Đường Lang Quyền (Bọ Ngựa )
Printable View
Đường Lang Quyền (Bọ Ngựa )
Tuyêt kỹ
Quả chạy trên mặt nước hay quá =D>, còn quả người bay kia thì bịp bợm 100%, lúc trước cũng xem 1 clip ông sư ngồi cao tít, hóa ra cái cọc ở bên cạnh là mấu chốt vấn đề (thằng cò mồi kia còn cố tình làm hàng làm họ sợ quá ;)))
Đây rồi, mời các bác xem link này :D :
Video: Có hay không chuyện người đàn ông ngồi trên... không
Nói tóm lại là cũng vì cơm áo gạo tiền nên nhiều người tìm đủ mọi cách để lòe thiên hạ, nhưng xem ra thế cũng còn lịch sự chán.
HỔ QUYỀN
(Nhân lục thập hoa giáp, thân tặng Những Con Cọp Canh Dần 1950)
Võ sư Trương Văn Bảo
Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam
Tượng hình quyền là nội dung trác tuyệt tạo nên nét đẹp văn hoá võ thuật cổ truyền. Những bậc chân sư tiền bối qua nhiều thế hệ đã dày công nghiên cứu các thế tấn công, phòng thủ, phản công, khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh sinh tồn của nhiều loài động vật mà tạo thành những bài võ truyền thống nổi tiếng, trong đó có Hổ quyền.
Theo nghiên cứu về động vật, Hổ là loài thú quý hiếm, có tên khoa học là Panthera Tigris, thuộc họ mèo (Felidae), đầu lớn, tròn, cổ ngắn, tai nhỏ, bốn chân to khoẻ, móng sắc và nhọn, nhanh nhẹn, có sức mạnh. Một con hổ trung bình nặng 150 - 200kg, đặc biệt có thể nặng đến 300kg, thân dài khoảng 1,5 - 2m, đưôi dài khoảng 1m. Đuôi hổ giữ vai trò quan trọng trong các động tác vồ, nhảy qua trái hoặc phải, xoay trở trước, sau.... Da lưng hổ màu vàng, có vằn đen, phía bụng và trong chân có lông màu trắng.
Hổ thường sống một mình ở rừng già và những vùng rừng núi có nhiều cỏ tranh. Chỗ ở của hổ không cố định, ban ngày nằm phục ở một chỗ, ban đêm mới hoạt động săn mồi. Tại các miền rừng núi Việt Nam không mấy nơi không có hổ nhưng nổi tiếng có hổ Hoà Bình, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên và vùng rừng núi Trường Sơn Trung bộ. Mỗi lứa hổ sinh từ 2 - 4 con, con sống với mẹ 1 - 2 năm. Hổ còn có tên gọi khác là cọp, hùm…
Hổ quyền là tượng hình quyền và là một võ kỳ của Võ thuật cổ truyền, yếu chỉ quyền pháp nhằm luyện gân cốt, chỉ lực cùng sự vững chãi, nhanh nhẹn, phát huy nội lực, để có sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt khi phát kình nội lực, lúc phát nổi ngoại công. Hổ quyền mô phỏng động tác, tư thế tấn công, phòng thủ của loài hổ trong đời sống rừng xanh hoang dã. Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm bởi tính cách uy nghi, hùng dũng. Hổ chỉ tấn công trong trường hợp tự vệ và khả năng chiến đấu của hổ rất cao, đặc biệt là hổ trảo.
Có nhiều chiêu thức chiến đấu tượng hình đặc thù mang tên loài hổ để diễn tả các thế đánh trong Võ thuật cổ truyền ở các bài quyền truyền thống: Hiện long tàng hổ, Nhị hổ tiềm tung, Mãnh hổ xuất sơn, Hồi đầu hổ vĩ, Bạch hổ khởi động, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm, Hổ bằng báo lang, Mãnh hổ phục địa, Ngạ hổ tha dương, Sơn trung cầm hổ, Lãn hổ thân yêu, Lão hổ thượng sơn, Bạch hổ xuất động…
Theo quan niệm dân gian Á Đông, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc, hổ là một hình ảnh uy nghi, đầy ấn tượng. Hổ tượng trưng cho sức mạnh và dân gian cũng đã thần thánh hóa hổ, cho hổ một sứ mạng thiêng liêng có khả năng diệt trừ được ma qủy. Có hình hổ trấn giữ ở cửa thì tà ma không dám thâm nhập. Bởi vậy hình tượng hổ đã trở thành phổ biến trong đời sống văn học, nghệ thuật dân gian, đặc biệt hổ đã được vẽ thành tranh và tạc thành tượng để thờ ở các đền, đình, miếu, điện...
Hổ có vị trí chủ đạo trong Võ thuật cổ truyền, có nhiều bài quyền về hổ. Trong Ngũ hình quyền thì hổ ở vị trí thứ hai: Long, Hổ, Xà, Hạc, Báo. Bài Ngũ Hổ Cứ Sơn tả về 5 con hổ. Ngũ hổ là Hắc hổ, Thanh hổ, Xích hổ, Hoàng hổ, Bạch hổ. Màu sắc và phương vị trấn giữ của Ngũ hổ cũng theo ngũ hành mà sắp đặt: Hắc Hổ tướng quân màu đen, trấn nhậm ở phương Bắc, thuộc Thuỷ. Thanh Hổ tướng quân màu xanh, trấn nhậm ở phương Đông, thuộc Mộc. Xích Hổ tướng quân màu đỏ, trấn nhậm ở phương Nam, thuộc Hoả. Hoàng Hổ tướng quân màu vàng, trấn nhậm ở Trung Ương Tứ Quý, thuộc Thổ. Bạch Hổ tướng quân màu trắng, trấn nhậm ở phương Tây, thuộc Kim.
