Khu Di Tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm..
http://nd3.upanh.com/b3.s7.d3/9dcfbc...dnnbkhiem1.jpg
Từ thành phố Hải Phòng, đi qua những ruộng thuốc lá xanh rờn xen lẫn cánh đồng lúa chín vàng, chúng tôi đến thăm Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trên quê hương ông ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo.
< Tam quan khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trên con đường trải đầy rơm rạ sau vụ gặt và nồng đượm mùi thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo nổi tiếng khắp nước, cũng có rất nhiều người như chúng tôi, tìm về Khu di tích, thắp nén hương thơm, tưởng nhớ tới Nguyễn Bỉnh Khiêm, một danh nhân văn hoá, một nhà hiền triết mà sự nghiệp và tên tuổi của ông đã lưu danh mãi cùng đất nước.
Thân thế và sự nghiệp: Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên chữ là Hanh Phủ, tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, sinh năm 1491 tại thôn Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương nay là huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc, thân phụ ông là Thái Bảo Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo.
http://nd6.upanh.com/b4.s9.d2/3653de...dnnbkhiem2.jpg
< Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm 3 gian lập trên nền nhà cũ.
Tuy nhiên, lớn lên trong giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, nhiễu loạn nên suốt thời trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535, khi đã 45 tuổi, ông mới đi thi và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình).
Năm 1543, trước cảnh bầy tôi lộng quyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm mạnh dạn vạch trần sự tha hóa, thối nát rồi dâng trảm sớ lên vua đối với 18 đình thần biến chất, mưu phản, song không được nhà vua chấp thuận. Ông bèn cáo quan về ở ẩn nơi quê nhà, lập am Bạch Vân, mở trường dạy học, làm thơ, nghiên cứu kinh sử, chắt lọc những tinh hoa của các đạo pháp ngoại lai, bổ sung vào đó tính chất giản dị mà sâu sắc của người Việt để giáo hóa người đời và dạy dỗ học trò thành người có đức có tài, hữu ích cho đất nước. Học trò của ông nhiều người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền.
http://nd5.upanh.com/b2.s6.d1/e2241c...dnnbkhiem4.jpg
< Bàn thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời năm 1585, ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như Tập thơ Bạch Vân gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán và hai tập Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi với hàng trăm bài thơ chữ Nôm. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Thơ của ông là cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc".
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là nhà triết học lớn của Việt Nam. Ông cũng tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".
Nhà sử gia Phan Huy Chú có viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hơn 40 năm mà không một ngày nào quên đời, lòng lo thời thương đời thể hiện ra văn thơ. Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị đều có quan hệ đến việc dạy đời"
http://nd6.upanh.com/b6.s8.d1/ecda9c...dnnbkhiem3.jpg
Quần thể di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm trên quê hương
< Cầu đá bắc qua hồ Thái Nhâm.
Tưởng nhớ và khắc ghi những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở làng Trung Am, quê hương của ông, con cháu và dân làng đã xây dựng một khu di tích gồm nhiều hạng mục công trình, là nơi thờ cúng và trưng bày hiện vật về thân thế và sự nghiệp của ông.
Qua khỏi cổng tam quan với 3 chữ Hán: Trung Am từ (tức đền Trung Am) là ngôi đền thờ chính gồm 3 gian lập trên nền nhà cũ của Trạng Trình, là nơi đặt tượng và bài vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tượng ông được làm bằng gỗ, trông thế ngồi trên ngai, mình mặc áo rồng vua ban, đầu đội mũ cánh chuồn, tay phải cầm cuốn tập giơ lên như đang giảng đạo thơ cho các học trò. Phía trước đền là hồ Thái Nhâm, trên khoảng đất giữa hồ có cầu bắc qua còn tấm bia đá làm năm Vĩnh Hựu nhà Lê (1736) ghi lại việc làm đền thờ Trạng và tên những người đã đóng góp xây dựng đền.
Phía sau đền là 3 gian nhà lợp cói, mô phỏng am Bạch Vân, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi từ quan đã về dạy học, làm thơ. Cách không xa Bạch Vân am là khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm và phù điêu. Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác phẩm cao 5,7 mét, nặng 8,5 tấn được làm bằng chất liệu đá Granit và trong tư thế ngồi tay cầm bút, tay cẩm sách, y phục nhà Nho, cốt cách giản dị. Hai bức phù điêu, mỗi bức có cao khoảng hơn 5 mét, dài hơn 20 mét và được làm khá hoàn chỉnh cả về nồi dung, bố cục mỹ thuật... Một bức diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình từ lúc còn bé đến cuối đời; bức kia diễn tả một giai đoạn lịch sử của địa phương từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến nay.
http://nd3.upanh.com/b3.s3.d4/ef41e8...dnnbkhiem5.jpg
< Vườn tượng tái hiện cảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm và các học trò ở am Bạch Văn năm xưa.
Trong quần thể di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách không xa đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm là phần mộ cụ Nguyễn Văn Định, thân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm và tháp Bút Kình Thiên, tương truyền là do học trò tạo dựng để ca ngợi tài năng của Trạng trình như trụ cột chống trời, chùa Song Mai và đền thờ bà Minh Nguyệt (vợ thứ của Trạng Trình), di tích Quán Trung Tân bên bờ sông Hàn… Đặc biệt trong không gian của khu di tích có rất nhiều vườn tượng, với kích thước bằng người thật, diễn tả lại cuộc đời, cảnh dạy học khi xưa của Nguyên Bỉnh Khiêm, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động.
Hàng năm cứ đến ngày 23/12, người dân trong vùng và các nơi lại kéo về đền thờ tế lễ, dâng hương tưởng niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bên cạnh phần lễ, phần hội với nhiều trò chơi dân gian đánh vật, kéo co, chọi gà, cờ người… đã mang đến một không khí lễ hội dân gian độc đáo, để lại những ấn tượng tốt đẹp cho du khách trong và ngoài nước.
(Theo quehuong)
Đình Khinh Dao_Di Sản Qúy
http://nd9.upanh.com/b4.s4.d1/a8391f...hkhinhdao0.jpg
Trong tổng số hơn 100 di tích lịch sử -văn hóa được công nhận cấp quốc gia tại Hải Phòng, đình Khinh Dao ở xã An Hưng (An Dương) có quy mô kiến trúc, cảnh quan bề thế, trang trí nghệ thuật phong phú, là di sản quý của thành phố.
