh núi. Đứng trên lầu Nghênh Phong, phóng tầm mắt là có thể ngắm dòng sông uốn khúc, ruộng đồng phì nhiêu, khung cảnh thanh bình, bao nhiêu mệt mỏi, bụi bặm bon chen nơi phố xá náo nhiệt, bỗng chốc tan biến…Theo đạo Phật, từ vô vi nghĩa là không phụ thuộc.
http://nd2.upanh.com/b5.s11.d1/ef840...3101104858.jpg
Không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra. Trong Phật giáo nguyên thủy, thì chỉ có Niết bàn được xếp vào hạng vô vi. Tất cả các pháp còn lại là hữu vi.
< Chuông chùa treo trên chòm đá...
Sự tĩnh lặng của ngôi chùa cùng khung cảnh yên tĩnh sẽ khiến những muộn phiền hàng ngày trong bạn biến mất. Trước mắt bạn là ánh nắng mặt trời lấp lánh phản chiếu trên dòng sông, những cây hoa đại nở từng bông trắng rụng trước sân chùa... Cảm giác ấy khiến ai đã đến một lần còn mãi nhớ…
(Theo ANTĐ)
Rú Gám_Điểm Nhấn Du Lịch Yên Thành,Nghệ An..
http://nd3.upanh.com/b5.s10.d4/757a3...43.donggam.jpg
Bắt nguồn từ chân dãy Trường Sơn đổ về phía đồng bằng, rú Gám - một danh sơn nổi tiếng từ xa xưa và trở thành biểu tượng của quê hương Yên Thành: "Ngái ngôi chi cũng mơ về rú Gám/Bến bờ nào cũng dội sóng sông Dinh, Sông Dinh một thuở đôi bờ nhớ/Rú Gám ba tầng mấy dặm thương"...
Thời Bắc thuộc, các quan cai trị Châu Diễn đã chọn Quỳ Lăng làm lỵ sở, nơi có địa thế hiểm yếu, tiện cho việc phòng thủ, tựa lưng vào núi, mặt ngoảnh ra cánh đồng. Thời nhà Đường, năm Trinh Quán thứ 1 (năm 627), vùng đất này đã là trung tâm của Châu Diễn. Và Cao Vương (Cao Biền-vị quan cai trị, nhà phong thuỷ tài ba, người đã chọn địa điểm xây thành Đại La thời Bắc thuộc) trong những lần tuần thú miền đất biên viễn phía nam Diễn Châu đã trèo lên đỉnh rú Gám và để lại dấu vết ở đây (trên đỉnh rú Gám có hồ nước trong suốt, rất sâu, tục truyền là nơi Cao Biền yểm huyệt).
Đến thời Tiền Lê, khi vùng đất này được khai phá, cư dân quần tụ đông đúc, Lê Long Ngân, con thứ 8 của vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất phía Tây Rú Gám để thành lập lỵ sở Đông Thành. Như vậy, cách ngày nay khoảng 1.000 năm, vùng đất này đã được chọn để xây dựng đế đô..
http://nd7.upanh.com/b4.s5.d1/7a2b48...9120919613.jpg
Trên Rú Gám, bên cạnh đền thờ Bạch Thạch đại vương thần (thần đá trắng), còn có miếu thờ Lý Thiên Cương. Lý Thiên Cương là con của Lý Thái Bảo, một vị nhân thần có công chiêu dân lập ấp khai khẩn vùng Kẻ Gám, về sau lên núi tu tiên, dân lập đền thờ. Rú Gám còn có tên Thứu Lĩnh. Thứu là con chim Thứu, còn gọi là chim Phượng vì núi có hình chim Phượng. Lại có tên là Long Sơn, núi Rồng, vì trên rú Gám có dãy núi đá ẩn hiện lưng chừng núi như là thân Rồng.
Từ thượng tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 âm lịch hàng năm, nhìn về Rú Gám ta thường thấy một dải mây chạy ngang hông núi rất đẹp. Dựa vào hiện tượng thiên nhiên này, người dân các vùng lân cận đã rút ra kinh nghiệm: Mây Rú Gám không dám đi cày/ Mù rú Gám không giám ra khơi... Sách "Đông Thành phong thổ ký" của nhà sử học Ngô Trí Hợp viết vào thời Tự Đức (1848-1883) xem mây mùa xuân trên đỉnh Rú Gám là một trong 8 danh thắng của huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu cũ.