Hổ gần gũi với đời sống con người nên có nhiều danh từ, thành ngữ mang tên hổ: Tướng giỏi gọi là Hổ tướng; ấn tín của quan võ gọi là Hổ phù; nơi ở và làm việc của quan võ chỉ huy quân sự ngày xưa có treo bức trướng thêu hình hổ gọi là Hổ trướng; một số loài rắn độc qúy hiếm có tên hổ như rắn Hổ trâu, Hổ lửa, Hổ mang… Các thành ngữ: Hổ phụ sinh hổ tử; Hổ dữ chẳng cắn con; Hổ chết về da, người ta chết về tiếng…
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Hổ Quyền là tên gọi một đấu trường, trong quần thể di tích cố đô Huế, tọa lạc tại thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế, là chuồng nuôi hổ và cũng là đấu trường độc đáo mà có thể không hề có ở bất cứ nơi đâu trên thế giới.
Dưới triều Nguyễn, chính nơi đây đã diễn ra những cuộc tử chiến vô cùng ác liệt giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí, tiêu khiển cho vua, quan và dân chúng. Trong cuộc quyết đấu đầu tiên giữa voi và hổ năm 1750 tại cồn Dã Viên trên sông Hương, 40 con voi đã giết chết 18 con hổ trước sự chứng kiến của chúa Nguyễn Phúc Khoát và triều thần ngồi xem trên 12 chiếc thuyền. Đây có lẽ là trận đấu kinh hoàng, khủng khiếp và đẫm máu nhất trong lịch sử. Những trận tử chiến giữa voi và hổ thường mỗi năm tổ chức một lần. Trước mỗi trận đấu, hổ đều bị cắt nanh, bẻ vuốt, và buộc chặt vào cột cho nên voi luôn giết chết và chà nát hổ, tuy nhiên tai nạn đôi khi vẫn xảy ra vì hổ chiến đấu vô cùng dũng mãnh.
Sau này, để bảo đảm an toàn, năm Canh Dần 1830, vua Minh Mạng đã hạ chiếu cho xây dựng một đấu trường lớn gần đồi Long Thọ phía Tây kinh thành Huế lấy tên là “Hổ quyền”.
Con người thích bày trò huyết chiến để tiêu khiển, có nhẫn tâm chăng? Voi hổ tử chiến để làm vật tế thần và mua vui cho nhân thế; trước trận đấu hổ bị cắt nanh, bẻ vuốt, buộc vào cột; như vậy là bức tử, có bất công chăng?
Bài viết về Hổ Quyền rất hay...@};-
Sao ko có tư liệu về Sư Tử quyền nhỉ!!
Chỉ nghe nói có môn võ Sư Tử Hống,nếu ai biết cho thông tin nhé...ok~o)~o)~o)
Hệ thống ngũ hình quyền của các dòng phái Vịnh Xuân Quyền Việt Nam bao gồm 6 bài:
Ngũ hình quyền tổng hợp: bài được chia thành 5 phần tách biệt ứng với 5 con thú thiêng, bắt đầu từ các chiêu thức tay xà, tiến tới tay long, hổ, báo và kết thúc là tay hạc. Các thế tấn và bộ pháp trong bài hỗ trợ cho thủ pháp. Đây là bài quyền đặc biệt phong phú về chiêu thức, động tác. Phong thái kết hợp cả nhu nhuyễn, chậm rãi đến tốc lực, dương cương.
Long hình quyền: Long quyền thuộc thổ, lấy tỳ làm chủ, luyện thần. đặc trưng bởi những thế chộp, vồ (cầm nã thủ), sử dụng bàn tay với các ngón tay xòe mở rộng trong những chiêu thức nhấn mạnh nguyên lý vòng tròn, các chiêu thức thường được diễn thế lặp lại 3 lần.
Hổ hình quyền: Hổ quyền thuộc kim, chủ phế, dùng để luyện cơ bắp. Bài không có đòn chân (cước pháp). Chủ luyện đòn đấm thẳng dẫn đạo (tay hổ), đòn đánh bằng lưng bàn tay kết hợp với bật chỏ ngang. Các đòn thế thường đi theo đường thẳng, với tốc độ cao và uy lực cương mãnh không thích hợp cho nữ giới.
Báo hình quyền: Báo quyền hành mộc, chủ can, luyện gân. Bài sử dụng tấn pháp linh hoạt, nhanh nhẹn phối hợp với những đòn tấn công chớp nhoáng bằng các khớp xương giữa của đốt ngón tay gọi là Báo Chùy (tay báo) dùng để chặn đòn đối phương hay đánh bật vào huyệt thái dương, thường sử dụng hai tay tấn công đồng thời kết hợp với cước pháp.
