Trong Tam Quốc diễn nghĩa làm gì có tích nào gọi là Kê Lặc ? sao cứ thấy đầu dê - thịt chó lẫn lộn thế nhỉ !.
Dù xem truyện cách đây đã gần 40 năm, nhưng tôi vẫn khẳng định đó là hai chữ : Kê Cân.
Printable View
Trong Tam Quốc diễn nghĩa làm gì có tích nào gọi là Kê Lặc ? sao cứ thấy đầu dê - thịt chó lẫn lộn thế nhỉ !.
Dù xem truyện cách đây đã gần 40 năm, nhưng tôi vẫn khẳng định đó là hai chữ : Kê Cân.
Giải nghĩa
Kê lặc nghĩa là miếng sườn gà, dùng với những nghĩa sau:
1. Ví với chuyện làm một việc nào đó không có ý nghĩa, không có giá trị nhưng không làm thì tiếc.
2. Cũng dùng để ví với thân thể gày gò.
Thành ngữ Hán có liên quan
食鸡肋 (Thực kê lặc)
如嚼鸡肋 (Như tước kê lặc)
食之无味,弃之可惜 (Thực chi vô vị, khí chi khả tích)
杨修鸡肋 (Dương Tu kê lặc)
鸡肋功名 (Kê lặc công danh)
Em xin có vài điều góp ý về việc tranh luận từ ngữ Hán Việt thế này : Ngày trước học chữ Hán các cụ có bài vè nhằm ghi nhớ cách viết chữ được dễ dàng hơn ,đó là bài: Chim chích mà đậu cành tre - Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm. theo em nghĩ hồi xưa các cụ đồ nhà ta học chữ Hán hầu như học theo cảm tính,nhìn rồi nhớ máng máng không nắm được chắc cú căn bản. \\\\trong chữ Đức thực là không có bộ Tứ mà là bộ Võng. Nhưng khi viết lên nhìn na ná nhau nên các cụ chúng ta cũng nhầm lẫn thành bộ Tứ.
Em nghĩ trước hay sau không quan trọng,quan trọng là khi phát hiện ra nhầm lẫn thì sửa chữa thôi. Chữ kê cân theo em đọc trong Tam Quốc có bản dịch như vậy,không biết chữ Cân viết thế nào nhưng chữ kê lặc được dân gian trung quốc dùng nhiều theo tích này .
Chữ Kê nghĩa là Gà, chữ Cân nghĩa là Gân. Kê Cân nghĩa là cái gân con gà.
Chữ Đức đúng là có chữ tứ, cách viết chữ Hán nhiều khi không nhất thiết phải thật chuẩn. Ví dụ như : Chữ Nhật đôi khi viết cần kéo dài nét sổ bên phải xuống, thuật ngữ gọi trường hợp đó là chữ Nhật què , hoặc chữ Tâm khi viết ghép vào bên trái chữ khác, thì phải viết thành : trùng tâm.
Vãn bối thì lại cho rằng trong chữ Đức không có bộ Tứ. Mà đó là bộ Võng.