Rú Gám hiện có gần 150 ha thuộc rừng nguyên sinh đang được bảo tồn ở xã Xuân Thành (Yên Thành), có thảm thực vật đa dạng chung sống phân tầng rõ nét. Họ dương xỉ phủ kín mặt đất, nhóm cây leo như mây, song, vầu.... loài cây thân gỗ quý hiếm như: lim, trắc, gụ, dẻ... động vật cũng khá phong phú: sóc, chồn, cáo, gà rừng, vẹt núi, chim sáo..
Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với sông Dinh chạy quanh co bên những ngọn đồi, chùa Gám (làng Kẻ Gám) hiện ra với kiến trúc cổ kính, điêu khắc Chùa Gám hết sức tinh xảo. Các mảng điêu khắc hình cây cỏ, hoa lá, linh vật, những bức tượng phật... được kết nối lại làm cho con người gần gũi, hoà quyện vào thiên nhiên.
http://nd1.upanh.com/b2.s11.d4/a16af...9032247415.jpg
Theo truyền thuyết của làng Kẻ Gám nói rằng Rú Gám từ xa xưa gọi là núi Phượng Sơn , vì đứng từ xa trông giống như con chim phượng đang tư thế vỗ cánh, ở trên đỉnh núi có gò đất giống đầu chim Phượng, dân làng gọi là Hòn Nhơn hay Nhôn Sơn.
Tên làng buổi đầu mới thành lập gọilà Chân Cảm. Chân là chân thật, vững chải, trường tồn, Cảm là đông vui, trù phú . Cách nay hơn 1.400 năm có ông Lý Thiên Cương, con cháu nhà tiền Lý: Lý Nam Đế (541-602) về chân núi Phượng Sơn chiêu dân, khai đất lập điền trang, đặt tên trang ấp là Trang Cảm, sau đổi tên là Chân Cảm , vì thuộc quận Cửu Chân.
Nhờ long mạch tốt, có sông suối, thế núi long chầu hổ phục, đồng ruộng bình địa, nhờ thiên địa nhân hòa mà dân làng làm ăn no đủ; vì vậy dân các nơi khác tụ tập về đây làm ăn ngày một đông vui trở thành làng lớn nhất Châu Diễn xưa. Nhưng điều kiện canh tác hồi đó còn lạc hậu, phụ thuộc vào thiên nhiên. Nhiều năm hạn hán lớn nhân dân vào núi Phượng Sơn đào củ hoài sơn ( củ khoai mài), hái quả rừng để ăn. Trong núi có cây thân leo gọi là cây Gắm. Quả hình chùm, hình dạng giống quả nhót chứa nhiều tinh bột ăn thay ngô, khoai, sắn để qua lúc bần hàn. Những năm mưa thuận gió hòa cây gắm cho nhiều quả nhân dân thu hái về phơi khô làm lương thực dự trử như khoai sắn
http://nd5.upanh.com/b1.s5.d4/eca77c...7515.rugam.jpg
Để nhớ ơn làng, ơn núi cho cây có quả cứu người lúc đói kém giáp hạt, người dân trong vùng đã đặt tên núi và tên làng là Gắm. Cũng có ý kiến cho rằng để tránh tên húy cây thiêng nên từ Gắm đổi sang Gám. Ngày nay dân không dùng quả Gắm thay lương thực nữa nhưng đến mùa hoa cây Gắm nở trắng rừng, tỏa hương thơm dịu ngọt như để nhắc nhở thế hệ sau nhớ đến cội nguồn, ông cha xưa một thời lam lũ, vật lộn với thiên nhiên, thú dữ, với thủy hỏa đạo tặc để xây đắp nên kẻ, nên làng phồn thịnh như ngày nay.