Xà hình quyền: Xà quyền thuộc hành thủy, chủ thận, luyện khí (tiên thiên). Rắn không chân nên bài Xà quyền không có đòn cước. Bài chủ luyện sự nhu nhuyễn, linh hoạt của những ngón tay (tay xà) uốn éo với nguyên tắc dùng eo xoay để phát lực, thường áp dụng những thế tấn rất thấp và có những thế đánh dạng hồi mã thương rất độc thủ. Bài còn được luyện quỳ ngồi nằm trên mặt đất để trở thành bài Xà địa quyền.
Hạc hình quyền: Hạc quyền thuộc hành hỏa, chủ tâm, dùng để luyện tinh. Bài sử dụng những đòn đánh bằng cạnh tay (tay hạc) và cổ tay gọi là Hạc Đỉnh thủ và Hạc Câu thủ hoặc mỏ hạc gọi là Hạc Trủy thủ trong những tư thế dang mở rộng cánh với những đòn đánh chỏ kết hợp với tấn chéo, tấn một chân (hạc tấn). Nhiều môn đồ Vịnh Xuân quyền đánh giá đây là bài quyền có phong cách hào sảng và đẹp nhất trong các bài ngũ hình quyền.
Tặng Hung vi
Nguyễn Lữ sáng lập Hùng Kê quyền như thế nào?
- Năm 2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, Hùng Kê quyền tạo nên một tiếng vang lớn trước sự chứng kiến và tham dự của hơn 70 môn phái võ thuật trên khắp thế giới. Người có công lớn nhất trong việc giữ gìn, truyền bá môn võ truyền thống độc đáo này chính là lão võ sư Ngô Bông (Quảng Ngãi) - người được giới võ học công nhận là truyền nhân chính hiệu của bài quyền...
Hùng Kê quyền (nói nôm na là võ gà), bài quyền với những chiêu thức được hình thành từ thế giới gà chọi. Tương truyền rằng người sáng lập nên Hùng Kê quyền chính là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, người em út trong nhóm Tây Sơn Tam Kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ)...
Sư tổ Hùng Kê quyền
Theo sách Võ nhân Bình Định của Quách Tấn - Quách Giao: "Nguyễn Lữ vốn người mảnh khảnh, tính nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông theo học văn nhiều hơn võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên đề môn miên quyền... Nguyễn Lữ được thầy giáo Hiến (thầy Trương Văn Hiến, một bậc trượng phu văn võ song toàn, từ xứ Nghệ An lưu lạc vào đất An Thái, nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, Bình Định) chân truyền cho môn miên quyền...
Đất nước có chiến tranh thì việc tu luyện võ học, nâng cao khả năng phòng vệ để bảo vệ biên cương luôn là nhu cầu bức thiết và được đề cao. Theo yêu cầu của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lúc bấy giờ, phải làm sao trong thời gian ngắn huấn luyện cho các nghĩa quân Tây Sơn tinh thông võ nghệ theo phương châm: Yếu có thể đánh mạnh/Thấp có thể đánh cao/Nhỏ có thể đánh lớn/Ít có thể đánh nhiều. Và yêu cầu bức thiết đó đã khiến Nguyễn Lữ không thể thờ ơ.
Chuyện kể rằng, khi 3 anh em nhà Tây Sơn bí mật chiêu mộ anh hùng hào kiệt về tụ nghĩa, một lần nọ lúc xem 2 chú gà chọi nhau vào dịp Tết, trong đó có một con nhỏ hơn đối thủ nhưng biết vận dụng yếu thế "nhỏ con" của mình để triệt hạ đối phương.
Bằng thiên tư võ thuật của mình, Nguyễn Lữ đã thị sát, nghiền ngẫm, nghiên cứu các thế đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cái thế chống đỡ của con gà nhỏ thường chui luồn, xỏ vỉa để rồi tạo ra các thế lặn hụp, tránh né đến phản công. Cuối cùng ông đã chắt lọc, sáng tạo ra bài quyền mang tên Hùng Kê quyền.
Cùng thời gian này, người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ vang danh với môn Nghiêm thương, Tứ Môn kiếm, Tứ Môn côn - những môn võ sử dụng binh khí rất đặc thù. Còn nữ tướng Bùi Thị Xuân lại nổi tiếng với bộ Tuyết Hoa Song kiếm và Song Phượng kiếm...
Oai phong võ gà
Ngay sau khi ra đời, Hùng Kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu quả của nó. Sự lợi hại của Hùng Kê quyền đã được các anh hùng hào kiệt trong giới võ lâm đương thời nể phục. Tương truyền, một võ sư Thiếu Lâm muốn khảo chừng uy lực của Hùng Kê quyền đã tìm đến Tổ sư bài quyền này khích bác: Đến như hổ báo kia đã hùng chưa mà kê dám xưng hùng?
Khi ấy Nguyễn Nhạc vốn đang chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà có rất nhiều hào kiệt, không muốn mất hòa khí đang gây dựng nên bảo em (Nguyễn Lữ) cố ý tránh né, nhưng vị võ sư nọ vẫn một mực muốn so tài. Cực chẳng đã, cuối cùng Nguyễn Lữ đành nhận lời giao đấu.
Vào trận, trường quyền của vị võ sư như giông bão liên hồi phủ xuống nhưng Nguyễn Lữ vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại nhanh nhẹn trước một con gà lớn hung hãn nhưng chậm chạp.
