Chùa Giám...Nơi Suy Tôn Danh Y Tuệ Tĩnh
http://nd6.upanh.com/b6.s10.d2/5d48b....langchua1.jpg
Du khách dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám. Chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay.
Từ hướng Hải Phòng qua TP Hải Dương, tới Ghẽ thì gặp con đường nhỏ bên phải đi vào… Đường đi rộng 5 mét, hai bên đồng ruộng gió xuân mơn man qua da mặt mát lạnh pha lẫn hương đất, bụi mưa xuân hờ hững trên vai áo, cảm nhận trời đất giao hòa ngày xuân mà lòng xốn xang quen quen lạ lạ. Đi chừng 4 cây số tới chùa Giám
Ngay trước cổng Tam quan chùa có 3 chữ Hán “Quán Tự Tại”. Qua cổng tam quan là hai bên vườn cây xanh, một hồ hình chữ nhật thả hoa sung. Cách một lối đi là hồ non bộ, vườn cảnh mô phỏng thiên nhiên sơn thủy hữu tình.
http://nd8.upanh.com/b4.s16.d2/014be....langchua2.jpg
< Cửu phẩm liên hoa.
Liền đó là sân tiền đường rộng lát gạch vuông màu đỏ, xung quanh là lối đi nối sang hai nhánh. Bên phải là 5 gian nhà khách thoáng mát với những cánh cửa gỗ chạm khắc hình nổi từng ô, rất kỳ công tạo thành những bức tranh ước lệ.
Du khách dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám. Chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay.
Nguyên thủy của chùa Giám là Nghiêm Quang tự do sư Hải Triều trụ trì, vốn nằm trên nền đất trống phía đông huyện Cẩm Giàng. Chùa được xây dựng năm 1336 vào thời Lý, thời đó người ta dựng chùa chủ yếu bằng gỗ, chạm trổ hoa văn cầu kỳ, lợp ngói đỏ. Bởi vậy, khi ngôi chùa hình thành đã trở thành một công trình văn hóa nghệ thuật của Phật giáo thời bấy giờ và rất có giá trị về lịch sử, nghệ thuật với thời nay.
Do thời gian và ảnh hưởng của bom đạn chiến tranh nên ngôi chùa cổ đã bị xuống cấp nhiều. Tháng 4 năm 1970, chùa Giám chuyển về xã Cẩm Sơn hiện nay, cách mặt bằng cũ gần 7 cây số, được dựng lại nguyên kiến trúc cũ. Do các tượng và các vật liệu có giá trị văn hóa cần phải được bảo tồn nguyên dạng nên việc di chuyển tượng hoàn toàn bằng phương tiện thô sơ, rất công phu trong suốt ròng rã 7 tháng trời. Đến năm 1975 chùa Giám ở khu đất mới được hoàn chỉnh.
http://nd4.upanh.com/b2.s4.d4/2f201d....langchua4.jpg
< Bàn thờ thiền sư Tuệ Tĩnh.
Trong chính điện có các tượng Phật Thích Ca và các vị Bồ tát, tượng Phật Đản Sinh, tượng Quan Âm Thị Kính và Thập Điện Diêm Vương. Trong nhà phẩm là tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa bằng gỗ hình lục giác màu cánh sen có 9 tầng, mỗi tầng đều có 18 vị bồ tát bằng đồng ngự và 54 tầng cánh sen nổi, khắc những họa tiết sinh động. Có tất cả 145 pho tượng, duy nhất tượng Phật A Di Đà ngự tầng trên cùng, khách viếng chùa không thể chiêm ngưỡng gần mà chỉ bái vọng mà thôi.
Tòa Cửu phẩm liên hoa nặng 4 tấn, nếu đẩy sẽ xoay vòng tròn, là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo nhất trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Riêng bức tượng đồng A Di Đà được đúc năm 1712 do Thái Phi Trương Thị Ngọc Chứ, Liễu Hạnh công chúa Hòa diệu đại vương Đức Bà đóng góp công đức. Năm 1717, chùa đúc tượng đồng Quan Âm thánh vị 24 tay và năm 1775 xây dựng điện Thiên Đế cũng do các cung tần và một số người khác thời ấy đóng góp công đức xây dựng....
Bên ngoài chính điện là 2 dãy hành làng có 11 gian thờ 18 vị La Hán. Hậu đường có 7 gian thờ Thiền Sư Tuệ Tĩnh và thờ sư Tổ
http://nd3.upanh.com/b6.s12.d4/1c8ce....langchua3.jpg
< Khu Tháp cổ.