.
Bảo tồn nét kiến trúc thời Lê
Đình nằm ngay trên cánh đồng làng Khinh Dao, trên mảnh đất vuông vắn, phía trước có ao sen tạo không gian thoáng đãng, cảm giác thư thái cho du khách khi đến thăm, chiêm ngưỡng. Vào mùa hè, sen hồng nở rộ, tỏa hương thơm ngào ngạt khuôn viên đình
http://nd9.upanh.com/b1.s13.d5/cfed0...kddinhlang.jpg
Đặc biệt, di tích bảo tồn được nhiều nét kiến trúc thời hậu Lê thế kỷ 18. Trước cửa đình trang trí cuốn thư lớn, trên có khắc một bài thơ chữ Hán. Đình có 2 cổng uy nghi, dáng dấp như một khải hoàn môn ở phương Tây, nhưng vẫn mang nét kiến trúc truyền thống phương Đông. Hai bên cột đồng trụ cả 2 mặt trong và ngoài đều đắp nổi câu đối bằng loại chữ đỉnh (khi viết có hình dáng như đỉnh hương).
Qua khoảng sân rộng là đến trước cửa đình. Đình Khinh Dao xây dựng theo kiểu chữ đinh truyền thống gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũ hài, đầu mái đắp hình đao cong kiểu rồng chầu phượng mớm, bờ nóc mái đắp hình đao cong kiểu rồng chầu mặt nhật. Đây thực sự là công trình kiến trúc đồ sộ, bởi quy mô của lớp lớp cột cái, cột quân, kèo, xà thượng, xà hạ…trải khắp 5 gian bái đường.
Toàn bộ hệ thống cột cái, cột quân đều đặt trên các chân tảng đá. Phần trên đục dải hoa văn ôm chân tảng. Nhờ có chân tảng cao nên các chân cột gỗ không bị ngấm nước, tạo độ bền vững cho công trình. Điểm đặc biệt nữa của đình Khinh Dao là có 7 hiên đình bằng gỗ khá rộng bản, trang trí điêu khắc cầu kỳ với các đề tài hoa lá, rồng, mây
http://nd6.upanh.com/b5.s18.d2/afb0a....kdcuonthu.jpg
Tòa hậu cung, nơi an tọa của thành hoàng làng, có quy mô 3 gian.Các vị thành hoàng được làng tôn thờ là Phạm Đình Trọng, cùng 6 vị thần thời Hùng Vương. Trong đó, thành hoàng Phạm Đình Trọng lúc sinh thời có nhiều công với dân làng như dựng đình, làm văn từ, văn chỉ… So với gian tiền đường, hậu cung, có kích thước nhỏ hơn nhưng trau chuốt, duyên dáng. Tường hồi mái phía ngoài hậu cung cũng thể hiện mái đao cong, đắp nổi rồng chầu phượng mớm. Nhìn bên ngoài tường hồi mái trông giống như kiểu kiến trúc chữ nhị.
Tôn thêm vẻ đẹp truyền thống
Trải qua thời gian, đình Khinh Dao không tránh khỏi sự xuống cấp. Để bảo tồn di tích này, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, năm 2007, đình được tôn tạo, tu bổ bằng nguồn vốn đầu tư của Trung ương và địa phương, tổng giá trị khoảng hơn 11 tỷ đồng. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch làm chủ đầu tư, Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương là đơn vị thi công.
http://nd2.upanh.com/b3.s3.d1/39e414...dinhkhinhd.jpg
Xác định rõ vị trí, ý nghĩa, giá trị lịch sử văn hóa của di tích, chủ đầu tư và đơn vị thi công bàn bạc, tìm giải pháp khắc phục khó khăn, thi công công trình đạt hiệu quả cao nhất về kỹ, mỹ thuật. Đến đầu năm 2011, công trình tu bổ, tôn tạo đình Khinh Dao hoàn thành, đưa vào sử dụng, gồm: đại đình diện tích 328m2, phương đình: 46m², hai cổng và bình phong, sân vườn, một số hạng mục công trình phụ trợ, tường rào.
Trước Cách mạng Tháng 8, lễ hội đình làng được tổ chức một năm 2 lần vào tháng 3 và tháng 11 âm lịch. Trong đó, tháng 3 là lễ hội chính, được thực hiện đầy đủ các nghi thức. Một trong những nghi trọng tâm của lễ hội đình là rước bài vị thành hoàng làng từ các miếu tập trung về làng, sau đó tổ chức tế. Bên cạnh phần tế lễ, trong lễ hội còn có rước lợn ông Bồ.
http://nd2.upanh.com/b5.s7.d1/7d11d9...kdruocbang.jpg
Theo quy định của làng, người nào nhận ruộng lộc điền thì năm đó phải nuôi lợn ông bồ, góp rượu, hoa quả cho lễ hội. Hiện, tại bậc thềm gian trung tâm của đình vẫn còn dấu tích của loại thước để đo kích thước lợn. Vào những năm được mùa, phần hội còn có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như hát xướng, vật, cờ, chọi gà. Ngày nay, lễ hội đình làng vẫn được duy trì với đầy đủ nghi thức tế lễ và trò chơi dân gian. Tuy nhiên, nghi thức rước lợn ông Bồ chưa được khôi phục.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại, nay nằm cạnh khu công nghiệp hiện đại của thành phố, khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, đình Khinh Dao với vẻ cổ kính, độc đáo về kiến trúc, là điểm di tích văn hóa hấp dẫn du khách trong nước, quốc tế đến tham quan tìm hiểu. Dân làng Khinh Dao đã, đang và sẽ cùng nhau gìn giữ và bảo tồn di sản văn hóa này cho muôn đời sau
(Theo báo Hải Phòng)
Tham Quan Văn Miếu Xích Đằng_Hưng Yên..
http://nd2.upanh.com/b3.s19.d2/7d1ac...82.hungyen.jpg
Với hơn 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đại khoa, văn miếu Xích Đằng (Văn Miếu Hưng Yên) đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất "Nhất Kinh kỳ, Nhì Phố Hiến".
Nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, thuộc Phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ văn miếu có tên như vậy là do được xây dựng trên đất làng Xích Đằng và căn cứ vào khánh và chuông còn lại tại văn miếu.
