Rêu Nướng..Đặc Sản Người Tày Hà Giang
http://ne9.upanh.com/b6.s3.d1/c53c78...711dulich2.jpg
Lâu nay, rêu đá chỉ được coi là một loại thủy sinh không nhiều tác dụng. Nhưng đối với người dân tộc Tày ở xã Xuân Giang tỉnh Hà Giang, thì rêu đá được coi là đặc sản trong ẩm thực của họ. Các món ăn được chế biến từ rêu đá còn được gọi là quẹ. Đây là một món ăn vừa ngon, vừa bổ, lại có hương vị rất riêng.
Theo người dân địa phương, khi đi tìm rêu, họ thường chọn những bãi rêu lớn, bởi ở đó rêu vừa nhiều, vừa ngon. Rêu tươi đem về được vò đập thật kỹ cho sạch nhớt phù sa, sau đó có thể chế biến thành nhiều món.
Chị Hoàng Thị Cấp - Xã Xuân Giang, Quang Bình, Hà Giang cho biết: “Khi vớt, phải đứng ở dưới suối, nước cứ chảy từ trên xuống và lấy tay quơ ngang lấy, những cái nào non nhất thì mình cầm được còn cái già thì nó vẫn bám ở đá
http://ne1.upanh.com/b2.s4.d2/edff56...711dulich1.jpg
Rêu chỉ sống trong 7 ngày, khi nó mọc lên 3 - 4 ngày là đi vớt được rồi, còn quá 7 ngày nó trở thành màu trắng bệch và không ăn được nữa”.
Rêu suối tuy nhiều, nhưng những loại rêu ngon rất ít và rêu ăn được có theo mùa, bởi vậy đối với bà con nơi đây rêu cũng là một món ăn quý. Rêu có thể được chế biến thành nhiều món như rêu rán, rêu khô nhưng độc đáo nhất vẫn là món trộn với các loại gia vị rồi đem nướng.
Theo chị Hoàng Thị Cấp, sau khi xé tơi rêu thì trộn các gia vị như xả, lá mùi tàu, lá dăm, lá hẹ và có thể cho 1-2 hạt dổi vào để cho thơm cùng với muối, mì chính, cần cái gì thì mình cho vào tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình, sau khi trộn xong gói lá rồi nướng trên than bếp
http://ne1.upanh.com/b6.s1.d3/95348c...711dulich3.jpg
Khi nướng, người ta không phải xoay nhiều lần mà nướng chín một bên, sau đó nướng tiếp bên còn lại. Khi dùng hai ngón tay bấm thấy mềm là quẹ đã chín.
Vì rêu ăn được theo mùa nên ngoài việc chế biến rêu tươi, người ta còn phơi khô rêu, cất lên gác bếp để làm món ăn dự trữ. Chỉ có khách quý mới được đãi món rêu khô trên gác bếp.
Rêu nướng không chỉ là món ăn được nhiều đồng bào dân tộc ưa thích, mà còn có khả năng chữa nhiều bệnh, giúp lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt, ổn định huyết áp và tăng cường sức đề kháng.
(theo VTV)
Đậm Đà Hương Vị Bún Nước Lèo..
http://ne8.upanh.com/b2.s18.d2/310bd...36725988.b.jpg
Nếu người Việt miền Nam có món "canh chua cá kho tộ" vừa dân dã, vừa ngon miệng, người Hoa có cải "xá bấu", thì người Khmer có mắm "Bồ hoóc" (prô-hok), một loại thực phẩm độc đáo của riêng mình.
Và chính từ loại mắm đặc biệt nầy, đã sản sinh ra món "bún nước lèo", một thức ăn tiêu biểu không thể nào thiếu của người Khmer vùng đồng bằng Nam Bộ.
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, Trà Vinh và Sóc Trăng đã là quê hương của "bún nước lèo". Để có một nồi nước lèo thơm ngon, mùi vị đặc biệt, nguyên liệu chính là mắm "bồ hoóc" Cách làm mắm bồ hoóc cũng khá đơn giản: Cá đồng các loại, sau khi làm sạch ruột thì ngâm nước lã cho hơi ươn đi. Đưa phần cá đã ngâm qua đêm lên nia tre phơi ráo cho rỉ hết nước cá (sau nầy mắm sẽ thơm ngon hơn).