Quan sát toàn cảnh kiến trúc chùa Giám, ta thấy các kiến trúc sư, các nghệ nhân đã tạo trên mặt bằng của chùa sự liên hoàn của các hạng mục tôn lên vẻ tráng lệ cổ kính, ẩn chứa nhiều tầng trí tuệ văn hóa. Ngôi nhà phẩm rộng 7,90 m2 cao trên 10m, khung nhà bằng gỗ, mái ngói vẩy cá rêu nâu đều đặn, 4 góc mái uốn cong hình đuôi rồng nổi rõ dưới nền trời vừa mềm mại vừa uy nghi. Bên trái là khu tháp Tổ màu xám trắng rêu phong, xung quanh xào xạc cây xanh bên vài cây cau cao thanh cảnh. Từ nhà Tăng đến dãy nhà khách, nhà thọ trai đều được được xây cất với một phong cách rất riêng của kiến trúc Việt Nam. Bụi lá trầu không cuốn quýt cây cau xanh ngả chùm quả như muốn níu bàn tay lá trầu. Cây hồng xiêm nặng cành, các loại hoa thơm quanh vườn toả hương bốn mùa. Bên nhà Nghè, cây đa cổ thụ xoè tán rộng
http://nd1.upanh.com/b4.s8.d4/63b639...1.chuagiam.jpg
Ngày 13/2 âm lịch hàng năm, chùa Giám tổ chức lễ hội rước tượng Tuệ Tĩnh. Ban lễ nghi lần lượt thực hiện từng phần trong lễ rước: Rước hoa và múa lân rồng, biểu diễn thể thao, rước hồng kỳ, đi sau là đội trống, đội siêu đao – chấp kích – bát bửu, rước kiệu thuốc nam, đoàn tế nam, nối bước là đoàn tế nữ, tiếp theo là đoàn cung nghinh kiệu Tuệ Tĩnh, tượng của Ngài được đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên rất long trọng, cuối cùng là đoàn chư tăng, chư ni với Pháp phục và các Phật tử cùng các bô lão và những người con quê hương Hải Dương dù làm ăn ở đâu, học sinh, sinh viên, học ở các tỉnh thành khác, kiều bào các nơi đều nhớ ngày lễ hội về tham dự.
(Theo VOV)
Chùa Keo Thái Bình...Hoa Sen Giữa Biển Lúa
http://nd6.upanh.com/b4.s18.d1/22d3c...6.chuakeo1.jpg
Chùa Thần Quang hay còn gọi là chùa Keo, thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình được xây dựng từ năm 1067 vào thời nhà Lý. Chùa Keo là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, người làng Keo rất tự hào với ngôi chùa vừa cổ kính, vừa nguy nga của làng mình.
Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lĩnh bồi đắp.
Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc bộ. Chùa không chỉ là một bức tranh sinh động cho lịch sử văn hóa nước ta trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20, mà còn là nơi gặp gỡ giữa kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.
http://nd5.upanh.com/b6.s20.d1/9db65...8235.keo13.jpg
Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một trục dài cao thấp khác nhau.
Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê
Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.
Đi đến phần chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Ngôi nhà ở ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng Thích Ca nhập Niết bàn, tượng Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề đặt giữa tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng.
http://nd8.upanh.com/b1.s2.d4/df2b03...98308.keo4.jpg
Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ - Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình đều làm bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo.
Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã từng dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa từ xưa.
http://nd3.upanh.com/b4.s18.d2/bfee6...3.chuakeo2.jpg
Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông chùa Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng mái,kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20 m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30 m, đường kính 1 m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm 1796.
Hai hành lang chạy dài từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.
http://nd2.upanh.com/b4.s10.d1/9b958....472a9aef3.jpg
Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.
http://nd0.upanh.com/b2.s10.d3/61e3f...0.chuakeo1.jpg
Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng. Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 Âm lịch).
Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
Có câu ca dao về hội chùa Keo:
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
(Theo lên đường)
Cây Đại Thụ Ở Đình Quán La...
http://nd9.upanh.com/b3.s4.d3/0d449b...uanlad44ac.jpg
Cây thị đại thụ có đến nghìn tuổi, là một trong bốn cây đại thụ nằm trên mom cao của vùng Thất Tinh có nhiều huyền tích nhất, giờ lá vẫn xanh um tùm cả góc sân đình Quán La, Tây Hồ, Hà Nội.
Bao giờ cũng vậy, cây to luôn được người dân tôn thờ và xưa nay có nhiều suy nghĩ cho rằng, ở gốc cây đại thụ là nơi thiêng hoặc là nơi của những hồn ma thường hay trú ngụ. Chính vì vậy mà mỗi gốc cây to luôn chứa đầy hơi hướng tâm linh ở đó.
Chẳng có kiểm chứng về điều này, song, ở bất cứ gốc đa hay cây cổ thụ xù xì gốc dễ thì luôn có những chân hương đã cháy hoặc những ban thờ nho nhỏ, điều đó đã chứng tỏ từ xưa nay người ta đều có chung một suy nghĩ, hướng tâm tín về những giá trị riêng của cây đại thụ.
http://nd3.upanh.com/b4.s2.d4/4349c5...sucaythi02.jpg
“Cây thị có ma, cây đa có thần”
“Làm gì có ai kiểm chứng được lời nói ấy thực hư ra sao, nhưng tôi đố ai dám động đến cây cổ thụ đấy, không tin anh cứ để ý mà xem, chỗ nào có cây cổ thụ khi làm đường đi người ta còn phải tránh đấy”- Thủ từ Nguyễn Văn Lương triết lý. Thực tế tôi cũng kiểm chứng, và khớp với quan điểm của cụ Lương. Dễ thấy nhất là cây đề đứng giữa phố Trấn Vũ, đường đi cũng phải tránh nó, rồi cây đề đứng xẻ đôi đường phố Thụy Khuê…những cây ấy, nó tồn tại được thế cũng là vì tuổi tác và sự huyền tích về thế giới tâm linh nào đó.
Cây thị nghìn tuổi ở đình Quán La, phường Xuân La nó được người dân trong vùng biết đến như câu chuyện cổ tích. Cây thị thân to, cành tán rộng nằm trên mom cao trước cửa sân đình Quán La. Theo cụ thủ từ Nguyễn Văn Lương thì, cây thị này đặc biệt lắm,mùa xuân thì lộc non xanh biếc, mùa hạ chim về ríu rít, nhưng bặt nỗi nó chỉ ra 1 quả trong mỗi mùa.