Theo từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ văn miếu Xích Đằng là một trong sáu văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước và văn miếu Hưng Yên cũng là một trong hai văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám)
http://nd2.upanh.com/b6.s7.d3/1926be...euxichdang.jpg
Thế kỷ 17 dưới thời vua Lê Thánh Tông, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn.
Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có văn miếu Xích Đằng ( hay còn có tên là văn miếu Sơn Nam) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn.
Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý các trấn dưới các triều Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam thượng và sau này là của tỉnh Hưng Yên.
http://nd1.upanh.com/b6.s18.d2/1bdfe...5024548328.jpg
Dù nằm trong khu dân cư, nhưng đi ngay trên cầu Yên Lệnh, thuộc quốc lộ 38 nối Hà Nam với Hưng Yên có thể quan sát được văn miếu Xích Đằng từ hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi được trồng trước cổng. Nằm trên đường dẫn vào còn có tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ 18.
Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương
http://nd7.upanh.com/b6.s4.d3/bb8469...337307.bia.jpg
< Bia trong văn miếu.
Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18.
Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Mặt chính quay về hướng nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn.
Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình
http://nd9.upanh.com/b5.s5.d2/d3e12f...ichdangrh5.jpg
< Ảnh xưa.
Từ các khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Trần đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp việc nước, việc dân.
Học vị cao nhất được ghi danh ở các bia đá còn lưu lại là trạng nguyên Tống Trân, thời nhà Trần; trạng nguyên Nguyễn Kỳ, triều nhà Mạc; trạng nguyên Dương Phúc Tư, triều nhà Lê. Chức vụ cao nhất được biết đến là tiến sĩ Lê Như Hổ, quận công triều nhà Mạc…
http://nd2.upanh.com/b6.s10.d4/e9f70...0548113559.jpg
Ở văn miếu Xích Đằng hiện tại đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám Chu Văn An.
Hằng năm cứ vào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổ chức sinh hoạt văn hóa, đó là tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển
(Theo Afamily)
Cầu Ngói .. Công Trình Nghệ Thuật Ở Nam Định
http://nd2.upanh.com/b2.s13.d5/71151...hochuacau1.jpg
Cầu Ngói bắt ngang sông Trung Giang, cách chùa Lương 150 m, nằm trên trục đường gắn liền với chùa, đền thành một cụm di tích. Theo “Quần Anh địa chí”, cầu được hình thành cùng thời gian với chùa Lương.
Toàn bộ cầu gồm 9 gian, với 40 cột tròn, tất cả bằng gỗ lim, hai bên hai dãy hành lang dài làm ghế nghỉ chân. Cầu được bắc trên 18 cột đá hình vuông to đẹp; với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỉ mỷ, đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật rất cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu vừa cong uốn lượn mềm mại, mái ngói hình mũi hài âm dương trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên. Chạm khắc trên cầu tuy đơn giản song thể hiện hài hòa nét kiến trúc cổ truyền. Cầu là nơi đi lại và dừng chân khách bộ hành nghỉ ngơi ngắm cảnh sông nước, làng quê.
Qua đôi câu đối trên cầu cho thấy Thuỷ Tổ đã quan tâm đến việc bắc cầu ngay từ thời gian đầu tiến hành khẩn hoang: “Lê Hồng Thuận Tứ tính thuỷ mưu giá ốc biệt thành giang thượng lộ”. “Hoàng Khải Định thất niên trùng tấp dư lương y cựu kính trung thê”
http://nd1.upanh.com/b1.s16.d2/ef7ef...hochuacau2.jpg
Nghĩa là:
“Đời Hồng Thuận (1509 – 1515) bốn họ tính kế dựng nhà trên cầu, thành đường trên nước”. “Đời Khải Định thứ 7 (1922) tu sửa như cũ, từng bậc xếp lên gương”.
Đôi câu đối trên cầu:
“Hoàng lộ phong thanh quá thử kỷ đa đề trụ khách.
Giang thành dạ tĩnh du phương ứng hữu thụ thư tiên”
Nghĩa là:
“Trên đường gió mát nhiều khách qua đây lưu lại văn thơ ca ngợi.
Đi trên cầu trong đêm vắng như có nhận được sách tiên”.
Buổi đầu còn đơn sơ lợp cỏ, đến thế kỷ XVII cầu được tu sửa quy mô hợp với cảnh chùa Phúc Lâm, qua nhiều năm nhưng vẫn mang đậm phong cách kiến trúc cổ truyền Việt Nam, là một di tích độc đáo của trấn Sơn Nam Hạ xưa và Nam Định nay. “Cầu Nam, Chùa Bắc, Đình Đoài”. Cầu Ngói, chợ Lương là một trong ba cây cầu đẹp nhất miền Bắc Việt Nam.
http://nd7.upanh.com/b6.s5.d3/f72268...c28c3bbc7b.jpg
Cầu cũng còn gọi là cầu “Thượng gia hạ trì” (trên nhà dưới sông). Cầu bắc ngang sông Trung Giang. Toàn bộ cầu 9 gian gỗ lim bắc trên hai hàng cột đá to đẹp với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỷ mỉ với bàn tay tài hoa người thợ Quần Anh. Ngoài, nề, mộc đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu vừa cong uốn lượn mềm mại, mái ngói nam trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên.
Cầu Ngói được các nhà nghiên cứu kiến trúc đánh giá là một công trình nghệ thuật độc đáo hiếm có, được rất nhiều du khách trong và ngoài nước từng về thăm phong cảnh Hải Hậu ca ngợi. Họ gọi đó là “Cầu chùa phương Đông”. Đó cũng là đề tài khơi nguồn cảm hứng cho nhiều văn nhân, thi sĩ.
Sư cụ Thích Đàm Mận, trụ trì Chùa Lương cho biết: Cầu Ngói là cây cầu thứ 10 trong xã Hải Anh. Cầu Ngói cũng có tên gọi khác là Thượng gia hạ kiều (trên nhà dưới cầu). Buổi đầu xây dựng, cầu được lợp hoàn toàn bằng cỏ khô. Phần phía trên được làm từ gỗ lim, mái được lợp bằng ngói vảy rồng. Cầu được đặt trên 18 chiếc trụ đá vô cùng chắc chắn. Mỗi trụ đá cao khoảng 4-5m, phần chân chôn sâu xuống lòng sông, bên trên ăn khớp với thân cầu. Giữa trụ và thân cầu không hề có bất cứ một chất kết dính nào
http://nd5.upanh.com/b4.s3.d1/313ba2....scan10003.jpg
Cầu vừa là nơi đi lại, vừa là nơi để khách bộ hành dừng chân nghỉ ngơi ngắm cảnh quan sông nước. Cầu đẹp đến nỗi, nho sĩ Trần Phúc Khiêm đã thốt lên:
“Quần Anh non nước xem như vẽ
Đề cột nhà thơ cảm hứng sâu”.