Suốt 1 canh giờ, quyền của vị võ sư không đụng được vào áo của Nguyễn Lữ. Vào khoảnh khắc khi đối thủ lộ sơ hở, Nguyễn Lữ với một chiêu duy nhất, ông đã làm cho đối phương bị "nốc ao". Đến lúc đó, kẻ thách đấu mới hoàn toàn tâm phục, khẩu phục...
Cuối tháng 9/2004, tại Liên hoan võ thuật truyền thống tổ chức tại Chungji (Hàn Quốc), danh trấn giang hồ của Hùng Kê quyền một lần nữa lại được khẳng định qua sự biểu diễn điêu luyện của lão võ sư Ngô Bông - lúc ấy đã 76 tuổi - trước sự tham dự và chứng kiến của hơn 70 môn phái võ thuật toàn cầu ( S/T )
>> Võ Việt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"
Người có khuôn mặt của một võ tướng
Vài năm trước, trên một tờ báo của ngành Công an có đăng câu chuyện về một võ sư dũng cảm, dùng võ thuật khống chế một tên côn đồ nguy hiểm khi hắn hung hãn dùng dao tấn công dân lành.
Bài báo viết: “Hôm ấy, khi ông đang ngồi trò chuyện với một người bạn ở trước của nhà, thì không biết từ đâu một tên du đãng bất ngờ xuất hiện. Không biết có mối thù hận từ trước hay do nhầm lẫn mà tên này đã thình lình túm ngay tóc người bạn, giật ngược ra phía sau rồi như thú hoang, dùng dao nhắm vào cổ nạn nhân chém tới. Trước diễn biến bất ngờ ấy, vị võ sư ngồi đối diện đã bật dậy và bằng một động tác võ thuật điêu luyện, ông đánh văng hung khí trên tay của tên sát nhân, đồng thời, nhanh chóng khống chế, bắt giữ kẻ manh động ấy”.
Người hùng năm đó chính là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, đệ tử chân truyền của lão võ sư nổi tiếng Hoàng Thanh Vân (Chưởng môn đời thứ 2 của Hoa quyền).
ũ Quang Tín (sinh năm 1952) mắt sắc, mày rậm, tóc búi củ hành, bộ râu thì vô cùng ấn tượng: Rậm và được tỉa tót công phu như để tôn khuôn mặt thêm phần... dữ dằn, chẳng khác nào một võ tướng thời Trung cổ. Tuy thế, khi tiếp xúc lại thấy ông khác hẳn với “phong thái” bề ngoài: Gần gũi, thân thiện, thậm chí có phần e dè, khiêm tốn.
Thế nhưng, sự kín kẽ trong cách ăn nói ấy vẫn chẳng làm cuộc nói chuyện giữa tôi và ông trong căn gác nhỏ ở khu Thanh Nhàn - Hà Nội, vốn đông đúc dân cư, kém phần hấp dẫn. Võ thuật, dường như với ông, đó là lẽ sống duy nhất của mình. Ông bảo: May mắn lớn nhất của đời mình là được bái võ sư Hoàng Thanh Vân làm sư phụ.
Cuộc bái sư kỳ lạ
Ông kể, nghe tiếng tăm của lão võ sư, chưa một lần giáp mặt nên ông cứ nghĩ, lão võ sư là một người to lớn, khuôn mặt thì tinh anh, phong thái thì vô cùng ung dung, thanh thoát, khác xa với những kẻ... “phàm trần”. Thế nhưng, buổi đầu tiên diện kiến, thì thần tượng trong đầu ấy của ông đã... thay đổi hoàn toàn.
Lão võ sư Hoàng Thanh Vân là người nhỏ bé và trông bộ dạng thì rất... cù lần. Tuy thế, đã đến nơi thì ông vẫn ngỏ lời xin theo học. Đồng ý nhận ông làm đệ tử, nhưng trong năm đầu tiên, về võ thuật, sư phụ Hoàng Thanh Vân tuyệt nhiên không đả động gì đến ông.
Tới võ đường, lão võ sư chỉ dạy ông cách thức bốc thuốc chữa bệnh và thực hành ngay việc đó - chữa bệnh cho mọi người quanh vùng. Trong khi ấy, các sư huynh thì được lão võ sư tận tình chỉ bảo khiến ông rất đỗi tủi thân. Thi thoảng rảnh việc, thấy ông ngồi một mình tư lự, lão võ sư vời ông đến nhưng không phải để dạy võ công mà... đọc thơ cho ông nghe!
Buồn. Chán. Nản. Thấy biểu hiện ấy của ông, lão võ sư chỉ liếc mắt, rồi mủm mỉm cười. Mãi hơn 1 năm sau, một sớm, đến võ đường, đang chực bốc thuốc chữa bệnh thì ông bất ngờ được lão võ sư gọi lại và bảo: “Con theo ta cũng đã lâu, ta biết, con là người kiên định! Đức ấy, học võ thì quý vô cùng. Từ nay ta sẽ đích thân dạy võ cho con!”.