Lạ thế! Người dân không biết về sao nó lại thế, có nhiều đồn thổi, thêu dệt liêu trai, còn theo ý kiến chủ quan của thủ từ Nguyễn Văn Lương thì thuộc tính tự nhiên của giống cây cối ra quả là giống cái, còn cây không có quả là cây giống đực.
Người dân trong vùng quen rồi thì thấy ít sự khác lạ, có người thấy nó bình thường như bao cây cối khác. Còn khách vãng lại thì cứ xuýt xoa về câu chuyện cây thị chỉ có 1 quả vào mùa mà thủ từ Nguyễn Văn Lương kể. Nhiều người hiểu biết về văn hóa lịch sử còn bảo, sao không đề xuất nghiên cứu về sự đặc biệt của giống cây này
http://nd2.upanh.com/b1.s3.d1/97aedf...sucaythi01.jpg
Nhiều người nói, nhiều lần các vị giáo sư về lịch sử cũng đánh giá, thế nhưng mãi đến năm 2010 bà con người dân ở Xuân La, mà khởi xướng là ông Nguyễn Văn Ngư, Trưởng BQL di tích đình Quán La mới họp bàn rồi làm đề xuất gửi quận, rồi gửi thành phố đề cử mấy cây đại thụ này vào di sản thiên nhiên.
Điều đặc biệt, đứng ở cổng tam quan đình Quán La người ta hướng mắt về phía trước mặt sẽ thấy được cây thị và cây đa có cành hướng vào như như 2 cánh tay của 2 người với lại nhau. Khoảng trống rỗng trong thân gốc đa có thể chứa được hàng chục người lớn, bóng tỏa mát cả chợ cóc họp bên đường làng. Chị Nguyễn Thị Tuyết bán rau dưới gốc đa cho biết: “Sóc trên cây này gan lắm, chẳng sợ người đâu, có hôm đang bán hàng, nó đuổi nhau rơi cả xuống người, sợ hết vía”…
http://nd8.upanh.com/b5.s13.d5/0fa9b...sucaythi03.jpg
Huyền tích hay sự tích đều là câu chuyện của người tâm tín về giá trị của thiên nhiên, cây cối có bề dày thời gian. Và chính cái thời gian đã làm cho những cây đại thụ trở nên có giá trị đặc biệt về tâm linh, về mặt sinh thái. Theo như quan sát thực tế, cây thị nằm trên mô đất cao hơn cả ở trước cửa đình Quán La. Cây thân gỗ khoảng 3 người lớn vòng tay, có miếu thờ trang trí hoa văn rồng phượng. Được biết, vào ngày tuần rằm, mồng 1 người dân thường đến thắp hương cầu bình an.
Trong sách Tây Hồ chí thì đình Quán La có từ thế kỷ thứ 11. Khi đó, vùng này nước mênh mông, sông Già La uốn lượn quanh ôm 7 quả núi nhô lên cao. Vì thế nơi này còn gọi là vùng Thất Tinh. Và đình Quán La là nơi người dân thờ vị sơn thần Duệ Trang có công giúp dân bớt khổ ải.
Quần thể di tích đình, chùa Quán La đã được nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu đánh giá cao về bề dày lịch sử. Cùng với di tích là hai cây đại thụ hai bên cửa đình, có thời gian đến nghìn năm, như tô thêm giá trị vốn có về cụm di tích phía tây thành phố.
Tại sao cây thị chỉ ra một quả vào mỗi mùa, điều này ngay chính cả người gắn bó với nó qua 70 mùa cũng không thể biết được. Và điều đặc biệt này, đến nay cũng chưa có ai nghiên cứu để lý giải về sự lạ kỳ ấy. Song, điều quan trọng hiện nay không phải cây thị có 1 hay sai trĩu quả và cây đa có hàng nghìn tuổi, mà cái quan trọng là nó đã từng gắn bó với làng xã nơi này từ thuở xa xưa như sự minh chứng về thời gian giữa thiên nhiên trời đất ở phía Tây hồ Tây mang đầy huyền bí, sự tích
( Theo An Ninh TD)
Những Dấu Tích" Tiên Giáng Trần" Núi Am Tiên..
http://nd3.upanh.com/b5.s1.d1/016e0c...030t620227.jpg
Dấu chân đủ 5 ngón hằn sâu 30cm, dài 80cm trên vách đá được người đời cho là dấu chân ông Bành Tổ, gót ngọc tiên nữ cùng dấu chân ngựa được tìm thấy bên bờ suối cùng giếng sâu 2m không bao giờ cạn là những chi tiết khó lý giải ở quanh chùa Chân Tiên.
Lời nguyền trăm năm...
Núi Am Tiên là một trong hệ thống 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh, được tôn xưng là “Am Tiên đệ nhất danh lam” nổi tiếng khung cảnh nên thơ hùng vỹ. Sự ra đời của ngôi chùa Chân Tiên gắn với những câu chuyện mang màu sắc huyền bí về truyền thuyết Tiên giáng trần được dân gian truyền tụng từ xưa.
http://nd8.upanh.com/b5.s3.d2/a4e2b2...030t620239.jpg
Tiên giáng trần trên núi Am Tiên
< Bụi Mai này quanh năm xanh tốt, theo thuyền thuyết thì bụi Mai này do một tiên nữ trồng.