Trong những năm qua khu di tích được đón nhiều quý khách trong và ngoài nước về tham quan. Ban di tích cùng nhà sư bản tự và nhân dân từng bước tu sửa, bảo vệ di tích được trường tồn.
Ngày 26/3/1990, Cầu Ngói được Bộ VHTT công nhận là Di tích LSVH.
(Theo dulich GO)
Di Tích Pháo Đài Cao Bằng(1)
http://nd5.upanh.com/b6.s7.d3/3757bc...5.dsc00786.jpg
Ngay thị trấn vùng biên ải Đồng Đăng sầm uất, có một pháo đài bí ẩn bị lãng quên mấy chục năm nay. Nhiều người trẻ sống ngay ở thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) nhưng họ không biết ở ngay nơi mình sống tồn tại một pháo đài nổi tiếng. Chúng tôi đã dành nửa ngày để cùng một số người dân leo trèo khám phá bên trong pháo đài này.
Không chỉ với chúng tôi, người dân nơi đây cũng có cảm giác rùng rợn, sợ hãi khi nghĩ đến chuyện chui vào phía trong pháo đài, vì trong thời chiến, rất nhiều người đã bỏ mạng nơi đây. Hơn nữa, hệ thống lô cốt đã nhiều lần bị đánh thuốc nổ, bị ném mìn, chẳng may trong quá trình đi sâu vào pháo đài mà vô tình động phải mìn thì mất mạng.
Pháo đài này do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1941, đến năm 1943 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng, pháo đài được xây ở vị trí phía Đông – Nam thị xã Cao Bằng, đây là một vị trí có ưu thế về mặt quân sự, có thể quan sát được toàn bộ các khu vực ngoại vi, đặc biệt là cầu Bằng Giang và cầu Sông Hiến, đây là hai cây cầu mà thực dân Pháp cho là những trở ngại lớn nhất khi đối phương muốn tấn công vào trung tâm
http://nd1.upanh.com/b2.s10.d3/7bd81...1.phaodai1.jpg
< Mặt trên của pháo đài là ruộng ngô.
Pháo đài Cao Bằng được nhiều nhà quân sự phương tây đánh giá là một trong những pháo đài đẹp và kiên cố nhất Đông Dương, do một kỹ sư người Đức thiết kế, pháo đài có diện tích 10 ha, xung quanh xây tường cao 8 – 10m, tường được xây bằng loại đá rắn chắc, có độ bền cao, hệ thống phòng ngự được chia thành 4 cụm hoả lực chính, mỗi cụm có một lô cốt, hình thù như những con sư tử hung mãnh rình mồi để gây đòn tâm lý với đối phương, Pháo đài chỉ có một cổng chính ra vào, cách cổng khoảng 0,5m có một cầu rút, khi có báo động hoặc chiến đấu, cầu rút sẽ được trục tời điều khiển đóng kín cổng và lập tức toàn bộ vành đai pháo đài được khép kín
http://nd6.upanh.com/b5.s10.d3/f2fc1...6.phaodai2.jpg
< Một lô cốt của pháo đài.
Theo quan sát, các bức tường của pháo đài rất kiên cố, được đúc bằng bê tông cốt thép, bề dày khoảng 2m. Ở tầng trên cùng là nóc pháo đài, cứ cách một khoảng lại có một lỗ rộng chừng 0,3m2, là nơi bố trí các khẩu đại liên, trung liên, đồng thời để quan sát 4 hướng quanh pháo đài.
Để chui lên trên pháo đài, chúng tôi phải luồn qua những khe hở giữa các tảng bêtông lớn nằm chềnh ềnh, nghiêng ngả như sẵn sàng sập xuống bất cứ lúc nào.
Sau một thời gian leo trèo, chui rúc, chúng tôi cũng lên đến điểm cao nhất của pháo đài. Một khung cảnh hoang sơ, tan nát hiện ra trước mặt. Trên diện tích với chiều rộng khoảng 60m, chiều dài khoảng 100m, từng tảng bê tông lớn nhỏ nằm nghiêng ngả, lăn lóc mỗi tảng một nơi, là dấu tích còn lại sau những trận bộc phá nhằm phá hủy pháo đài
http://nd1.upanh.com/b3.s17.d2/d93aa...1.phaodai3.jpg
< Cửa chính của pháo đài rất sâu, không có phương tiện thì không thể xuống được.
Cũng ở trên pháo đài, vẫn còn một vài hố sâu đến mấy chục mét, mà theo những người dẫn đường là do những trận bộc phá trước đây gây nên. Ngoài ra, trên đó còn ngổn ngang một số bức tường đã rêu phong, bụi phủ.
Tận dụng diện tích rộng lớn trên bề mặt của pháo đài, người dân tranh thủ thâm canh thêm cây sắn, cây ngô. Hiện tại, những ruộng ngô đã cao gần đầu gối. Chẳng mấy chốc nơi đây sẽ biến thành màu xanh mướt mát, che phủ tất cả. Rất ít người dân nơi đây ít người biết rằng, dưới kia, bên trong pháo đài là những bí ẩn rùng rợn.
http://nd3.upanh.com/b5.s1.d3/426d0b...3.phaodai4.jpg
< Những lô cốt của pháo đài dù bị phá hủy nặng nề song vẫn còn rất vững chắc.
Pháo đài Đồng Đăng được người Pháp xây dựng ở một vị trí chiến lược quân sự quan trọng. Từ pháo đài Đồng Đăng có thể quan sát và bảo vệ các tuyến giao thông huyết mạch, từ đường sắt đến đường bộ như ga đường sắt quốc tế Đồng Đăng – Hà Nội, quốc lộ 1A Lạng Sơn – Hà Nội, quốc lộ 1B Lạng Sơn - Thái Nguyên, quốc lộ 4B Lạng Sơn - Cao Bằng.