Công đoạn quan trọng nhất chính là việc rửa lại cá bằng nước muối, sau đó xếp vào lu hoặc hũ sành theo thứ tự 1 lớp muối, 1 lớp cá, 1/2 cơm nguội, đậy lại bằng mo cau khô hay vải nylong, nêm thật chặt bằng nan tre rồi đem phơi nắng khoảng 3 tuần, muốn cho mắm thật ngon, phải ủ tiếp từ 6 đến 12 tháng thì hoàn tất
http://ne7.upanh.com/b4.s17.d2/31d5e...bunnuocleo.jpg
Cá tươi được ủ chượp kỹ lưỡng, khi "chín ngấu" sẽ có mùi thơm đậm đà rất đặc biệt. Riêng Prô-hok của người Khmer Trà Vinh được làm từ nhiều loại cá biển, nên có một hương vị rất đậm đà mà không địa phương nào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể so sánh được.
Bún nước lèo tiếng Khmer gọi là "nụm choóe". Việc quan trọng nhất của món ăn nầy là khâu pha chế nước lèo: nước lèo ngon thì bún mới thật ngon. Trước tiên, mắm được nấu trong nước sôi cho đến khi rã thịt thì lọc bỏ xương lấy nước để riêng. Sau đó, hầm một nồi súp gồm cá lóc, cá kèo (có thêm xương heo, xưong gà để lấy chất ngọt).
Cá sau khi chín, vớt ra để ráo, rút hết xương, quết với sả ớt băm nhuyển. Có được súp, ta lấy nước mắm đã lọc hết xương khi nãy đổ chung với nước súp, nấu sôi lên. Hỗn hợp súp xương và nước thịt mắm gọi là "nước lèo". Gia vị nêm là đường, muối, sả ớt. Đặc biệt để tạo mùi thơm đặc trưng thì không thể thiếu sự góp phần của củ ngải bún (một loại củ nhỏ khoảng đầu đũa, màu giống như củ gừng nhưng hơi trong, thường được trồng ở các gò đất cao). Khi nấu nước lèo chúng ta cũng cần bỏ thêm vào một nắm nhỏ sả cây để tạo mùi
http://ne9.upanh.com/b1.s11.d2/715ad...bunnuocleo.jpg
Ngoài ra, qua thời gian, từ những kinh nghiệm thực tiển, để chế biến thêm, người ta còn cho vào nồi nước lèo nấm rơm chẻ đôi hay xắt mỏng hoặc tép đập dập đã được trộn với sả ớt. Hoàn tất xong các công đoạn, chúng ta sẽ có được một nồi súp nước lèo tuyệt hảo: trong, ngọt và thơm lừng mùi mắm. Với phần rau ghém gồm: bắp chuối xắt mỏng (ngâm trong nước lạnh có pha chanh để cho bắp chuối trắng và bớt chát), bông súng cắt ngắn (khoảng 5 mm), giá, hẹ, rau thơm, chanh (hay giấm chua) và ớt hiểm (một loại ớt trái nhỏ khoảng đầu đũa ăn).
Một vốc sợi bún trắng, dẻo (trụn vài lần trong nước sôi cho nóng) được xé tơi để vào trong tô, trên mặt là một nhúm rau ghém các loại, người ta chan vào đấy vài giá nước súp nghi ngút khói có trộn lẩn với thịt cá, tép và những lát nấm rơm. Thế là đã có được một tô bún nước lèo hấp dẫn và ngon lành. Để tăng thêm phần ngon miệng, người ta ăn kèm thêm: thịt heo quay, bánh cóng và chả giò chiên giòn
http://ne9.upanh.com/b1.s1.d3/edc93e...79.bunnuoc.jpg
Bún nước lèo là một món ăn bình dân, giá cả phải chăng. Không riêng gì người Khmer, mà cả người Kinh và người Hoa ở Trà Vinh đều rất ưa thích. Và có lẽ, cũng chính từ món bún nước lèo của người Khmer, cái lẩu của người Hoa, sau những cải tiến đã cho ra đời món "lẩu mắm" với hương vị đặc trưng riêng biêt. Trước đây, bún nước lèo ở Trà Vinh được bày bán trên các sạp tre ở chợ quê, hay gánh rong theo các Phum Sóc. Thực khách dùng đũa và từng miếng lớn, thỉnh thoảng lại húp nước lèo soàn soạt hay cắn chút ớt hiểm cay xè.