Chúng tôi tìm về núi Am Tiên, nằm trên địa bàn xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), vào một ngày giữa tháng 7, cái nắng mùa hè bỗng dưng tan biến khi đặt chân tới chân núi này. Khung cảnh thơ mộng, hùng vĩ làm nên một bầu không khí mát mẻ, dễ chịu
http://nd5.upanh.com/b1.s4.d3/7ad221...15.luhanh6.jpg
Được bác Nguyễn Dương Bình, 62 tuổi, người có thâm niên 20 năm trông coi ngôi chùa dẫn đường, chúng tôi phải leo hàng trăm bậc đá mới đặt chân lên đến đỉnh Am Tiên, nơi có chùa Chân Tiên ngự trị. Ai đã từng đặt chân đến đây đều không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh đẹp như một chốn thần tiên. Cũng vì thế mà người ta phong cho nơi đây là “Am Tiên đệ nhất danh lam”.
Ông Bình cho biết, rừng thông nằm trên đỉnh Am Tiên là của tự nhiên, không phải do con người trồng mà nên. Tất cả những gì thuộc về núi Am Tiên đều là của thiên nhiên. Người dân Thịnh Lộc tồn thờ ngôi chùa và quý trọng những báu vật mà thiên nhiên ban tặng cho người dân nơi đây. Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, vào ngày 3/3 Âm lịch bà con nhân dân, các vị tăng ni phật tử, du khách và đạo hữu gần xa lại về lễ chùa vãn cảnh, cầu nguyện và trở thành ngày hội truyền thống của nhân dân địa phương, một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống tinh thần của những người con quê hương Thịnh Lộc và trong vùng này
http://nd5.upanh.com/b3.s13.d2/7d9e2...030t620244.jpg Dấu Tích Mang Sắc Huyền Bí
Núi Am Tiên nằm cuối dãy Ngàn Hống (TX. Hồng Lĩnh), sát với biển Đông. Đứng trên đỉnh nhìn xuống xung quanh là rừng thông mọc tự nhiên trùng điệp bốn mùa xanh tươi. Không chỉ là nơi có “tiên giáng trần” mà xung quanh ngọn núi này còn mang nhiều câu chuyện đậm chất li kỳ khác. Theo dân gian truyền lại thì do có phong cảnh hữu tình nên núi Am Tiên là nơi có nhiều thần tiên từng đặt chân chu du chốn này.
Hiện nay, nhiều dấu tích còn để lại mà người dân ở đây cho rằng đó những là gì còn sót lại của các vị tiên đặt chân đến như: Động Trúc, Động Mai, Động Thạch Thất, Động Đá Người… nhiều hang đá xưa có tiếng như: Đá Bắt Chí, đá Giả Gạo, đá Cối Xay, Hang 12 cửa… Nhưng thể hiện rõ nhất để minh chứng cho việc các thần tiên từng đặt chân đến đây đó là: Dấu chân ông Bành Tổ, Vết chân Tiên nữ, Vó ngựa, suối Ngọc hay Bàu Tiên, bàn cờ Tiên, giếng Tiên, thạch kim quy… Mỗi dấu tích này gắn với một câu chuyện rất kì bí, khó giải thích được
http://nd4.upanh.com/b4.s13.d3/df152...030t620241.jpg
< Vết chân hằn trên các phiến đá mà dân gian cho là vết chân Tiên.
Cách chùa Chân Tiên 50m về phía hướng Đông nằm trên một tảng đá hoa cương có hình dấu chân phải mà dân gian cho là dấu chân của người khổng lồ. Tương truyền đây là dấu Chân ông Bành Tổ để lại sau khi xuống trần gian ngoạn cảnh. Bàn chân in xuống tảng đá có đủ 5 ngón, sâu 30cm, dài 80cm, mũi bàn chân hướng về phía nam.
Ông Bình cho biết thêm, truyền thuyết kể lại, xưa kia có một đoàn tiên nữ, sau khi xin phép mẫu Cửu Trùng xuống thăm thú chốn hạ giới đã chọn đỉnh Am Tiên làm nơi dừng chân.
Một số tiên nữ, sau khi vãn cảnh núi sông, hang động… đã rủ nhau xuống bàu Tiên ngay trước mặt đỉnh Am Tiên tắm, rồi lại rủ nhau lên một tảng đá cạnh hồ ngồi đánh cờ. Một số tiên nữ khác vì say mê cảnh hoa thơm cỏ lạ, suối thác hiền hòa nên chẳng chịu rời.
http://nd9.upanh.com/b2.s7.d1/dbc551...030t620248.jpg
< Cụ rùa nằm bên cạnh giếng Tiên.
Rồi có một nàng tiên, trong một lần đuổi theo con bướm vàng 6 cánh đã vô tình dẫm phải lông của một con nhím. Chân bị đau, nàng không thể đi được nên đã phải dùng ngựa để về Trời. Trước khi về, các nàng tiên khác đã dùng nước suối Ngọc để rửa chân cho nàng và chẳng may gót ngọc in dấu trên mặt đá cùng dấu chân ngựa thần. Bởi thế ngày nay ở phía bắc của chùa Chân Tiên vẫn còn in hai dấu chân, một dấu chân người và một dấu chân ngựa.