Theo các tài liệu lịch sử, pháo đài Đồng Đăng được xây dựng từ thời Pháp và phải mất 3 năm mới xây xong, từ năm 1939 đến năm 1941. Đây là một công trình quân sự kiên cố của thực dân Pháp.
Trong thời gian chống thực dân Pháp, pháo đài Đồng Đăng trở thành lô cốt bất khả xâm phạm. Nhiều lần quân dân ta đánh chiếm pháo đài nhưng đều thất bại. Mãi đến năm 1944 – 1945, lợi dụng Nhật đảo chính Pháp, quân dân ta được lệnh khởi nghĩa mới chiếm được pháo đài.
Tuy nhiên, sau khi Pháp quay trở lại đô hộ nước ta năm 1946, chúng đã cướp lại pháo đài và biến nơi đây thành một căn cứ quân sự vững chắc trong tuyến phòng thủ quân sự hành lang biên giới phía Bắc
http://nd0.upanh.com/b3.s6.d2/347be0...0.dsc00787.jpg
< Một phần pháo đài trông như đầu người.
Trong chiến dịch Biên giới 1950, quân dân ta chiến thắng ở Đông Khê (Cao Bằng), Thất Khê (huyện Tràng Định, Lạng Sơn), quân Pháp phải rút chạy về xuôi theo đường đường số 4. Đến thị trấn Đồng Đăng, chúng đã kịp dùng thuốc nổ để phá hoại pháo đài nhằm không cho quân ta chiếm giữ một điểm quân sự quan trọng. Tuy nhiên, do được thiết kế kiên cố bằng bê tông cốt thép nên pháo đài chỉ bị hư hỏng nhẹ.
Chúng tôi đã tìm gặp ông Trần Bá Hồng thuộc Đại đội 42, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, từng có thời gian đóng quân tại pháo đài Đồng Đăng từ tháng 5 – 1978 đến tháng 3 – 1979, hiện đang sinh sống ở Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ông cho biết, trong chiến tranh biên giới năm 1979, ông được giao nhiệm vụ chiến đấu ở mỏm trên của pháo đài. Riêng đơn vị của ông có trên 100 người, nhưng hi sinh đến quá nửa. Bản thân ông bị thương nặng và được điều về tuyến sau điều dưỡng.
Ông Hồng cho biết thêm, trong chiến tranh biên giới 1979, pháo đài Đồng Đăng trở thành nơi trú ẩn cho nhiều người dân sống ở khu vực Đồng Đăng. Tuy nhiên, do nắm rõ vị trí chiến lược quan trọng của pháo đài, quân Trung Quốc đã tập trung lực lượng đánh phủ đầu pháo đài. Bởi vậy, nhiều dân thường cũng bị chết trong pháo đài này
http://nd9.upanh.com/b5.s9.d3/2a6054...9.phaodai5.jpg
< Nóc của pháo đài cao ngang với một số ngọn đồi xung quanh.
Ông kể, dù lúc đó xét về lực lượng thì quân mình ít hơn so với quân địch, nhưng quân dân ta đã chiến đấu anh dũng và kìm chân địch nhiều ngày ở pháo đài này, làm chậm tiến kế hoạch đánh nhanh của địch. Sau 10 ngày kiên cường chiến đấu, bộ đội và nhiều dân địa phương phải rút chạy vào sâu trong pháo đài.
Quân xâm lược không dám tiến sâu vào bên trong mà đã dùng thuốc nổ đánh sập cửa để bịt lối ra vào. Đồng thời chúng dùng lựu đạn, hơi cay bắn vào phía trong nhằm tiêu diệt quân dân ta. Chúng huy động khoảng 10 tấn thuốc nổ nhằm biến pháo đài thành mồ chôn tập thể.
http://nd4.upanh.com/b5.s2.d4/09b62a...4.phaodai6.jpg
< Nhiều bức tường trên mặt pháo đài đã rêu phong.
Theo các tài liệu, trong trận đánh này, lợi dụng đêm tối, đã có 6 đồng chí bộ đội thoát ra khỏi lô cốt và rút về tuyến sau. Trong đó, có đồng chí Triệu Quang Điện, sau này được tặng danh hiệu Anh hùng và là Phó Trưởng phòng Cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn.
Xung quanh việc xây dựng pháo đài Đồng Đăng còn có nhiều câu chuyện kể rùng rợn khác, mà đến nay dư luận người dân nơi đây vẫn còn biết rất rõ. Anh Hoàng Đình Chuyên ( thôn Koòn Quyền, xã Hồng Phong, Cao Lộc) cho biết, ông nội của anh là một trong những người bị thực dân Pháp bắt đi phu để xây dựng pháo đài.
http://nd4.upanh.com/b3.s15.d2/25b02...4.phaodai7.jpg
< Nhiều người dân thị trấn Đồng Đăng đã chết trong pháo đài này.
Anh Chuyên nghe bà nội kể lại rằng, người Pháp bắt dân phu làm việc rất vất vả, phải khuân vác đất đá, trộn bêtông cả ngày lẫn đêm mà chế độ ăn uống rất kham khổ. Bởi vậy, cứ chiều tối là bà mang cháo đến cho ông. Khoảng vài tháng sau, khi bà mang cháo ra thì không gặp ông nữa. Về sau mới biết, ông cụ đã chết mất xác vì lao động khổ sai.
Từ trước đến nay, dư luận ở Đồng Đăng vẫn truyền tai nhau rằng, trong quá trình xây pháo đài Đồng Đăng, người Pháp bắt phu phen khuân vác lên những cái hòm rất nặng mà không biết là bên trong đựng những gì. Họ ngờ rằng có thể là vàng bạc hoặc đồ trang sức mà người Pháp cướp bóc được của dân mình mang vào đó cất giấu, trước khi vận chuyển về nước qua đường sắt. Cũng có người cho rằng, đó là vũ khí đạn dược mà Pháp đem vào trong pháo đài
http://nd2.upanh.com/b5.s2.d2/04a71f...2.phaodai8.jpg
< Những tảng bêtông rất lớn và dày của pháo đài.