Để khai thác một cách hợp lý các giá trị văn hoá, lịch sử, tâm linh và du lịch của quần thể này, UBND huyện Yên Thành đã cho lập quy hoạch chi tiết bảo tồn tôn tạo khu du lịch tâm linh Rú Gám có quy mô khoảng 250 ha. Khu vực lập quy hoạch thuộc xã Xuân Thành (trên tỉnh lộ 538, kết nối từ quốc lộ 7 với quốc lộ 1A), với điểm nhấn trung tâm là chùa Gám, từ đó phát triển không gian du lịch tâm linh, sinh thái với các địa danh khác nằm trong không gian du lịch của Nghệ An và Bắc Trung bộ.
Việc cho lập dự án quy hoạch khu du lịch sinh thái và tâm linh Rú Gám là một quyết định có tính đột phá để tìm ra hướng đi cho phát triển du lịch của huyện Yên Thành. Làm cho Rú Gám sống dậy, lớn lên ngang tầm với vóc dáng của một danh sơn, nơi hội tụ anh linh của một vùng đất; đây cũng sẽ là điểm nhấn và là động lực phát triển du lịch của vùng quê lúa Yên Thành
(Theo báo Nghệ An)
Treo Mình Trên Đỉnh Lìm Mông..
http://nd3.upanh.com/b4.s13.d5/aa408...36199053.1.jpg
Người dân tộc Mông thường xây cất nhà ở những ngọn núi rất cao và nguy hiểm. Nơi ít người có thể biết tới và dám leo lên khám phá.
Từ phía bên lưng của đèo Khau Phạ, con đèo hiểm trở mà ngày nay có rất ít xe cộ qua lại, chúng tôi dừng lại giữa lưng chừng trời để tận hưởng khung cảnh hùng vĩ toàn cảnh thung lũng Tú Lệ phía dưới chân đèo. Khau Phạ hay còn được gọi là Cao Phạ, nghĩa là Sừng Trời
Đứng từ bên đèo, theo tầm mắt thẳng phía trước, thấy một con đường như sợi chỉ mỏng vắt thẳng lên trời. Nơi xa tít tắp ấy có ngôi làng nhỏ mang cái tên Lìm Mông
http://nd7.upanh.com/b5.s13.d5/90283...07.t125931.jpg
Con đường càng khó càng thôi thúc cánh chạy bụi chinh phục cho bằng được. Trời sẩm tối, hai chiếc xe đến được chân đường lên trời, rồ ga phóng tới.
Con dốc dài tưởng chừng như được bôi mỡ trơn tuột. Đất đỏ vá đất sét quyện lại, cứng và trơn trượt. Chiếc xe gầm gừ cố lao lên con dốc cho bằng được.
Đường đã dốc lại còn không phẳng, gập ghềnh những khấc cao thấp khiến xe người ngồi xe tưởng như sắp nẩy ra ngoài. Người dân tộc chạy xe Win lao qua, con xe mang thương hiệu Trung Quốc mà máy khỏe, leo dốc khỏe.
http://nd6.upanh.com/b6.s10.d2/c3523...96.t125930.jpg
Được một hồi thì cánh con gái phải xuống xe đi bộ vì xe không đủ sức cho hai người nữa. Hai đứa con gái leo lũng thững với mấy cô bé của làng Lìm Mông, trên cao này chỉ có duy nhất ngôi làng này nằm ở điểm cao nhất
Theo tập quán, người Thái thường chọn những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước để sinh sống, trong khi người Mông lại chọn những đỉnh núi cao, thoáng mát để làm nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thói quen làm rẫy du canh du cư vẫn còn dù đã được chính phủ hỗ trợ nhiều.
http://nd1.upanh.com/b1.s9.d2/1e1cea...61.t125938.jpg
Người Mông xuất hiện đầu tiên ở Mèo Vạc, phía Hà Giang rồi di cư dần sang núi các tỉnh phía Bắc. Giờ thì số lượng người dân tộc này đã sánh ngang với Mèo Vạc.
Rải rác trên khắp đất Yên Bái, trên những rẻo cao, lưng chừng giữa mây trời, những bản làng vắt vẻo trên cao. Người ta phải leo rất cao mới tới được và những bản nằm tách biệt hẳn với xóm làng phía dưới. Tà Si Láng, Phình Hồ cho đến Chế Cu Nha, La Pán Tẩn rồi Lìm Mông, những cái tên mà khi nghĩ tới đã thấy ở xa lắm.