Với từng ấy hương vị hoà quyện cùng nhau, cộng với cái nóng sốt của nồi nước lèo lúc nào cũng chểm chệ trên bếp than hồng toả mùi thơm quyến rũ, đã đủ khiến cho ai đã ăn qua một lần không thể nào quên. Hiện nay thì đặc sản nầy đã được đưa vào danh sách món ăn ở các nhà hàng lớn tại Trà Vinh Bún nước lèo - một thức ăn đậm đà tính dân tộc, không chỉ riêng của người Khmer, mà còn là của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện bản sắc văn hoá đầy chất phóng khoáng, không câu nệ, cầu kỳ của người dân Nam Bộ hiền hoà, chân chất.
(theo tiengthotoi blog)
Thưởng Thức Đặc Sản Mọi Miền Ở Hà Nội..
http://ne3.upanh.com/b6.s1.d4/656c1c...cdvthangco.jpg
Thắng cố Tây Bắc, bánh đa của Hải Phòng, cháo lượn Nghệ An, bánh canh miền Trung... là những món ăn đặc sắc có thể thưởng thức ở Hà Nội.
Với nhiều người, Hà Nội quả là một thiên đường ẩm thực. Tại đây, thực khách không chỉ được thưởng thức những món ăn nổi tiếng của đất Hà thành mà còn có cơ hội trải nghiệm nhiều món ăn đặc sắc đến từ các vùng miền khác nhau trên cả nước.
Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H'mông ở các tỉnh miền núi Tây Bắc. Món ăn này được chế biến từ thịt bò, thịt trâu, thịt ngựa và thịt lợn với các bộ phận như: lòng, tim, gan, tiết, thịt, xương, được cho vào chảo nước đun nhừ, có thể cho thêm các loại rau. Khi ăn, chảo vẫn để trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó.
Tại Hà Nội, có thể thưởng thức món ăn này tại quán thắng cố Hà Thành trên đường Hoàng Quốc Việt. Cần lưu ý là món thắng cố tại đây đã được cải biên ít nhiều, chỉ tinh lọc bộ lòng ngựa và tiết ngựa thay vì "tạp phí lù" như thắng cố nguyên bản.
http://ne0.upanh.com/b1.s17.d2/75a98...vbanhdacua.jpg
Bánh đa cua là một món ăn dân dã, rất phổ biến tại Hải Phòng. Một bát bánh đa hấp dẫn loại này phải hội tụ đủ ngũ màu: màu gạch cua nâu hồng, màu bánh đa nâu sậm, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, chanh; màu đỏ tươi nơi trái ớt và vàng rộm của hành khô.
Màu sắc bắt mắt kết hợp với hương vị thơm ngon, béo ngậy chắc chắn làm thực khách nếm một lần sẽ không thể nào quên. Một số địa chỉ bánh đa của Hải Phòng tại Hà Nội: gánh hàng số 27 Hàng Cá, bánh đa cua bà Liên phố Lê Lợi, quán số 22 Trần Khát Chân.
http://ne1.upanh.com/b2.s15.d2/ffc2a...eninhbinh2.jpg
Khi nhắc đến ấm thực của đất cố đô Ninh Bình, không thể không nhắc đến thịt dê núi. Thịt dê nơi đây nức tiếng ngon hơn các vùng khác bởi hai lẽ: thứ nhất, dê Ninh Bình nuôi trên núi đá, ăn các loại lá cây đa dạng nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi; thứ hai, người Ninh Bình có bí quyết riêng để chế biến các món từ thịt dê.
Một số quán chuyên về dê núi Ninh Bình ở Hà Nội là Dê Núi Anh Thư ở 55 Đại Cồ Việt, quán “Hà dê” ở số 63 Phạm Hồng Thái
http://ne5.upanh.com/b4.s18.d2/8643b...uonnghean2.jpg
Xứ Nghệ vốn nổi tiếng với nhiều đặc sản được rất nhiều người ưa thích như cà pháo Nghi Lộc, nước mắn Diễn Châu, cam Xạ Đoài, “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”.... và tất nhiên không thể không nhắc đến món cháo lươn, một đặc sản và là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ.