Theo những người lớn tuổi ở Đồng Đăng từng chứng kiến quá trình xây dựng pháo đài, trước khi pháo đài được xây, họ cho san lấp ngọn đồi bằng phẳng, rồi bắt dân phu đào sâu xuống lòng đất, sau đó mới bắt đầu quá trình xây dựng. Sau khi xây xong pháo đài, chúng lại bắt dân phu chở đất đá đổ lên trên, rồi trồng lại cây tạo nên quang cảnh giống như ngọn đồi trước kia.
Theo ông Trần Bá Hồng cũng như những tài liệu mà chúng tôi thu thập được, pháo đài Đồng Đăng được xây dựng thành 3 tầng, chiều rộng 60m, chiều dài 100m. Bên trong pháo đài được thiết kế phức tạp. Tầng cao nhất được thiết kế làm nơi quan sát, tầng thứ hai có đủ các phòng và lỗ châu mai để chiến đấu, tầng thứ 3 là nơi chứa quân trang, đạn dược, lương thực, phòng họp, phòng ngủ, nhà bếp
http://nd9.upanh.com/b5.s15.d2/641e3...9.phaodai9.jpg
< Từ trên đỉnh pháo đài có thể quan sát được 4 hướng.
Ngoài ra, hệ thống đèn chiếu sáng và các cửa hầm thoát hiểm cũng được thiết kế rất bài bản, khoa học. Pháo đài Đồng Đăng có thể chứa được hàng chục nghìn binh lính khi có biến xảy ra.
Theo tài liệu cung cấp của ông Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Văn hóa huyện Cao Lộc, Pháo đài Đồng Đăng được công nhận là di tích lịch sử, cần được bảo vệ. Tuy vậy, tìm mỏi mắt mà chúng tôi không thấy một tấm biển đề di tích, cũng không thấy bóng dáng ai bảo vệ khu vực này.
(Theo dulich Cao Bằng)
Di Tích Pháo Đài Cao Bằng(2)
http://nd4.upanh.com/b6.s16.d2/1d267...4.phaodai8.jpg
“Vào năm 1995, tôi từng thắp đuốc chui vào pháo đài. Chân tôi dẫm lên trên những bộ xương kêu lạo xạo. Dưới ánh lửa lập lòe, tôi thấy đầy xương xẩu, đầu lâu to nhỏ nhiều kích cỡ. Vài ngày sau tôi bị ốm, trong cơn miên man, tôi thường giật nảy mình vì những cơn ác mộng”- ông Phạm Văn Lợi, người dẫn chúng tôi vào pháo đài Đồng Đăng rùng mình nhớ lại
Thám hiểm khu mồ chôn tập thể
Nhà ông Lợi ngay gần pháo đài. Nhưng khi chúng tôi đề nghị ông dẫn đường vào trong pháo đài, ông nhất quyết từ chối. Một hồi lâu, ông mới miễn cưỡng nhận lời. “Các anh phải chuẩn bị mỗi người một chiếc đèn pin thật sáng nhé. Trong ấy tối lắm đấy”. Nói rồi ông vào trong nhà cầm thêm chiếc dao găm để tự trấn an khi dẫn chúng tôi vào thăm pháo đài
http://nd8.upanh.com/b3.s18.d1/e2d2a...8.langson1.jpg
Mon men theo mỏm đồi được mấy trăm mét, hiện ra trước mặt chúng tôi là những tảng bêtông lớn nằm ngổn ngang, nghiêng ngả như sắp lăn xuống. Ông Lợi chỉ tay lên bảo: “Đấy là cửa chính của pháo đài. Ngày xưa nó bị hàng tấn thuốc nổ tàn phá nên giờ mới ngổn ngang thế này”.
Vừa cẩn thận luồn mình qua những khe hở giữa các tảng bê tông lớn, vừa rùng mình sợ hãi, cuối cùng chúng tôi cũng đến được cửa pháo đài. Giữa mùa hè oi ả, khi nhìn xuống cửa pháo đài, từng luồng gió mát lạnh phả vào mặt chúng tôi, ớn lạnh. Cửa chui xuống phía dưới pháo đài sâu hút hút. Bởi vậy chúng tôi tìm đủ cách nhưng không thể xuống được pháo đài ở cửa chính này
http://nd6.upanh.com/b1.s8.d2/e138f7...6.langson4.jpg
Chúng tôi theo lời ông Lợi đi tìm những cửa phụ khác để xuống phía dưới pháo đài. Sau một hồi tìm kiếm, thấy thêm một số cửa, tuy nhiên cửa thì bị vùi lấp bởi đất đá, cửa thì quá sâu không thể xuống được. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được một cửa chỉ sâu khoảng 4m, có thể nhảy xuống để chui vào sâu bên trong tầng hầm pháo đài.
Mỗi người một chiếc đèn pin, chúng tôi len vào tầng hầm của pháo đài sâu hun hút. Đường hầm được thiết kế theo hình mái vòm lớn, các bức tường có nhiều vết nứt lớn ngang dọc đan xen vào nhau. Ông Lợi giải thích, những vết nứt ấy là hậu quả của những trận bộc phá trước đây công phá pháo đài.
http://nd8.upanh.com/b2.s1.d3/c302a8...8.langson7.jpg
Càng vào sâu bên trong, chúng tôi càng rùng mình ớn lạnh. Ngửa mặt lên phía trên đường hầm, từng mảng bêtông lớn nham nhở, cảm tưởng như có thể rơi xuống đầu chôn vùi chúng tôi bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó là nỗi sợ mơ hồ về rắn rết, bom mìn còn sót lại... Nền hầm nhớt nháp, ẩm thấp. Thỉnh thoảng, tất cả lại giật thót mình vì vài cánh dơi thấy động vụt bay ra từ phía trong hầm tối.
Tiến sâu vào bên trong khoảng 40m, chúng tôi chỉ có thể di chuyển sang các đường hầm ngang dọc mà không thể tiến sâu hơn vì các cửa đường hầm đã bị lấp, bị sập. Cố gắng tìm đường xuống tầng hầm thứ 3 mãi, nhưng chúng tôi đành bất lực. Ông Lợi cho biết, hồi trước ông cũng đã thử tìm cửa xuống tầng hầm dưới nhưng không thể tìm ra.