Chiều buông dần khi chúng tôi đến được với bản. Vài nếp nhà gianh nằm ẩn hiện sau mấy gốc đào, lũ lợn mọi đen trũi ì oạp ăn bữa tối. Trong nếp nhà của anh bạn trưởng bản, ấm áp quanh bếp lửa hồng. Nhà anh cũng như nhiều gia đình khác đều có tục cả nhà cùng sống dưới một nếp nhà. Gia đình anh có tất cả 26 người, là bố mẹ, anh chị em, rồi lập gia đình, con cái đều vui vầy.
Từ Lìm Mông, toàn cảnh thung lũng Tú Lệ hiện mờ ảo trong sương chiều. Ánh trăng bạc khiến khung cảnh thêm huyền ảo. Trong trời đất bao la, thấy con đường nhỏ xuống núi hun hút tấm mắt. Xuống được chân núi, chúng tôi ngồi lại bên cây cầu bắc qua suối, ngắm trăng và hưởng hương thơm của đất và lúa đang vào mùa gieo mạ.
http://nd9.upanh.com/b6.s19.d2/d0ed9...0412212315.jpg
Người Mông giỏi nghề làm ruộng. Những ruộng bậc thang nổi tiếng trên khắp cả nước đều nằm tại xứ Mù Cang Chải. Thung lũng Tú Lệ nổi tiếng với gạo nếp và gà đồi. Ai qua đây cũng ghé lại ăn bát xôi nếp nương và mang dăm ba cân gạo về làm quà.
Đến mùa lúa, người ta sẽ ngẩn ngơ trước một vẻ đẹp không hai của những cánh đồng bậc thang, những thành quả lao động tuyệt vời của bà con dân tộc Mông suốt một năm trời.
(Theo Citilink)
Mùa lúa Chín Trên Rẻo Cao..
http://nd5.upanh.com/b1.s11.d2/f0ad0...75.t662326.jpg
Cứ mỗi độ thu về, các cung đường trên rẻo cao phía bắc lại tấp nập người, xe hơn bình thường. Bởi đó là khi những thung lũng rộng lớn với những thửa ruộng bậc thang kỳ vĩ bỗng rực lên sắc vàng mê mải của lúa chín.
Năm nào cũng vậy, cứ khoảng tháng 9 – 10 dương lịch, khi lúa dần ngả vàng trên những thửa ruộng bậc thang, cũng là lúc dân phượt, dân chơi ảnh... ngược đường lên vùng cao phía bắc, tới những nơi heo hút, tận cùng, như Tú Lệ, Mù Căng Chải, Than Uyên, Sa Pa, Tả Giàng Phình, Ý Tý, Hoàng Su Phì.
http://nd6.upanh.com/b5.s3.d1/85a554...1jpg084305.jpg
Mùa lúa chín cũng là lúc các cán bộ Phòng Nông nghiệp Ý Tý, Mù Căng Chải... bận rộn hơn bình thường. Bởi thỉnh thoảng lại có những cú điện thoại của những người chả hề quen biết dưới xuôi gọi lên, hỏi thăm xem lúa đã chín chưa.
Đây cũng là lúc các diễn đàn du lịch, chụp ảnh... xôn xao với những thông tin về lúa chín, về mùa gặt, chỉ dẫn đường đi, địa điểm ăn nghỉ, tìm bạn đồng hành... theo những cung đường lúa chín
http://nd0.upanh.com/b2.s1.d3/19c482...190.rbtlc6.jpg
Những điểm hội ngộ quen thuộc của dân “săn” lúa chín nối nhau thành một tuyến nối dài các thửa ruộng bậc thang, các cánh đồng, thung lũng lúa nổi tiếng, từ Tú Lệ, Mù Căng Chải (Yên Bái) vòng qua Than Uyên, Sa Pa, ngược lên Tả Giàng Phình, Ý Tý (Lào Cai) hoặc vượt núi sang Quản Bạ, Hoàng Su Phì (Hà Giang)... Hầu như các tỉnh vùng cao phía bắc và tây bắc đều có ruộng bậc thang.