Có khá nhiều quán bán cháo lươn Nghệ An ở Hà Nội như: số 43 Trần Hữu Tước, số 64 đướng Láng, số 112 Nghi Tàm, quán lươn đầu dốc Hoàng Quốc Việt
http://ne1.upanh.com/b6.s12.d2/0dd37...cdvmyquang.jpg
Có xuất xứ từ tỉnh Quảng Nam, mỳ Quảng đã trở thành một món ăn đặc trưng của cả miền Trung Việt Nam. Sợi mì được làm bằng bột gạo xay mịn hoặc bột mì và tráng thành từng lớp bánh mỏng, sau đó thái theo chiều ngang để có những sợi mỏng khoảng 2mm. Dưới lớp mì là các loại rau sống, trên mì là thịt lợn nạc, tôm, thịt gà cùng với nước dùng được hầm từ xương lợn. Ngoài ra, trong bát mì Quảng còn có thể có thêm lạc rang khô và giã dập, bánh đa, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ...
Ở Hà Nội, có thể thưởng thức mỳ Quảng ở quán Huế - Ngự Bình ở góc Láng Hạ - đường Láng, quán bánh xèo Chính Thắm trên đường Thái Hà.
http://ne7.upanh.com/b4.s8.d2/a0a705...dvbunbohue.jpg
Là một đặc sản của xứ Huế, bún bò Huế có hương vị rất riêng với nước dùng làm từ xương bò hầm chín có cho thêm mắm ruốc và chả lợn hay chả bò quyết nhuyễn. Thịt bò có thể xắt mỏng, được nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào bát bún (gọi là thịt bò tái). Bún bò Huế được ăn kèm với rau sống gồm giá, rau quế, chanh, bắp chuối, rau…
Có khá nhiều quán bán bún bò Huế ở Hà Nội, nhưng phải vào đúng quán do người Huế làm thì mới cảm nhận hết vị thơm ngon của món ăn này. Một số địa chỉ đáng lưu ý: quán số 7 Thái Phiên, số 22 Hàng Hành và một quán đầu đường Phạm Ngọc Thạch.
http://ne2.upanh.com/b3.s16.d2/3553e...dvbanhcanh.jpg
Bánh canh là một món phổ biến ở miền Trung và Nam Việt Nam. Bánh được làm từ bột gạo, bột mì, hoặc bột sắn hoặc bột gạo pha bột sắn, được cán thành tấm và cắt ra thành sợi to và ngắn. Nước dùng được nấu từ tôm, cá, chân giò... thêm gia vị tùy theo từng loại bánh canh. Bánh được bỏ vào nồi nước dùng đã hầm vừa đủ độ và đợi cho chín tới. Gia vị cho bánh canh thay đổi tùy theo món bánh canh và tùy theo khẩu vị mỗi vùng.
Bánh canh có thể dùng kèm với cá đã róc xương, chả cá, chân giò, tôm, thịt... Các quán ở số 104 Đại Cồ Việt, ngõ 18 Huỳnh Thúc Kháng, 5D Quang Trung... là địa chỉ để thưởng thức món ăn này ở Hà Nội.
http://ne4.upanh.com/b3.s5.d3/72d348....cdvcomtam.jpg
Cơm tấm Sài Gòn là món đặc sản của miền Nam Việt Nam, được nấu từ hạt gạo tấm. Khi ăn, cơm được bày ra đĩa cùng nhiều thức ăn kèm theo như sườn nướng, chả trứng, trứng ốp-la, bì và đồ chua như đu đủ, cà rốt, củ cải, dưa chuột dấm... Ngoài ra, ăn cơm tấm phải có nước mắm ngọt, là nước mắm pha với nước lọc và thêm đường.
Một số quán cơm tấm ngon ở Hà Nội: 102K1 Giảng Võ, 59 Tràng Thi, 79A Trần Hưng Đạo, 13 Lý Thái Tổ..
(theo daatviet)
Nghề Sờ" Vú Nàng" Giữi Đại Dương..
http://ne6.upanh.com/b4.s6.d2/1e607c...26.t594625.jpg
Nhờ có nghề "sờ vú nàng" này mà nhiều ngư trường đã trúng hàng trăm triệu, hàng tỷ. Có đợt ngư dân trên huyện đảo Lý Sơn đổ xô tập trung đi dài ngày để khai thác "vú nàng".