Nằm cách đó không xa, có một cái giếng sâu khoảng 2m, tuy nhiên theo bác Bình thì: “Tôi đã trông chùa 20 năm nay nhưng chưa bao giờ thấy cái giếng này khô nước”. Cũng chính vì vậy mà người đời gọi giếng này là Giếng Tiên
http://nd1.upanh.com/b2.s18.d2/b2d96...030t620246.jpg
< Giếng Tiên chỉ sâu khoảng 2 mét nhưng nước không bao giờ cạn.
Tuy nông nhưng nước giếng trong xanh và là nguồn cung cấp nước ăn, uống, sinh hoạt cho chùa Chân Tiên. Sát bên cạnh giếng Tiên có một con rùa đá dài gần 1,5m, chiều ngang mai rùa rộng gần 90cm, với đầy đủ đầu, mắt và mai. Theo dân gian truyền lại, con rùa này là linh hồn của giếng Tiên, nó có nhiệm vụ trông coi giếng để không bao giờ cạn nước. Người dân nơi đây vẫn tin vào điều đó và lập bàn thờ để cúng thờ cụ kim quy này.
Đó là vài trong những vô số câu chuyện truyền thuyết được lưu truyền về một chốn thần tiên mang màu sắc huyền bí. Mặc dầu, đây chỉ là truyền thuyết nhưng nó cũng mang đến cho du khách một sự ngạc nhiên về sự trùng lặp các dấu tích Tiên mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.
Cũng nhờ cảnh đẹp, thơ mộng cùng với những câu chuyện kì bí trên nên ngày nay núi Am Tiên được xem là điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du khách về đây tham quan của tỉnh Hà Tĩnh. Nhiều người lần đầu đặt chân đến đây đã phải thốt lên:
http://nd5.upanh.com/b5.s7.d1/fab2ba...01115.anh1.jpg
< Theo giai thoại, đây là nơi tiên ông từng ở.
“Kỳ lạ thay tiên giáng mấy ngàn năm
Dấu chân tiên vẫn còn trên mặt đá
Là xứ Tiên nên núi rừng đẹp lạ
Hay núi rừng đẹp quá Tiên say”
Tuy nhiên để Am Tiên thực sự trở thành điểm du lịch bậc nhất nhì ở Hà Tĩnh thì cần có sự đầu tư hơn nữa của các cấp chính quyền, đưa nơi đây trở thành khu du lịch sinh thái đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan
Những truyền thuyết gắn liền với ngôi chùa
Chùa Chân Tiên đã tồn tại hàng trăm năm tuổi. Ngôi chùa tọa lạc trên đỉnh Am Tiên từng trải qua bao thế hệ, được người đời gìn giữ trông coi, hương đăng, thờ phụng. Dần chùa trở nên sầm uất và linh thiêng nằm ẩn mình dưới rừng thông tĩnh lặng. Sự tích ra đời của ngôi chùa gắn liền với những truyền thuyết kì bí liên quan đến Thần Tiên.
http://nd5.upanh.com/b3.s13.d4/20cb6...75.luhanh5.jpg
< Chùa Chân Tiên.
Chùa Chân Tiên hay còn gọi là Chân Tiên Tự được cho là xây dựng vào thời nhà Trần (Thế kỷ XIII). Theo các bậc cao niên ở đây kể lại, thời đó có một nàng Tiên khi bị cha ép lấy chồng không chịu lấy nên bỏ xứ sở thần tiên ra đi. Khi đi nàng lấy một cây mai làm gậy. Nàng đi mãi, đi mãi rồi sau đó rơi xuống núi Am Tiên. Khi đặt chân xuống đây, nàng vùi cây Mai xuống đất và nó đã mọc thành một bụi Mai rậm rạp, xanh tốt. Hiện tại bụi Mai này vẫn quanh năm xanh tốt không kể mùa hè nắng nóng hay mùa đông lạnh giá.
Có câu chuyện khác lại được truyền miệng trong dân gian rằng, hồi đó ở địa phương có ông Đùng (ông khổng lồ) sức khỏe phi thường, có tài chuyển núi, dời non. Một ngày nọ, ông vần tất cả những quả núi ở vùng châu thổ sông Lam và sông La xếp thành dãy núi Hồng Lĩnh. Tên các ngọn núi được đặt theo dáng hình Ngũ Mã (hình năm con ngựa), Sư Tử, Hàm Rồng….
http://nd2.upanh.com/b4.s17.d1/49d8f....imageview.jpg
< Du khách đi xe máy trên dãy ngàn Nưa lên di tích chùa Am Tiên để thắp hương tưởng nhớ Bà Triệu tại đền thờ bà ở đỉnh núi Nưa, thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn (Thanh Hóa).
Một lần ông Đùng gánh 2 quả núi thì gãy đòn gánh nên bị ngã. Hai quả núi rơi xuống được người đời đặt tên là núi Am Tiên (thuộc huyện Lộc Hà ngày nay) và Rú Bờng (thuộc huyện Can Lộc ngày nay). Đòn gánh mà ông Đùng gánh hai quả núi kia tạo thành một dải cát vàng nối liền và là ranh giới giữa hai huyện Lộc Hà và Can Lộc. Tương truyền, thời vua An Dương Vương mở nước từng đặt chân đến nơi này.
Bởi thế, bao quanh đỉnh núi này là hàng trăm câu chuyện mang màu sắc huyền bí mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.