Lúa trồng mỗi năm chỉ một vụ, lại gieo không đều, nên chín cũng không đều. Lúa ở Sa Pa, Quản Bạ thường chín sớm hơn các vùng khác, rồi tới mùa gặt ở Mù Căng Chải kéo dài cả tháng, muộn nhất là mùa lúa ở Hoàng Su Phì. Thế nên có những kẻ mê lúa chín đến mức cứ cuối tuần là lại lang thang trên những con đèo vắt ngang những dãy núi kỳ vĩ. Tuần này ở Sa Pa – Mù Căng Chải, tuần sau lại Sa Pa – Ý Tý, rồi tuần sau nữa là Hoàng Su Phì..., chỉ để được chiêm ngưỡng bằng hết những thảm lúa vàng trải khắp các triền núi cao ngút ngàn
http://nd7.upanh.com/b5.s1.d3/939678...257.rbtlc8.jpg
Tôi cũng vậy, mỗi mùa lúa chín, tôi tốn thêm không ít tiền điện thoại, hỏi han khắp nơi, chỉ để rình cho được lúc lúa chín đẹp nhất. Gần như năm nào cũng đi, cùng một cung đường, cùng một nơi dừng chân, thậm chí cùng một góc chụp ảnh, vậy mà vẫn không thấy chán. Cứ mỗi lần đang băng băng đổ đèo, thoáng thấy hương lúa mới vấn vít trong gió, lại thấy náo nức, rộn ràng, lại hối hả giục nhau chạy xe thật nhanh. Rồi khi con đường đèo đang hun hút giữa hai dãy núi cao sừng sững bỗng rộng mở thênh thang, trải dài một biển lúa vàng dập dờn như cánh sóng, lại thấy vỡ òa sung sướng, tựa như lần đầu tiên được chiêm ngưỡng khung cảnh kỳ vĩ này
http://nd9.upanh.com/b2.s16.d2/78e62...45vungcao2.jpg
Lần nào chúng tôi cũng mê mải ngắm nhìn và tự hỏi nhau, sao trong cùng một thung lũng mà sườn núi bên này lúa vẫn còn xanh, sườn núi bên kia lúa đã chín vàng óng ả. Có những lúc mơ màng nghĩ đến cảnh mình được đứng giữa đồng lúa trải dài như tấm thảm mịn màng giữa thung lũng bao la. Có những lúc cả nhóm bỏ xe lại ven đường, trèo xuống thửa ruộng gần nhất, để cùng gặt lúa, đập lúa trong tiếng nói cười ríu rít hoà cùng niềm vui được mùa của các chàng trai, cô gái người Thái, người Mông
http://nd6.upanh.com/b3.s17.d2/f062f...1326.rbtlc.jpg
Khi những cung đường đã trở nên quen thuộc, những người tò mò và liều lĩnh nhất lại mở ra những cung đường mới, ở sâu khuất sau những dãy núi cao ngất tận mây trời, tìm đến những cánh đồng, những bậc thang lúa cách trở, hẻo lánh hơn, nhưng cũng đẹp hơn, hoang sơ hơn. Những cái tên xa lạ như Lìm Mông, Chế Tạo (Yên Bái), Mường Chiến (Sơn La), Dền Thàng, Ngải Thầu (Bát Xát, Lào Cai)... là những cung đường thử thách tay lái và là niềm mơ ước của những kẻ mê đắm cảnh mùa vàng miền sơn cước.
http://nd6.upanh.com/b4.s8.d4/fb48cc...66.t662324.jpg
Đã bao lần, tôi cùng những người bạn đồng hành dừng chân trên đèo Khau Phạ, vừa nhâm nhi ly càphê thơm mùi... lúa chín mà cả lũ vừa hì hục nổi lửa tự pha giữa đỉnh đèo, vừa mơ màng nhìn xuống thung lũng vàng óng ả giữa bốn bề núi cao sừng sững. Cũng đã bao lần về nhà xem lại những bức ảnh giống hệt nhau, tôi tự bảo mình: Thôi, không đi nữa. Nhưng rồi, mỗi mùa lúa chín, tôi lại muốn được ngắm nhìn mê mải theo những bậc thang vàng bắc lên tận trời xanh, lại được uống ly càphê quyện hương lúa giữa đỉnh đèo lồng lộng gió và nắng. Thế nên năm nay, tôi lại đi, lại lên rẻo cao Tây Bắc mùa lúa chín
(Theo báo lao động)
Những Kiểu Cầu Hôn Độc Đáo Trên Vùng Cao Tây Bắc..