Vú nàng (còn gọi là vú biển, hải sâm) được coi là "thần dược tình yêu" - món hải sản đặc biệt, giá đắt đỏ, khoảng 1,6 triệu đồng/kg, nên có sức hút mãnh liệt, lôi cuốn hàng trăm ngư dân hành nghề lặn ở huyện đảo Lý Sơn tham gia khai thác.
"Thần dược" vú nàng
Những năm của thập niên 70-80 thế kỷ trước, hải sâm ở các vùng biển nước ta còn nhiều vô kể, riêng huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi chỉ cần chạy tàu thuyền ra khỏi bờ khoảng vài chục hải lý là ngư dân có thể lặn xuống bắt được hàng tá
Thế nhưng do giá hải sâm lúc bấy giờ vẫn còn rất thấp, mặt khác thị trường tiêu thụ khó khăn vì thế khi bắt được, nhiều ngư dân trên đảo chẳng "so đo nhiều" liền đem về luộc, nấu cháo cho cả nhà và hàng xóm cùng ăn. Về sau ăn mãi cũng chán nên một số người đem ngâm rượu uống, hoặc để biếu cho người thân, bạn bè ở đất liền.
http://ne9.upanh.com/b6.s5.d3/32664a...49.t594627.jpg
Theo lời ngư dân trên đất đảo, nếu trên rừng có nhân sâm thì dưới biển có hải sâm. Hiếm có phương thuốc, loại thức ăn nào bổ dưỡng và có thể hồi phục sức khoẻ nhanh bằng hải sâm. Đi làm về mệt chỉ cần ăn được một bát cháo hải sâm thì chỉ ít phút sau sẽ thấy người khoẻ lại ngay. Còn rượu Hải sâm ngoài chuyện bổ thì nó còn được xem là một phương thuốc... giã rượu vô cùng hữu hiệu của những tay nhậu đất đảo.
Anh Nguyễn Văn Tùng (36 tuổi), ngư dân ở An Vĩnh nói "chắc như đinh đóng cột": Nhiều lúc say bí tỉ nhưng sau khi về đến nhà vớ lấy hũ và uống 2-3 ly rượu ngâm hải sâm thì chỉ mươi phút sau đã thấy người tỉnh hẳn, có thể đi "chiến đấu tiếp hiệp hai với đám bạn nhậu". Nhiều đấng mày râu trên đảo "nửa đùa, nửa thật" bảo đây là loại hải sản mà "ông ăn nhưng bà lại khen ríu rít".
Ngư dân cho biết ban đầu không hiểu sao sau mỗi phiên đi lặn trở về, dù giá khá đắt thế nhưng nhiều người vợ vẫn kiên quyết giữ lại một con chế biến thành thức ăn, hoặc nấu cháo cho chồng ăn. Một số khác tuy ghét cay ghét đắng, thậm chí cấm chồng đi nhậu, thế nhưng nếu biết thứ "nước cay", hay mồi mà phu quân đang uống, nhấm là hải sâm thì họ chẳng la lối gì. Về sau tìm hiểu được sự việc, trước khi ra khỏi nhà đi nhậu với bạn bè, để không bị "bà nhà" chì chiết, nhiều ông chồng đã "thật thà": Nó mới đi lặn vô được con hải sâm nên để lại làm mồi và mời đến lai rai chút xíu.
Quà tặng của đại dương
Tuy cùng một tên gọi, thế nhưng hải sâm có hơn chục loại khác nhau: Vú, đồn đột, áo tơi, ngậng, vải, da trăn...trong đó đắt tiền nhất là loại vú. Con vú có hình dáng giống như con nhộng, chỉ khác phía dưới phần bụng vú có 2 hàng vú, với mỗi bên từ 3-5 núm. Vì thế ngư dân mới đặt tên cho nó là con vú. Trọng lượng của vú từ 800gr-3kg/con
http://ne0.upanh.com/b2.s17.d2/4c2e6...utrgtp7001.jpg
Theo ngư dân đảo Lý Sơn thì từ trước đến nay, con vú to nhất mà họ đã bắt được là vào năm 2007, nặng gần 3kg. Khi còn sống ở dưới biển, nơi to nhất của thân vú từ 30-40cm, dài từ 1-1,2m. Tuy nhiên khi bắt lên bờ thì vú co lại, với chiều dài từ 20-40cm, bề ngang từ 7-15cm. Sau khi bắt lên, vú được ngư dân mổ bụng, lấy ruột bỏ rồi đem ướp muối.