Nghe sư phụ mình nói vậy, ông mừng vui khôn xiết. Thế nhưng, nỗi niềm rạng rỡ ấy bỗng chốc hoá thành sự lo lắng khi sư phụ ông tiếp lời: “Ta để con vào lớp của các sư huynh của con. Con phải cố mà theo kịp họ. Nhược bằng không thì ta cũng chẳng biết phải giáo dưỡng con cách nào cho phải nữa?!”.
Nhắm mắt... vẫn nhìn thấy sự chuyển động của đối thủ
Bắt đầu từ hôm đó, ông đã có những tháng ngày theo đuổi nghiệp võ vô cùng khắc nghiệt. Các sư huynh ông đa phần là những người đã theo thầy rèn luyện được vài năm và ai cũng như hộ pháp. Bởi thế, sau mỗi buổi tập, về nhà là ông thấy toàn thân mình đầy vết bầm dập bởi bị... dính đòn.
Hoa quyền có phần cơ bản là công phu rèn luyện thập hình gồm thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần. Các môn sinh của môn phái chỉ được tiếp cận đến quyền thuật khi đã “chín” ở giai đoạn “đào tạo cơ bản”. Giai đoạn này, môn sinh phải khổ luyện mất những 3 năm, thậm chí lâu hơn. Khi đã thông thạo thập hình, môn sinh mới được truyền thụ 18 bài Hoa quyền cùng các loại binh khí như kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, thiết phiến, song phủ, song chuỳ...
Thời gian thấm thoắt trôi, với sự lanh lẹ vốn có, khả năng hấp thụ công phu của ông đã khiến Hoàng sư phụ vô cùng mãn nguyện. Võ sư Vũ Quang Tín bảo, người tập Hoa quyền được gọi là thành công chỉ khi phối hợp được đồng nhất Thân, Thủ, Bộ. Khi ấy, người luyện võ dường như rơi vào “trạng thái” tự do, có thể thích ứng linh hoạt từng tình huống chiến đấu cụ thể. Và, mỗi hình thức thích ứng ấy đều là những đòn thế vô cùng lợi hại, có thể hạ gục đối phương ngay lần “tiếp xúc” đầu tiên.
Theo Hoàng sư phụ được hơn 20 năm, khi công phu đã đạt tới trình độ xuất kỳ bất ý (đòn đánh ra như ý muốn, có thể nhắm mắt, nghe được chuyển động của đối phương). Năm 1993, hai thầy trò phải tạm chia tay. Hoàng sư phụ sang Nga dạy võ. Sống ở xứ lạnh lâu ngày thành quen, lão võ sư Hoàng Thanh Vân đã định cư luôn ở đó.
Võ sư Vũ Quang Tín
Một đòn... “chết bảy”
Có lẽ, trong số các võ sư mà tôi đã gặp, thì võ sư Vũ Quang Tín là người phải “cọ xát” quyền thuật nhiều nhất trong hành trình lập nghiệp của mình. Điều này đã được võ lâm đồng đạo xác nhận.
Lần ấy, ông đến thăm một anh bạn cũng luyện võ ở trên phố Trần Quốc Toản. Bởi cuộc viếng thăm không báo trước nên khi vào nhà, ông bất ngờ khi thấy nhà bạn mình lố nhố kẻ đứng, người ngồi. Thì ra, hôm đó, có một toán võ sĩ học công phu ở nước ngoài về, muốn vào so tài cao thấp cùng bạn ông.
Thấy một người đàn ông thấp bé xuất hiện, một gã trong đám bảo, ông nên ngồi vào góc giường, nếu không muốn vạ lây bởi sắp có đánh nhau to. Điệu bộ hống hách của đám võ sĩ ấy khiến ông khó chịu, nhưng nghĩ chẳng phải chuyện của mình, ông đành... ngoan ngoãn ngồi vào nơi mà họ đã “tận tình” chỉ bảo.
Tuy cuộc đấu chưa diễn ra nhưng quan sát, thấy sắc mặt của bạn mình... không được tốt, ông đoán biết, bạn mình đã có phần e ngại. Không tự tin thì khi thử tài chắc chắn chuốc lấy thất bại nên ông đã đứng dậy tham gia: “Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên trao đổi võ thuật thôi. Như vậy thì cũng đủ để rạch ròi cao thấp!”. “Không đánh hết lực thì làm sao phân biệt được! Phải đánh thẳng tay!”. Một gã trong toán “khách mời” quả quyết và cả bọn đã đồng thanh hưởng ứng theo như muốn “ăn tươi nuốt sống” chủ nhà.
Trước tình thế ấy, với sự nao núng hiển hiện trên mặt bạn, nghĩ bạn mình không phải là đối thủ của toán người lực lưỡng trên, ông đã quyết định đứng ra tỉ thí thay bạn. Trước quyết định của ông, toán người trên chỉ cười khẩy nhưng họ vẫn gật đầu chấp thuận. Có lẽ, họ đã nghĩ, tạng người như ông thì chẳng được mấy hiệp. Thế nhưng, phòng trường hợp “ngoạ hổ tàng long”, họ vẫn cử một người cao to nhất ra ứng đấu.
Chẳng cần nhiều, chỉ một lần vào đòn, kẻ kiêu ngạo đã bị người đàn ông thấp bé đánh bật ra góc sân, phải hồi lâu mới loay hoay gượng dậy. Sau cú đòn ấy, gã ta đã chắp tay xin thua rồi đứng dạt ra phía sau. Vẫn đứng nguyên vị trí đó, ông ra hiệu cho người khác vào sới.