Nỗi ám ảnh rắn rết, ma quái
Pháo đài Đồng Đăng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, là mồ chôn của hàng nghìn người. Theo các tài liệu lịch sử, khi Nhật tiến vào Đông Dương qua đường Lạng Sơn (năm 1940) và khi Nhật đảo chính Pháp (năm 1945), pháo đài Đồng Đăng chứng kiến những trận đánh ác liệt giữa quân Nhật và quân Pháp, thương vong của binh lính hai bên rất nặng nề
http://nd7.upanh.com/b3.s13.d2/f1cc5...7.langson5.jpg
Trong chiến tranh năm 1979, tại pháo đài Đồng Đăng, quân dân ta đã cầm chân được quân địch gần 10 ngày, phá tan kế hoạch đánh nhanh của địch. Trong những trận chiến ác liệt đó, thương vong của cả quân dân ta và quân địch đều rất lớn. Điều đáng đau buồn là nhiều dân thường bao gồm cả trẻ con và người già khi chui vào đây tránh bom đạn của kẻ thù cũng không tránh khỏi số phận thảm khốc.
Ông Lợi kể: “Vào năm 1995, tôi từng thắp đuốc chui vào pháo đài. Chân tôi dẫm lên trên những bộ xương kêu lạo xạo. Dưới ánh lửa lập lòe, tôi thấy đầy những xương xẩu, đầu lâu to nhỏ nhiều kích cỡ. Vài ngày sau tôi bị ốm, trong cơn miên man, tôi thường giật nảy mình vì những cơn ác mộng. Tôi hay mơ thấy có một chú bé cứ níu quần tôi kéo lại. Sau đó, tôi được các bà then, thầy mo phán rằng, tôi ốm đau là do bị hồn ma không nơi nương tựa quyến luyến(?!)”. Câu chuyện “hồn ma” nhập vào ông Lợi làm xôn xao dư luận cả thị trấn Đồng Đăng trong một thời gian dài, nói đến ai cũng biết.
Năm 2006, bộ đội Quân khu 2 đã có đợt thu lượm hài cốt tại pháo đài Đồng Đăng. Sau hàng tuần khai quật, bộ đội ta chỉ thu lượm được khoảng 30 bộ hài cốt. Hài cốt quân ta được gói bằng vải đỏ, quân địch gói bằng vải đen, còn dân thường thì gói bằng vải vàng. Trong đợt thu lượm, bộ đội cũng phát hiện hai bộ hài cốt mà kích thước của bộ xương to và dài hơn những bộ xương khác. Theo dự đoán thì đó có thể là hài cốt quân lính người Pháp ngày xưa tử trận tại đây
http://nd2.upanh.com/b4.s9.d4/bf8b77...2.langson6.jpg
Điều làm cho người dân Đồng Đăng ai cũng rùng mình khi nghĩ tới chuyện chui xuống pháo đài, theo ông Lợi cũng như nhiều người dân ở Đồng Đăng, là vì hiện nay trong pháo đài vẫn còn nhiều hài cốt, xương xẩu bị chôn vùi dưới các lớp đất đá, bêtông cốt thép, sâu hàng chục mét, rộng hàng trăm mét. Không rõ thực hư thế nào, nhưng đây là nguyên nhân chính dẫn đến những đồn thổi ma quái về pháo đài Đồng Đăng
http://nd3.upanh.com/b4.s11.d2/36605...3.langson3.jpg
Ông Hoàng Văn Niềm (Khu Pá Phiêng, thị trấn Đồng Đăng) kể, trước đây khu vực pháo đài này còn có hai con trăn rất to. Vào sáng sớm, đồng ruộng phía dưới pháo đài thường xuất hiện rõ ràng những đường trườn lớn uốn lượn giữa ruộng làm cây lúa ngả dạt sang hai bên. Người dân đoán chắc đó chính là đường đi của những con trăn lớn này.
Còn ông Lợi thì quả quyết, cách đây gần 10 năm, khi ông đi phơi sắn trên pháo đài đã nhìn thấy da con trăn lột xác để lại, dài khoảng 6 - 7m. Ông Lợi cho biết thêm, vào những ngày trời nắng, dân chuyên đi săn rắn đi quanh pháo đài Đồng Đăng trong một buổi trưa có thể bắt được 4, 5 con rắn khác nhau.
Có lẽ chính vì sự hoang phế của pháo đài mà người dân nơi đây đã thêu dệt nên những câu chuyện rắn rết, ma quỷ rùng rợn như vậy
(Theo dulich Cao Bằng)
Phục Dựng Tây Khuyết Đài_Huế
http://nd8.upanh.com/b4.s7.d2/c69a0b...77ae60451b.jpg
Tây Khuyết Đài là đài canh gác của Hoàng thành, được xây dựng đầu thế kỷ 19, nằm giữa thành phía Tây Đại nội.
Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, ông Phùng Phu cho biết, công trình bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài thuộc hệ thống di tích Cố đô Huế vừa được khởi công xây dựng.
Trước đó, cuộc thăm dò khảo cổ di tích đài Tây khuyết từ giữa năm 2010 đã đạt được những kết quả như xuất lộ nền móng kiến trúc chính hình vuông mỗi cạnh dài gần 13m kèm theo một số chân tảng (móng trụ công trình) bên trong; cạnh đó là phần nền móng của một số kiến trúc, bệ súng đại bác, hệ thống thoát nước
http://nd3.upanh.com/b6.s20.d1/9484c...973.438581.jpg
Dự án sẽ dựng lại kiến trúc chính với một ngôi nhà rường truyền thống hình vuông, kèm theo một số hạng mục công trình và các yếu tố tạo cảnh quan liên quan, nhằm đưa khu vực đài Tây khuyết trở thành điểm ngắm cảnh hoàng thành lẫn kinh thành, đồng thời là nơi trưng bày, triển lãm các chuyên đề liên quan đến di tích Huế.
Đài Tây khuyết cao 4,24m, rộng gần 1.600m², nằm giữa bức thành phía tây của hoàng thành Huế với chức năng là đài canh gác. Đài được xây dựng vào đầu thế kỷ 19 dưới thời Gia Long. Những kiến trúc này bị tàn phá do chiến tranh và tàn lụi theo thời gian từ giữa thế kỷ 20 nay sẽ được phục dựng lại. Công trình do Phân viện Khoa học Công nghệ xây dựng miền Trung thi công, với tổng mức đầu tư hơn 9 tỷ đồng.