Theo thị trường hiện nay thì giá mỗi kg vú khoảng 1-2 triệu đồng/kg. Còn các loại hải sâm khác giá thấp hơn, từ vài chục đến hơn năm trăm ngàn đồng/kg. Hải sâm ở vùng biển nước ta khá nhiều và phân bố khắp nơi, nhưng tập trung nhất là những vùng đáy đất cát không pha tạp chất, như quần đảo Trường Sa.
Hải sâm thường sống dưới độ sâu từ vài chục đến cả trăm mét, gần khu vực có đá ngầm, rặng san hô... Mùa khai thác hải sâm hàng năm của ngư dân Lý Sơn ở ngư trường trong nước thường bắt đầu từ tháng giêng và kéo dài đến tháng 10 âm lịch.
http://ne9.upanh.com/b4.s4.d2/edf59c...29.t594628.jpg
Tuy được xem là loại hải sản qúy và việc khai thác hải sâm ở Lý Sơn đã diễn ra từ mấy chục năm qua, thế nhưng do thu nhập từ lặn bắt hải sâm không bằng các loại hải sản khác, lại nguy hiểm nên ngư dân trên đảo không "mặn mà" lắm.
Đến thời điểm cuối 1999, đầu 2000, khi hải sâm bắt đầu có giá, thì nghề lặn hải sâm nơi đây đã dần dần tạo nên một "cơn sốt", lôi cuốn đông đảo ngư dân Lý Sơn tham gia. Hiện trên đảo Lý Sơn có hơn 10 tàu thuyền chuyên tập trung đi dài ngày khai thác hải sâm.
"Rái biển" Hoàng Minh Trọng (37 tuổi), ở An Hải tâm sự: Lặn hải sâm có thu nhập cao hơn từ 2-3, thậm chí gấp 5 lần so với đánh bắt hải sản khác. Bình quân mỗi thuyền đi lặn hải sâm có từ 10-14 người, gồm: một nấu ăn và 1-2 lái tàu; thời gian mỗi chuyến ra khơi kéo dài từ 30-45 ngày, mỗi thợ lặn được chia từ 20-30 triệu đồng/người, có khi may mắn, mỗi người được lĩnh hơn 150 triệu đồng/ chuyến đi kéo dài vài tháng.
Bên cạnh đó dụng cụ hành nghề lặn hải sâm khá đơn giản. Ngoài tàu thuyền, chỉ cần sắm 2-4 bộ đồ chuyên dụng, máy nén, dây dẫn hơi, kính lặn...với tổng trị giá khoảng 20 triệu đồng; trong khi đó để sắm ngư cụ, như nghề lưới rút thì phải mất từ 500 triệu-1 tỉ đồng.
Từ lặn hải sâm, nhiều ngư dân đất đảo Lý Sơn đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Và con hải sâm đã giúp không ít gia đình ngư dân của đảo trở nên sung túc, giàu có, góp phần làm thay đổi diện mạo đời sống mọi mặt của vùng đất đảo
http://ne6.upanh.com/b3.s13.d5/413d7...66.t594626.jpg
"Xuất ngoại" tìm…vú
Trước sự săn bắt ráo riết, lượng vú và các loại khác hải sâm nói chung ở ngư trường trong nước ngày một khan hiếm dần. Thế nhưng không vì vậy mà sức hút từ vú đối với ngư dân Lý Sơn giảm đi, ngược lại khao khát "đổi đời" từ loại hải sản qúy này càng bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Thậm chí, nhiều ngư dân trên đảo Lý Sơn đã "xuất ngoại" sang các nước láng giềng để tìm... vú.
Nhờ vào sự quen biết và uy tín của anh Nguyễn Văn Tường (42 tuổi), ở xã An Hải, chúng tôi mới tiếp cận và trò chuyện được với một số thợ lặn vừa trở về sau chuyến đi đầu tiên. Theo lời của họ thì chuyện ngư dân trên đảo "xuất ngoại" để lặn hải sâm cũng chỉ là sự tình cờ. Trong quá trình đi lặn ở các tỉnh phía nam: An Giang, Tiền Giang...ngư dân Lý Sơn đã vô tình nghe được thông tin một số Công ty có chức năng địa phương, nhiều tàu thuyền ở các tỉnh này đã làm các thủ tục và được phép sang khai thác hải sản ở nước bạn.