Thế nhưng, chứng kiến đòn đánh của ông “dành cho” đồng đội mình, toán người ấy đứng như trời trồng, không ai nhúc nhích chân tay “xung trận” nữa. Chờ một hồi không thấy ai vào, ông mới chắp tay, từ tốn bảo: “Làng võ Việt Nam nhiều người tài giỏi hơn tôi gấp mấy trăm lần. Các cậu còn trẻ, học võ mà quên mất đạo thì thành tài sao được! Thôi, về học thêm đi. Khi nào thấy đủ, cứ tìm tôi mà thử!”.
Học võ của danh sư “bát quái thần côn”
Võ sư Chu Há không uống rượu, thế nhưng nhà ông lúc nào cũng đông đúc bạn bè, quây quần chén thù chén tạc, rồi say mê luận chuyện võ công.
Võ sư Chu Há sinh năm 1947, quê gốc ở huyện Đầm Hà, Quảng Ninh. Bởi mưu sinh, nên ngay từ khi còn bé, ông đã theo cha mẹ rời lên Hà Nội. Cha ông là người mê võ nên ngay từ tấm bé, ông đã được cha mình truyền thụ những kỹ năng cơ bản của võ thuật.
Năm 1963, khi 16 tuổi, ông đã được người quen giới thiệu đến danh sư Tô Tử Quang, Sáng tổ môn phái Hồng gia quyền ở Việt Nam bái sư, học võ. Thầy Tô Tử Quang khi ấy ở phố Nguyễn Công Trứ, không mở võ đường mà chỉ dạy võ cho những người thân thiết. Võ sư Chu Há là một người như thế.
Võ sư Chu Há thời trẻ
Theo võ sư Chu Há, cụ Sú Tàu (tên thân mật của Tô sư phụ) là người Trung Quốc. Ông sinh năm 1910, ở huyện Long Châu, Quảng Tây trong một gia đình 8 đời theo nghiệp võ. Ngay từ nhỏ, Tô sư phụ đã được cha mình là võ sư nổi tiếng Tô Cao Lân truyền dạy công phu Hồng gia quyền. Có giai thoại rằng, năm lên 7 tuổi, Tô sư phụ đã được Hoàng Phi Hồng, cũng một danh sư của Hồng gia chỉ bảo thêm về quyền thuật. Với năng khiếu bẩm sinh, năm 18 tuổi, trong một cuộc thi võ hàng năm ở Quảng Tây, ông đã giành giải nhì và được mệnh danh là “Thần đồng võ thuật”.
Sau khi thành danh ở Quảng Tây, như bao thanh niên khác, Tô Tử Quang tìm về Thượng Hải. Chốn nhiễu nhương ấy, bằng khả năng công phu của mình, ông đã được một đại thương gia trọng dụng khi một lần, dùng công phu giải cứu cô con gái rượu của vị thương gia ấy thoát khỏi tay bọn bắt cóc, tống tiền.
Thế nhưng, bởi mến mộ tài năng, khí phách của chàng trai trẻ, cô tiểu thư ấy đã đem lòng yêu mến. Mối tình không hộ đối, môn đăng ấy đương nhiên vướng phải sự cấm đoán cay nghiệt từ phía nhà cô gái. Vậy là, để mọi chuyện được yên bề, Tô sư phụ đành phải hi sinh tình yêu của mình. Ông lại tiếp tục lên đường phiêu bạt. Và Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng trong chặng đường giang hồ ấy.
Được biết, trong quãng thời gian ở Thượng Hải, Tô Tử Quang đã hai lần đoạt giải quán quân quyền thuật. Và, cũng chính ở đất này, ông đã được võ lâm giang hồ tôn sùng là “Bát quái thần côn” bởi khả năng siêu đẳng khi sử dụng binh khí này.
Công phu làm hài lòng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Theo võ sư Chu Há, Tô sư phụ đến Hà Nội từ năm 1954. Ông làm việc tại Nhà máy in Tiến bộ. Mãi đến năm 1963, ông mới chính thức phổ biến Hồng gia quyền cho mọi người. Thế nhưng, việc truyền thụ ấy cũng chỉ ở phạm vi rất hẹp, đa phần môn đồ chỉ là những người gốc Hoa. Cùng với võ sư Làm Ốn Và, Voòng Sìu Khoóng, Chu Há là một trong ba đại đệ tử của thầy Tô (những đệ tử này được Tô sư phụ đặt hiệu riêng là Và Cố, Khoóng Cố, Há Cố).
Là người có tư chất võ thuật nên theo Tô sư phụ được ít lâu, võ sư Chu Há đã lĩnh hội xuất sắc những kỹ năng công phu mà sư phụ mình truyền dạy. Điều ấy đã được minh chứng bằng việc năm 1965, trong lễ hội Hoa Liên do Hoa kiều tổ chức ở Hà Nội, võ sư Chu Há đã vinh dự được Tô sư phụ chọn để biểu diễn quyền thuật cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bác sĩ Trần Duy Hưng thưởng thức. Sau buổi biểu diễn đó, võ đường của Tô sư phụ đã được Thủ tướng gửi gắm nhiều lời khen ngợi.