(Theo Bưu Điện VN)
Động Thiên Tôn _Ninh Bình..
http://nd4.upanh.com/b6.s2.d4/6f433f...4.dsc03105.jpg
Động Thiên Tôn nằm ở khu vực Hang Nước núi Dũng Đương, là một trong những hệ thống các danh sơn nằm trên địa bàn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
< Cổng vào động Thiên Tôn.
Di tích này cách thành phố Hoà Bình hơn 90 km về phía nam, cách Nho Quan 7km, đờng đi thuận tiện, thắng cảnh hang nước và động Thiên Tôn thật sự là một điểm du lịch.
Hang Nước và động Thiên Tôn nằm trong lòng hai quả núi Nước và núi Miếu, là hai ngọn núi liền nhau trong quần thể 99 ngọn núi của xã Ngọc Lương, huyện Yên Thuy. Hồ nước, cánh đồng và dáng núi uy nghi đã tạo cho cảnh quan nơi đây thật hữu tình, thơ mộng. Cái đẹp không chỉ ở dáng núi, sắc trời mà còn ẩn giấu trong các hang động.
http://nd6.upanh.com/b1.s18.d1/b1a9f...odohoaluc3.jpg
Dũng Đương sơn” hay “Vũ Đương sơn” có nghĩa là núi chắn dòng nước mạnh từ trên chảy xuống. Ba chữ “Dũng Đương sơn” đồng thời cũng được viết dưới cổng vào trong động thờ thánh Trấn Vũ Thiên Tôn.
Trấn Vũ Thiên Tôn hay Chân Vũ Đế Quân chính là Huyền Thiên Thượng đế Kim Thuyết hóa thân, với vai trò tổng chỉ huy thiên binh, thiên tướng, được cử xuống trần để trừ yêu, đẹp loạn.
http://nd7.upanh.com/b6.s17.d2/0ceff...7.dsc03142.jpg
Thiên Tôn là vùng đất “tú thủy kỳ sơn”, địa thế núi sông hòa phối, công thủ vững vàng nên hai vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đã lấy động này làm tiền đồn, vọng các tiền tiêu cho kinh thành Hoa Lư.
Theo truyền thuyết, động Thiên Tôn được phát hiện vào thời Hùng Vương. Đến thời nhà Đường đô hộ, đạo sỹ Cao Biền đã cho xây dựng đền thờ Trấn Vũ Thiên Tôn hòng trấn long mạch đế vương sẽ phát tại vùng này.
Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nhà nước phong kiến tập quyền độc lập đầu tiên ở nước ta. Trước khi cất quân chinh phục các sứ quân khác, ông thường tới động Thiên Tôn lễ cầu Thần phù hộ và đã linh ứng, nhiều lần được Thần giúp đỡ chiến thắng. Khi lên ngôi hoàng đế, ông đã phong Thần là “An Quốc Tôn Thần” (vị tôn thần giữ gìn cho đất nước bình yên); đồng thời cho sửa sang lại động và xây đền thờ ở phía đông của động gọi là An Quốc Tôn Thần từ, tức đình Hàng Tổng bây giờ.
http://nd1.upanh.com/b5.s15.d2/a1647...1.dsc03133.jpg
Sau khi rời đô ra Đại La, vua Lý Thái Tổ vẫn cho xây dựng ở nơi đây nhiều công trình kiến trúc với quy mô lớn. Đến thời Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo khu vực này đều được chú ý xây dựng, tôn tạo. Trong động Thiên Tôn vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật thờ tự có giá trị văn hóa, lịch sử như 18 tượng la hán, hệ thống nhang án, bệ thờ bằng đá với các hoa văn “lưỡng long chầu nguyệt”, hình chim phượng, hoa lá... được chạm khắc rất công phu, tinh xảo. Đặc biệt, còn có quả chuông kích thước khá lớn, có bốn núm, phát ra bốn kiểu âm thanh khác nhau, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786)
http://nd1.upanh.com/b3.s7.d4/ca3a04...36301671.a.jpg
Qua vòm cửa hang Nước, lội theo dòng nước mát trong hang là cả một thế giới muôn màu, muôn vẻ, sống động của các sinh linh đã hàng triệu năm hoá đá. Hang Nước có chiều dài hơn 500m, chia thành hai vòm động lớn, với vô số hình hài bằng đá. Hầu như không một khối nhũ nào lại không gợi cho chúng ta những hình ảnh quen thuốc: con rùa đang bò, con voi đang cúi đầu uống nước, con sư tử đang vươn mình, con cá sấu trườn xuống dòng nước trong vắt và cây nấm màu hồng khổng lồ. cả một vòm hang sáng rực lung linh như cung điện của vua chúa xa xưa
http://nd5.upanh.com/b2.s18.d2/f54c9...5.dsc03133.jpg
Động Thiên Tôn nằm chếch phía trên cửa hang Nước. Lên theo bậc đá, du khách gặp một của động thoáng mát. Cáng vào trong, du khách càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của tạo hoá. Nền động khô ráo, lối đi dễ dàng, quanh co theo các cột đá. Qua ánh đèn, du khách mặc sức tưởng tượng, chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc có một không hai mà thiên nhiên đã ban tặng
http://nd8.upanh.com/b6.s20.d1/208e7...8.dsc03091.jpg
Những năm 1930 - 1945, cùng với việc thành lập các chi bộ Đảng ở Trường Yên, di tích động Thiên Tôn là nơi trú chân của các chiến sỹ cách mạng. Ngày 20/8/1945, hơn một vạn quần chúng nhân dân ở các vùng Nho Quan, Gia Viễn, Gia Khánh cùng các đội tự vệ có vũ trang gậy gộc, giáo mác đã tập trung ở phía trước động Thiên Tôn với cờ đỏ sao vàng, các biểu ngữ mang dòng chữ: “Việt Nam độc lập”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Thành lập chính quyền cách mạng nhân dân”... với khí thế sục sôi cách mạng, đoàn quân đã kết hợp với quân dân các vùng lân cận khởi nghĩa chiếm lại chính quyền ở tỉnh lỵ Ninh Bình từ tay phát xít Nhật.