Với thợ lặn Lý Sơn thì ngư trường nước bạn như: Inđônêxia, Malaixia không xa lạ gì. Bởi lẽ với con mắt "nhà nghề" và không ít lần đã khai thác ở khu vực giáp ranh nên họ hiểu, nắm bắt và dự đoán khá rõ về nguồn hải sâm ở khu vực biển những nước này. Cho nên đối với thợ lặn Lý Sơn, nhất là những người hành nghề lặn hải sâm thì ngư trường ở các nước nói trên chẳng khác nào là miền đất hứa.
Nhiều ngư dân huyện đảo nhờ nhạy bén “xuất ngoại” khai thác hải sâm nên trúng tiền trăm triệu, tiền tỷ
http://ne1.upanh.com/b6.s6.d3/dd6b78...6730711.52.jpg
Ốc vú nàng
Cũng mang tên vú nàng, nhưng là loài ốc - ốc vú nàng đã khiến nhiều người tò mò, tìm hiểu, muốn khám phá để rồi ngạc nhiên khi gặp gỡ và mê mẩn lúc thưởng thức.
Ốc vú nàng có hình dáng giống đôi gò bồng đảo của các cô gái dậy thì căng tròn đầy sức sống. Ốc lớn bằng kích cỡ "vú nàng thật", được bao bọc bên ngoài lớp vỏ bằng xà cừ cứng chắc. Nếu dùng cát xát vào vỏ thì toàn thân ốc ửng lên một mầu hồng tuyệt đẹp và gợi cảm.
Loài ốc này có nhiều ở vùng biền miền Trung, đặc biệt ở Côn Đảo và vịnh Vĩnh Hy (Ninh Thuận). Ở Côn Đảo, người ta thưởng thức vú nàng bằng cách cầm con dao nhỏ ra bờ biển, ngồi trên gộp đá mà cạy. Được con nào thì lật ngửa, vắt chút chanh rồi dùng lưỡi dao tách thịt cho vào miệng với chút muối tiêu. Vú nàng giòn, ngọt độc đáo; đặc biệt những con ngậm sữa sẽ cho vị béo không sao diễn tả.
(theo vietnamnet)
Văn Hóa Ẩm Thực Chợ Bến Thành Sài Gòn..
http://ne9.upanh.com/b2.s9.d1/52a627...anhmarket1.jpg
Nếu ai đó có lần đặt chân đến Sài Gòn, nếu ai đó đã từng được nghe kể về mảnh đất nơi đây hoặc có người thân, họ hàng sinh sống và làm việc tại mảnh đất này… chắc chắn sẽ không thể không biết đến cái tên hết sức quen thuộc và nổi tiếng: chợ Bến Thành.
Từ lâu chợ Bến Thành hiện hữu trong đời sống của người dân thành phố như một phần không thể thiếu, đó không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt là nét văn hóa ẩm thực.
Vậy văn hóa ẩm thực chợ Bến Thành có gì đặc sắc, hấp dẫn? Và tại sao chỉ là cái chợ thôi mà nó lại trở thành một cái gì đó không thể không nhắc đến khi nhắc tới thành phố mang tên Bác. Chợ Bến Thành còn gọi là chợ Sài Gòn trước đây hơn một thế kỷ, được lập lên ở phía sông Bến Nghé gần với thành Gia Định
http://ne2.upanh.com/b4.s5.d3/9ecec4...2247197560.jpg
Cũng theo các tài liệu ghi lại thì lúc đầu chợ Bến Thành ở phía đông huyện Bình Dương (lúc đó Bình Dương còn là một huyện của thành Gia Định). Vì chợ nằm dọc theo bến sông trước thành Phiên An (Gia Định) nên được gọi là chợ Bến Thành (có nghĩa là ngôi chợ trên bến sông của thành Gia Định).