Tuyệt kỹ cho người thích… la cà quán xá
Năm 1982, Chu Há tham gia Hội võ thuật cổ truyền Hà Nội và đứng ra thành lập võ đường riêng.
Võ sư Chu Há là người đam mê sáng tạo. Với võ thuật cũng vậy. Với những tinh hoa học được từ sư phụ mình, ông đã góp phần làm rạng danh Hồng gia quyền với nhiều bài võ do tự mình phóng tác. Với các bài võ ấy thì các môn sinh của võ đường Chu Há đã giành được rất nhiều huy chương vàng ở các hội diễn, liên hoan võ thuật.
Võ sư Chu Há bây giờ
Đặc biệt, khi sáng tạo, võ sư Chu Há luôn hướng về những thứ “binh khí” gần gũi, giản đơn gắn liền với đời sống của con người. Mễ, điếu cày, ba toong... là những thứ thường thấy trong những bài võ do ông ngẫu hứng sáng tạo. Nói về lối tư duy lạ lùng ấy của mình, ông cười bảo, quán nước trà lá thường là nơi dễ bị... ăn đòn nhất. Bởi thế, với mễ để ngồi, điếu cày hút thuốc lào trong tay thì những người học bài võ này sẽ an tâm tuyệt đối khi... lê la quán nước!
Tên tuổi võ đường Hồng Gia cùng võ sư Chu Há ngày một nổi tiếng qua mỗi lần “võ lâm đại hội”. Điều đó đã được thể hiện qua các tấm huy chương mà môn sinh của võ đường giành được sau những kỳ ứng võ thi tài. Sự nổi tiếng ấy không chỉ ở trong nước, mà nhiều môn sinh ở nước ngoài cũng vô cùng mến mộ ông.
Năm 1990, võ sư Chu Há được Sở Thể dục thể thao Hà Nội cử sang Nga, Tiệp Khắc (cũ) biểu diễn. Ông kể, ở những nước này, người dân rất đam mê quyền thuật phương Đông. Bởi thế, mỗi đêm biểu diễn, có đến 7- 8 vạn khán giả tới xem, cổ vũ. Cũng tại chuyến biểu diễn ấy, ông đã được mời ở lại để dạy công phu cho những võ sinh mến mộ mình.
Vậy là, suốt một năm trời, ông miệt mài truyền bá Hồng gia quyền tại Nga. Có lần, việc gia đình, ông phải về nước. Thế nhưng, về chưa đầy tuần thì học trò ông đã điện thoại tới tấp vì thấy ông đi... lâu quá! Theo võ sư Chu Há, hiện tại, ở Nga, những môn đệ năm nào của ông vẫn đang tiếp tục khuếch trương Hồng gia quyền và cũng thu hút được đông đảo môn sinh ( S/t )
Vệt Nam: Huyền thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"
- Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể: suốt cả đời luyện võ nhưng chỉ có hai lần "cực chẳng đã" ông phải dùng công phu thượng thừa "giải quyết" chuyện đời. Đến giờ ông vẫn còn thấy day dứt
Mỗi một bài quyền hay những môn công phu đặc dị đều là sự khổ luyện, giờ nghĩ lại, nhiều lúc võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo lừng danh, cũng thấy nổi da gà.
Thiết xa chưởng là một ví dụ. Cha ông đưa cho ông 12 cây đũa thẳng tắp, được ông tự vót từ thân tre già. Tháng đầu tiên, bằng tay không, một chưởng, ông phải cắm ngập chiếc đũa đó xuống nền đất cứng. Sợ hãi nhất là tháng đầu tiên. Nếu vận khí không tốt thì chiếc đũa không những không cắm xuống đất mà còn xuyên ngược vào tay mình.
Tháng thứ hai, vẫn một chưởng nhưng phải cắm liền lúc 2 chiếc đũa. Tháng thứ ba là 3 chiếc, đến tháng 12 thì cả 12 chiếc phải cắm được ngập thân trong lòng đất.
Thiết xa chưởng của võ sư Thắng bây giờ có lẽ chẳng ai bì kịp. Đã rất nhiều lần ông kê bàn tay của mình trên nền nhà để mọi người thẳng tay cầm vồ gỗ mà nện thoả sức chẳng khác nào đưa tay vào cối để giã, trong khi ông vẫn đang tươi cười nói chuyện. Từ trước đến giờ, làng võ vẫn thừa nhận, khẩu lợi công của Thăng Long võ đạo là thiên hạ vô song. Võ sư Thắng bảo, chính bởi luyện môn công phu đặc dị này mà hàm răng trên của ông đã mòn vẹt, thành hình vòng cung trông rất khác người.
Theo võ sư Thắng, luyện khẩu lợi công đòi hỏi người tập luyện phải có lòng kiên nhẫn, và một quyết tâm bền bỉ, sắt đá. Ban đầu, người học chỉ tập mỗi động tác... ngáp. Một ngày cứ thế ngồi ngáp đến cả vạn lần. Sau tập ngáp là tập nghiến răng. Tư thế nào thì cũng chỉ chú tâm vào việc... day “bộ gặm nhấm” ấy.
Sau động tác đó, người luyện chuyển sang ngậm sỏi, nhá sỏi. Khi răng, hàm đã cứng, đã có lực thì chuyển sang nâng, nhấc, kéo những vật nặng. Ban đầu thì nhấc những túi cát nặng chừng 10 kg, sau đó tăng dần... thành chiếc cối đá nặng đến nửa tạ.