Với giá trị về văn hóa, lịch sử, tâm linh, năm 1962, quần thể di tích chùa và động Thiên Tôn đã được Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử tâm linh cấp quốc gia. Đây cũng là một cảnh quan có tầm vóc nằm trong quần thể du lịch, tâm linh Tràng An - Tam Cốc - Bái Đính
(Theo Go Tổng Hợp)
3 Kiến Trúc Cổ Đặc Sắc và Thiêng Xứ Đoài..
http://nd6.upanh.com/b4.s11.d3/01964...329936.316.jpg
Trong 10 kiến trúc cổ đặc sắc của Việt Nam thì xứ Đoài chiếm đến 3, gồm chùa Tây Phương, đình Tây Đằng và đình Chu Quyến.
.
Chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương tên chữ là Sùng Phúc Tự, tọa lạc trên trên núi Tây Phương, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chùa được Cao Biền xây dựng, Tây Đô vương Trịnh Tạc sửa sang lại, nhưng đến năm 1794, dưới thời nhà Tây Sơn, chùa mới được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Theo Bảo tàng Kiến trúc Việt Nam, đây là ngôi chùa có lối kiến trúc cổ độc đáo bậc nhất. Nó không chỉ tập trung trí tuệ, tinh hoa, sáng tạo của cha ông, mà còn là sự kết hợp hài hoà trong vật liệu, kết cấu, hình khối, ánh sáng, khí hậu tạo nên đỉnh cao cho nghệ thuật kiến trúc.
http://nd6.upanh.com/b4.s20.d1/43caa...huatayphng.jpg
Chùa được xây dựng trên một quả đồi yên tĩnh với không gian sáng tạo từ lối chân đồi lên tới cổng chùa. Đi hết 200 bậc thang xây bằng đá ong, hai bên đường là thành đất, vườn cây là tới khu đất nơi chùa toạ lạc, công trình được bố trí ngoài có cổng chùa nhỏ, không tam quan, không gác chuông.
Chùa gồm 3 lớp chính, song song theo hình chữ "Tam", xây thành các khu biệt lập. Chùa và sân thông suốt nhau, tứ phía quây lại kín sân thiên tỉnh thành hình khung cửa sổ dài, mở thẳng lên trời đón khí và ánh sáng. Tuy nhiên, ánh sáng vừa phải để tạo được vẻ thâm nghiêm cho công trình.
Bộ mái của chùa được coi là đoá hoa đao đình bởi sự xử lý và thủ pháp nghệ thuật, tỷ lệ chuẩn mực. Trung tâm của chùa có 3 lớp chùa đã xây gần như sát vách, lợp chồng diềm có tất cả 24 đoá đao cỡ lớn. Mái cong và cao, hai hoa nối với nhau thành chiều cao gấp đôi 2.20m+2,20m nên tạo được ánh sáng tốt cho công trình. Mái lợp ngói mũi hài, tạo thành 2 lớp chồng diêm. Vì thế dễ dàng nhận thấy tính liên hoàn của công trình
http://nd8.upanh.com/b2.s13.d5/b32ca...6e4tamquan.jpg
Giữa sân là một hồ nước nhỏ, vào mùa khô hồ luôn giữ được độ ẩm nhất định, chống nứt nẻ của các kết cấu và tượng gỗ bên trong công trình. Mái chùa theo lối chồng diêm (bốn mái trên, 4 mái dưới chồng lên nhau, hai lớp cách nhau một khoảng ngắn có tên là “cổ mái” hay “cổ diêm”). Các đầu đao cong vút tạo vẻ nhẹ nhàng thoáng đạt cho công trình. Trên bờ nóc mái trang trí những hình rồng sinh động và những con vật trong thần thoại được xếp chồng lên nhau thể hiện bằng những đường cong tạo vẻ đẹp thanh thoát cho công trình.
Hệ thống kết cấu của chùa theo lối “chồng rường giá chiêng” nhưng thay cho “kẻ” thì lại dùng “bẩy”, bẩy không nằm nghiêng mà nằm ngang để đỡ phần mái đua ra. Đối với mái tầng trên cột quân còn đứng trên xà nách của mái tầng dưới… đây là kiểu dáng kiến trúc độc đáo thế kỷ 17.
Ngoài bố cục kiến trúc đẹp, chùa Tây phương còn nổi tiếng vì có hệ thống tượng độc đáo như tượng Tuyết Sơn, Mã Minh và 18 vị La Hán là những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đương thời mang đậm tính dân gian, ý nghĩa triết lý nhân sinh, cuộc sống dân giã đời thường và tính thiêng liêng của Phật pháp.
http://nd5.upanh.com/b2.s7.d3/50b1da...d410ktruc2.jpg
Đình Tây Đằng
Tây Đằng đứng đầu trong chuỗi đình của đất Quảng Oai, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 với chất liệu gỗ và bố cục nguyên thủy: mặt nằng hình chữ nhật, năm gian, nơi thờ trên gác lửng ở gian giữa. Tả mạc, hữu mạc, chuôi vồ xây thêm vào các đời sau.