Đây là Di tích văn hóa Quốc gia đặc biệt và là công trình nằm trong tổng thể Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới
http://nd3.upanh.com/b4.s20.d1/1bb08...efca48f3fb.jpg
Công trình bao gồm việc phục hồi Nhà canh 114,5m²; tu bổ, phục hồi tường thành lan can bằng gạch vồ, vữa bả màu truyền thống; tôn tạo sân vườn lát gạch Bát Tràng và hạ tầng kỹ thuật.
Sau khi hoàn thành, công trình Tây Khuyết Đài sẽ góp phần trả lại diện mạo kiến trúc Hoàng thành, hứa hẹn sẽ cùng Đông, Nam và Bắc Khuyết Đài là những điểm nhìn lý tưởng ở Đại nội Huế.
Trước đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản gửi Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, cho ý kiến về việc thỏa thuận Báo cáo Kinh tế kỹ thuật bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài (Đại Nội Huế) và lưu ý các cấu kiện kiến trúc đã thu thập được với số lượng nhiều và còn ở tình trạng kỹ thuật tốt (như chân tảng, gạch gốm trang trí...) cần được thống kê phân loại để nghiên cứu tái định vị; đồng thời làm rõ khối xây tường thành gốc được gia cường với khối xây phục hồi mới.
Trung tâm cần tiếp tục sưu tầm các tài liệu lịch sử có liên quan để hoàn thiện thiết kế và triển khai các bước tiếp theo của việc bảo tồn, phục hồi Tây Khuyết Đài..
(Theo dulich GO)
Nhà Thờ Cù Lao Giêng_Thánh đường đầu tiên xứ Nam Kỳ..
http://nd9.upanh.com/b5.s2.d4/db69e8...culaogieng.jpg
Giáo xứ Cù Lao Giêng còn có tên gọi là họ Đầu Nước hay họ đạo Cù Lao Giêng thuộc Giáo phận Long Xuyên, tọa lạc tại ấp Tấn Bình, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Được thành lập năm từ 1778 và là một trong những giáo xứ lớn và lâu đời nhất ở miền Tây Nam Bộ, Cù Lao Giêng có một nhà thờ cổ lớn mang đậm nét kiến trúc Roman thời Pháp thuộc.
Giữa một vùng đất phù sa, sông nước việc xây dựng nhà thờ có quy mô lớn không phải là dễ dàng vào lúc bấy giờ. Ấy vậy mà nhà thờ cổ Cù Lao Giêng vẫn uy nghi vươn lên với ngôi thánh đường thâm nghiêm, với tòa tháp chuông cao vút, với các trụ cột tròn, vững chãi liên kết cùng các ô cửa, vòm gió và các tháp nhọn nhỏ hình khối đa giác.
Nhà thờ có các cửa giả hình chữ U ngược, tạo thành một kiến trúc rất bề thế, ngoạn mục và hoành tráng. Nhà thờ hoàn thành trước nhà thờ Lớn ở Sài Gòn (Vương cung Thánh đường) mấy tháng
http://nd9.upanh.com/b6.s3.d1/577296...9.34626681.jpg
Tương truyền vào đầu thế kỷ 18, có một số người theo Thiên chúa giáo, trong đó có các Cha cố người Pháp, đến Cù lao Giêng (nay thuộc xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, An Giang) để trốn tránh các cuộc ruồng bố đạo Thiên chúa của triều đình nhà Nguyễn.
Đến khi bình yên, họ Đầu Nước do những người trốn chạy trên thành lập ngày càng phát triển.
Theo các bậc cao niên, trước năm 1946, tại Cù lao Giêng không chỉ có Tiểu chủng viện mà còn có Đại chủng viện cùng tọa lạc trên một khuôn viên, dưới quyền cai quản của Giáo Phận Tây Đàng Trong
http://nd4.upanh.com/b4.s16.d2/7bc2c...trongtdclg.jpg
Rất tiếc là cơ sở tôn giáo nầy đã bị lửa thiêu rụi gần như hoàn toàn, chỉ còn lại ngôi nhà nguyện và nhà hưu dưỡng của các Linh mục. Biến cố nầy xảy ra vào đầu năm 1946 do chiến sự lan tràn đến đây, nên cũng trong năm đó, Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng được chuyển sang Phnom Penh, Campuchia, còn các Đại chủng sinh thì được gởi lên Đại chủng viện Sài Gòn.
Sau khi Cha Sở Maille chết, Cha Augustinus - Baptista Gazignol (thường gọi là Cha Nho, sinh năm 1843, mất ngày 08/ 05/1917), thuộc Hội thừa Sai Paris (MEP) về coi sóc họ Đầu Nước thì các họ chung quanh được thành lập thêm và trở thành họ lẻ của Giáo xứ này. Kể từ năm 1927 trở đi, họ Đầu Nước chính thức có cha Sở là người Việt Nam, mà người đầu tiên đó là Cha Vân.
Theo tài liệu còn lưu lại thì: Khoảng năm 1879, dưới triều vua Tự Đức, Linh mục Gazignol khởi công xây dựng nhà thờ Cù Lao Giêng, đến 10 năm sau (1889), dưới triều vua Đồng Khánh, công trình được thiết kế theo kiến trúc Roman này mới hoàn thành. Thời Linh mục Louis Dũng trông nom giáo xứ, nhà thờ Cù Lao Giêng và nhà xứ đã được trùng tu và hoàn thành vào năm 2003. Hiện nay hầm mộ Cha Gazignol vẫn ở phía dưới lối đi bên trong nhà thờ
http://nd9.upanh.com/b3.s9.d1/3da04f...341359.123.jpg
Tu viện rộng lớn của dòng nữ tu Providence (dòng Chúa Quan Phòng), do các nữ tu người Pháp lập ra vào năm 1874. Thời Pháp thuộc, tu viện này còn là nơi thu nhận trẻ em mồ côi và những người già bệnh tật. Chính vì vậy, các nữ tu dòng Chúa Quan Phòng đã được nhiều giáo dân ở miền Tây Nam Bộ và kể cả vương quốc Campuchia đều biết đến.
Hiện nay cơ sở chính của dòng nữ tu trên được đặt tại Cần Thơ, còn cơ sở ở Cù lao Giêng chỉ còn là nơi an dưỡng của các nữ tu già yếu thuộc dòng tu này. Ngoài ra, bên cạnh Tu viện là nhà thờ cổ của dòng tu Phan-xi-cô và gần đó là phần mộ của Thánh tử đạo Emmanuel Lê Văn Phụng
(Theo dulich GO)