http://nd6.upanh.com/b2.s10.d4/7331a...816.cauhon.jpg
Việt Nam có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với bản sắc văn hóa vùng cao ít nơi nào có được, vì thế luôn hấp dẫn khách du lịch xa gần. Mùa cưới, xin kể với bạn đọc vài nét về những kiểu cầu hôn có một không hai của thanh niên dân tộc ít người ở nơi này.
Có con rồi mới… cưới vợ
Người dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc ít người ở nước ta. Nơi họ sinh sống là vùng đất biên giới Lai Châu và Lào Cai. Trai gái dân tộc này có phong tục trùm kín chăn khi hát giao duyên tình tự với nhau mỗi khi trong bản có lễ hội. Có lẽ do miền đất họ sống gần như quanh năm giá lạnh, có nhiều mùa đông tuyết phủ trắng núi rừng, nếu không có chăn ấm làm sao mà họ ngồi lâu tâm tình với nhau được?
http://nd1.upanh.com/b3.s18.d2/b78e1...1690932627.jpg
< Lễ Hội Cô Gái Hà Nhì: các cô đầu đội chiếc mũ màu trắng, mặc quần soóc ngắn, lưng thắt trang súc bạc, dùng tiếng hát, điệu múa tìm bạn tình trong núi rừng.
Nhưng có một lý do nữa, đó là phong tục người Hà Nhì không cho người khác nhìn thấy con trai giao duyên với con gái. Trùm chung chăn kín nhưng họ vẫn giữ được ranh giới nhất định, bởi vì luật tục của người Hà Nhì rất khắt khe với những cô gái chưa chồng.
Thanh niên Hà Nhì được tự do kết hôn, nếu bạn gái yêu mình thì chàng trai dẫn về nhà thưa chuyện với cha mẹ xin cưới làm vợ. Cả nhà đồng ý thì làm lễ trước bàn thờ “kính cáo” với tổ tiên gia đình mình có cô con dâu mới. Nhà chú rể làm cỗ mời cả họ hàng và dân bản tới cùng vui. Nếu có điều kiện thì nhà trai mang sang cho nhà cô dâu: một số tiền mặt (trước đây là mấy đồng bạc trắng, nhiều năm gần đây là tiền mặt), một con lợn khoảng 50 cân, 50 lít rượu trắng, đôi gà sống, cùng xôi nếp và trứng chia đều làm hai gói… Ðây là lần cưới đầu tiên của trai bản Hà Nhì đối với vợ mình. Người vợ từ đó trở đi phải mang họ nhà chồng
http://nd9.upanh.com/b3.s9.d4/f69f7b...51929.abc1.jpg
Khi có con hoặc kinh tế gia đình khá giả thì người chồng phải tổ chức đám cưới lần thứ hai… với chính vợ mình. Có phải do tìm hiểu kỹ trước khi kết hôn hay vì phong tục hôn nhân của người Hà Nhì chặt chẽ, mà vợ chồng các gia đình của dân tộc này rất ít khi ly hôn?
Sau hai lần ăn hỏi…mới được kết hôn
Ðó là phong tục đối với người con trai dân tộc Dao Ðỏ. Sau khi để ý từ phiên chợ hay lễ hội của bản làng, nếu thích cô nào thì chàng trai về nói với bố mẹ đi tới nhà gái hỏi tuổi người mình yêu. Nếu hợp tuổi nhau thì gia đình chàng trai trao cho nhà cô gái đồng bạc trắng. Nhà gái dù muốn gả hay không, thì lần xin hỏi đầu họ cũng đều từ chối nhận đồng bạc trắng ấy.
http://nd4.upanh.com/b6.s20.d1/ce1dc...atdancamun.jpg
Một thời gian sau, nhà trai lại tới xin ăn hỏi lần hai, nếu ba ngày sau đó mà không thấy nhà gái đem trả đồng bạc trắng, thì nhà trai biết chắc họ đã đồng ý gả con cho nhà mình. Gia đình chàng trai chọn ngày lành tháng tốt để mang lễ vật tới nhà cô gái bàn ngày cưới.