Đình Tây Đằng gồm có kết cấu trồng rường giá chiêng, gồm 5 gian. Có 8 hàng cột ngang và 6 hàng cột dọc, tổng cộng là 48 cây cột gỗ trong đó những cây cột lớn nhất có đường kính lên tới 80 cm. Các cây cột này đỡ hệ mái lợp ngói có các đầu đao cong trang trí hình rồng, phượng, lân, rùa bằng đất nung. Xung quanh để trống chứ không làm tường. Các chi tiết chạm khắc trên các phần gỗ theo nhiều đề tài khác nhau.
Tả mạc và hữu mạc là hai ngôi kiến trúc ở hai phía sân trước ngôi đình. Cổng đình gồm 5 cây cột, không có mi. Trên đỉnh cột có trang trí hình lân. Cổng đình rộng theo cả chiều ngang của sân đình từ tả mạc sang hữu mạc.
http://nd7.upanh.com/b2.s18.d1/f3823...27.taydang.jpg
Đình có những bức chạm mô tả và vĩnh cửu hóa cảnh sinh hoạt đời thường: gánh con đi chợ, đốn củi, cày bằng voi, săn hổ, chèo thuyền, con trai ghẹo gái làng, uống rượu… Ngôn ngữ thể hiện cảnh đời của các nghệ sĩ dân gian gần gũi với ngôn ngữ thể hiện của các họa sĩ thế kỷ 20. Chạm trên ván gió đình Tây Đằng là chú voi tung cả bốn chân, vòi, đuôi và toét miệng cươi, cảm giác chú bay như làn gió, quên mất trọng lượng bản thân.
Những thân cột, xà, đầu dư, kẻ bảy đình Tây Đằng tồn tại vượt qua các cửa ải sinh tử: sự mục nát, sự hủy hoại trong bão lũ và trong ngọn lửa, tàn phá và sự tham lam của người đời. Những khúc, mảng gỗ vô giác ấy bảo lưu cả một kho tàng sáng tạo, tình người và khát vọng, làm nhân chứng một thời.
Đình vừa là nơi làm việc của các chức sắc và những người có ảnh hưởng trong làng, vừa là nơi tổ chức các lễ hội của làng, vừa là nơi thờ các thành hoàng của làng (gồm Sơn Tinh, Thánh Gióng, và Thần Nông).
http://nd3.upanh.com/b6.s3.d1/d41d1e...d410ktruc3.jpg
Đình Chu Quyến
Giống như đình Tây Đằng, đình Chu Quyến có số lượng hàng cột là 8 hàng và 48 cột tuy kiến trúc có chỗ khác nhau.
Đình được xây dựng từ thế kỷ 17 trên đất xã Chu Minh, huyện Ba Vì (nay thuộc về Hà Nội) và được Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch) xếp hạng là một trong những di tích văn hóa lịch sử đặc biệt quan trọng của Quốc gia.
Đình được đánh giá là ngôi đình lớn nhất xứ Đoài với thiết kế chỉ gồm một tòa đại đình trông rất sừng sững và bề thế gồm hai gian, ba chái, không có một công trình phụ trợ, bổ sung nào.
Như hầu hết các ngôi đình cổ xứ Đoài, đình Chu Quyến có bộ mái đình xòe rộng ra bốn phía, chiếm tới hơn 3/4 toàn thể ngôi đình nhưng lại lan rộng xuống thấp nên càng làm tăng thêm vẻ vững chãi, bề thế của ngôi đình. Bù lại, các đầu đao của mái đều được uốn cong làm cho ngôi đình trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát và duyên dáng gấp bội phần.
http://nd1.upanh.com/b1.s13.d2/080b6...es18508521.jpg
Nơi đây có nhiều tác phẩm trang trí đặc sắc được thể hiện cả trên đất nung và trên gỗ.như: con giống làm bằng đất nung được trang trí trên hai đầu nóc, đầu đao; hình ảnh mây lửa mềm mại, hình tượng con lân, đầu rồng mắt to, trợn tròn, miệng há rộng hướng về các đao lửa trên bờ guột của đình…
Bước vào tham quan đình, người xem cũng dễ dàng nhận thấy, các cột ở ngôi đình này đều rất to, chắc chắn; đặc biệt chiếc cột cái có chu vi tới hơn 2,4m. Vì thế mà người dân trong vùng từ lâu thường có câu ví quen thuộc: To như cột đình Chàng.
Các tác phẩm được chạm khắc bằng gỗ trong đình cũng hết sức cầu kỳ, tinh xảo và độc đáo. Những đề tài, khung cảnh vốn quen thuộc hàng ngày trong đời sống của người cư dân nông nghiệp như cảnh làm ruộng, chọi gà, người đánh đàn, người cưỡi hổ, người dắt voi, múa hát… được tái hiện hết sức đặc sắc, sống động.
Giá trị văn hóa lịch sử của đình Chu Quyến còn được thể hiện ở những thần tích và một số di vật cổ, đặc biệt là những đạo sắc phong của các triều Lê Trung Hưng, Tây Sơn và triều Nguyễn phong thần cho Nhã Lang Vương còn được lưu giữ đến tận ngày nay.
(Theo Đất Việt)