Trải qua thời gian, chợ nhiều lần được di dời. Hiện nay, chợ Bến Thành nằm ở trung tâm thành phố và trở thành một địa điểm hết sức quen thuộc với người dân Việt Nam và du khách quốc tế.
http://ne1.upanh.com/b4.s3.d3/7f8ed7...geview0022.jpg
Cũng như chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, hàng hóa trong chợ Bến Thành rất phong phú và đa dạng, dường như có đủ các mặt hàng, các sản phẩm trong nước và các hàng công nghệ hiện đại trên thế giới. Nhưng nổi bật lên trong số đó là những món ăn mang đậm dấu ấn quê nhà. Khi nhắc đến chợ Bến Thành nếu bỏ qua nét ẩm thực nơi đây thì sẽ mất đi rất nhiều phần thú vị, hấp dẫn và ý nghĩa.
Đặt chân vào trong chợ, đi qua những hàng bày bán quà lưu niệm, quần áo, giày dép… chúng ta sẽ đến nơi bày bán các món ăn. Đến đây mọi người sẽ dễ dàng nhận thấy sự phong phú của các món ăn
http://ne4.upanh.com/b3.s12.d1/9c64d...84.img2071.jpg
Với sự góp mặt của đầy đủ các món ăn từ khắp mọi miền đất nước, văn hóa ẩm thực chợ Bến Thành là sự kết hợp khéo léo và tinh tế của những nét văn hóa ẩm thực vùng miền, tạo nên một nét văn hóa vừa đa dạng vừa độc đáo: từ mùi hương ngào ngạt của món phở đến cái vị dẻo dai đậm đà của món bánh bèo, bánh cuốn, từ mùi thơm của chiếc bánh xèo chiên giòn, những đĩa chả giò, chả lụa đẹp mắt đến hơi khói bốc lên cả một góc chợ của mùi hủ tíu… Tất cả mang lại cho con người cảm giác gì đó rất mới lạ nhưng cũng nghe chừng quen thuộc quá.
Và nếu nghe bụng đói, có lẽ là một đĩa cơm tấm với món cá kho tộ, món canh chua hay một đĩa chả ram, một món khổ qua nhồi thịt sẽ làm cho lòng ấm lên.
http://ne4.upanh.com/b2.s10.d3/02750...3690banhbo.jpg
Không gian trong chợ có phần chật chội, chen chúc tạo cho ta một cảm giác khó chịu nhưng biết đâu đó, nó lại tạo cho ta một cảm giác ấm cúng. Từ những món ăn đến cái không gian hạn chế ấy biết đâu nó lại làm cho con người xích lại gần nhau hơn. Biết đâu từ những cái va chạm khe khẽ họ sẽ quay lại nhìn nhau, mỉm cười và trò chuyện cởi mở với nhau. Họ lại nhận ra nhau trong cái gu thưởng thức…
Khi nói đến chợ Bến Thành sẽ rất thiếu nếu như không nói đến chợ đêm. Những món ăn được bày bán rất nhiều và không gian của khu chợ đêm có phần rộng rãi, thoáng đãng hơn. Các hàng quán được mở rộng và lúc này cũng nhộn nhịp náo nhiệt bởi tiếng cười nói của người lớn, trẻ nhỏ hòa cùng không khí gia đình…
http://ne0.upanh.com/b2.s8.d2/27d04f...anh0165375.jpg
Nếu chợ ngày hạn chế về thời gian đối với những người thành phố thì chợ đêm lại là một nơi lý tưởng. Sau một ngày làm việc mệt mỏi và sức ép của cuộc sống thường nhật, những người thân trong gia đình có ít thời gian ngồi bên nhau, bạn bè ít có cơ hội gặp gỡ trò chuyện thì chợ đêm là một sự lựa chọn hợp lý.
Chợ Bến Thành từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu đối với người dân thành phố và cũng là một địa điểm quen thuộc của những người từ phương xa tới. Và cũng từ lâu chợ Bến Thành trở thành một địa điểm thu hút các du khách góp phần tạo nên sức hấp dẫn của du lịch thành phố.
Nếu vấn đề về không gian, về vệ sinh an toàn thực phẩm và giá cả được quan tâm thực hiện một cách hợp lý cùng với việc mở rộng, tạo thêm sự phong phú đa dạng trong các món ăn hơn nữa thì trong tương lai chợ Bến Thành sẽ trở thành một địa điểm nổi tiếng mang những nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của Việt Nam.
(theo Ẩm Thực VN)