Sau lễ ăn hỏi chính thức, cô dâu tương lai được gia đình tạo điều kiện để có nhiều thời gian nhàn rỗi trong một năm để dệt may, thêu thùa hai bộ quần áo cưới từ số vải và chỉ thêu do nhà trai đưa tới hôm lễ ăn hỏi chính thức.
Nổi bật nhất trong đám cưới của người Dao Ðỏ là trang phục của cô dâu với chiếc khăn đỏ lớn trùm đầu lên chiếc mũ đỏ mầu cờ, đính nhiều nụ hoa tết từ len đỏ, cài xen những lắc nhạc đồng xinh xinh. Mũ áo của cô dâu người Dao Ðỏ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo về sắc mầu và sự tinh sảo trong từng đường thêu hoa văn thổ cẩm truyền thống.
http://nd6.upanh.com/b5.s10.d2/6c0b1...169a74fe95.jpg
< Duyên dáng Hà Nhì.
Ðã có khá nhiều tác phẩm văn học – nghệ thuật mô tả vẻ đẹp hiếm có của trang phục phụ nữ Dao Ðỏ. Ðặc biệt là phong tục mời cưới của họ thay thiếp mời hồng bằng giấy là hai đồng tiền xu bằng kẽm cổ truyền, đó là biểu tượng gắn bó cả đời giữa cô dâu và chú rể. Người được mời dự cưới phải trả lại hai đồng tiền xu trên khi đi dự cưới và mừng cô dâu chú rể đồng tiền giấy (giống nhau về giá trị và giống nhau cả về hình thức, đựng trong phong bì kín), thí dụ mừng hai tờ 20 nghìn đồng hoặc hai tờ 50 nghìn đồng…
Cùng họ… không được phép lấy nhau
Người dân tộc Mông ở Tây Bắc, dù là dân tộc Mông hoa (Mông Lênhx), Mông trắng (Môngz đơưz), Mông đen (Mông đuz), dù mang họ gì (thí dụ họ Giàng, họ Tráng, họ Thào, họ Cư, họ Má, họ Lừu…) trai gái yêu nhau mà phát hiện ra cùng có họ giống nhau, dù họ xa bao nhiêu đời đi nữa, cũng không được phép lấy nhau.
Xưa kia người Mông có tục cướp vợ, có lẽ vì thế không ít cô gái đã bị bắt ép làm vợ, còn ngày nay trai gái của dân tộc này được phép tự do kết hôn, còn có bắt thì giả vờ bắt cho vui mà thôi
http://nd2.upanh.com/b2.s13.d5/361c9...gucuatraig.jpg
< Trò chơi Pa lu gư (nhảy dây) của trai gái Hà Nhì.
Theo phong tục truyền thống của người Mông, đã là cùng mang tên họ giống nhau thì đều coi là có chung tổ tiên, coi nhau như họ hàng và có thể sinh con hoặc chết ở nhà người cùng họ.
Chú rể người Mông ở huyện Bát Xát còn thực hiện một phong tục đặc biệt sáng ngày mồng một Tết Nguyên đán. Ðó là phải tự nguyện làm tất cả mọi việc cho gia đình, từ nấu cỗ cho đến rửa bát, chăn gà lợn… Sau đó khách quý đến chơi nhà, người vợ chủ động làm cơm mời khách, chồng và khách uống rượu càng say thì người vợ càng vui. Các bà vợ rất vui vì họ được coi là người hiếu khách và rất yêu quý chồng. Thế mới có chuyện thật như đùa. Có ông chồng đêm đến lấy váy thổ cẩm mới mua của vợ đắp cho bạn ngủ sau tiệc rượu khuya, mà người vợ vẫn không phàn nàn gì
(theo BND)