Trước đây, năm 1989, Liên hoan Võ thuật cổ truyền toàn quốc, võ sư Thắng khi đó nặng chỉ 52 kg nhưng đã dùng khẩu lợi công nhấc cả chiếc bàn với đỉnh đồng, nến, hạc, kiếm, ảnh Đạt Ma Sư tổ... nặng đến xấp xỉ 80 kg.
Sau mấy chục năm tu luyện, bây giờ, khẩu lợi công của võ sư Thắng đã đạt tới mức thượng thừa. Ông bảo, với hàm răng thép của mình, ông có thể nhai vỡ liền lúc mấy trăm chiếc cốc thuỷ tinh ( Còn tiếp. )
Bởi là môn phái có những công phu dị thường nên rất nhiều lần Thăng Long võ đạo được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội mời đi biểu diễn giao lưu với các đơn vị khác.
Võ sư Thắng bảo, đến giờ ông vẫn còn ấn tượng với lần lên Hoà Bình biểu diễn khí công cho các công nhân của Nhà máy Thuỷ điện sông Đà xem. Sở dĩ ông nhớ lần trổ tài kinh hồn ấy là bởi, khi về, ông đã bị họ hàng mắng cho một trận te tua. Ai cũng bảo, ông học lắm rửng mỡ, đùa với chính mạng sống của mình.
Ông kể, lần ấy, bởi được báo hơi muộn, chưa kịp chuẩn bị tiết mục gì lạ nên ông đành chọn môn khí công chịu lực. Vật dụng để biểu diễn là khối bê tông nặng gần 3 tạ, ông mượn tạm từ bể nước của khu tập thể gần nhà mình.Tại công trường, khi các công nhân đã quây quần đông đủ, sau khi phô diễn những bài quyền cước đẹp tựa phượng múa, rồng bay thì tiết mục khí công chịu lực mở màn. Vị võ sư thân thể gầy nhẳng như que củi vận khí nằm im trên nền gạch. Khối bê tông 3 tạ được cần trục đưa tới, từ từ đặt nên người ông. Mọi người nín thở sợ hãi. Khi khối bê tông đã yên vị thì hai lực sĩ hai bên, mím môi mím lợi dùng búa tạ, nhè khối bê tông mà quai thật lực. Quai sã cánh tay mà khối bê tông không chịu vỡ, người võ sĩ bên dưới vẫn cứ nằm im thin thít, chẳng chút chau mày.
Không tin vào mắt mình, hai chuyên gia Liên Xô lực lưỡng nhảy vào, giằng lấy búa, đập tiếp. Lại một thôi một hồi những tiếng búa chan chát vang lên, nhưng khối bê tông vẫn trơ trơ. Người nằm dưới thì vẫn nét mặt thản nhiên như đang ngẫm nghĩ điều gì mông lung lắm. Mỏi tay, hai chuyên gia đành buông búa, trầm trồ thán phục.
Khi khối bê tông được nhấc ra, mọi người đã ùa vào sờ sờ nắn nắn khắp người vị võ sư tài giỏi. Họ ngạc nhiên bởi không hiểu thân hình vị võ sư được “kết cấu” bằng gì!? ( Còn tiếp )
Xuất chiêu vì... chiếc săm xe đạp
Trong suốt cả đời luyện võ, chỉ có hai lần ông cực chẳng đã phải đại phá... “xã hội đen”.
Lần thứ nhất xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Chiều ấy, bởi vợ đang mang bầu, sắp sinh, ông đạp xe lên mạn hồ Hoàn Kiếm đón. Qua ngã tư Tràng Tiền, chẳng hiểu thế nào xe của vợ chồng ông bị xịt lốp. Thấy thế, toán sửa xe (toàn những tay thanh niên, mặt mày bặm trợn) ở gần đó đã lôi xềnh xệch xe của ông vào đòi sửa.
Thử săm, một gã bảo, bị thủng 3 lỗ lớn, phải vá thì mới đi được. Vá xong, trả tiền, ông giật mình khi gã đó phát giá bằng đúng nửa tháng lương bác sĩ của mình. Biết đã gặp bọn xấu bắt chẹt khách nhưng ông từ tốn xin chúng giảm giá, nhưng dù trình bày thế nào thì chúng cũng chẳng chịu nghe, thậm chí, còn hùng hổ đe dọa.
Cực chẳng đã ông đành bảo vợ ở lại, để mình chạy bộ về nhà lấy tiền. Rửa tay nhờ chậu nước thử săm xe, ông đã tá hoả khi phát hiện, trong chậu nước đục ngầu có một miếng cao su, được cắm những chiếc đinh nhọn hoắt. Thảo nào, khi nãy, xe của ông bị hết hơi rất chậm mà khi thử đã có đến ba nốt thủng. Cầm miếng cao su cắm đinh ấy, ông quyết định vạch mặt quân gian trá. Bị lật mặt, đám thợ sửa xe sửng cồ, chúng đè ngửa xe ông ra, tháo lấy săm và cắt nát tươm. “Xử lý” song cái săm, thằng cầm búa, đứa cầm kéo đòi tính sổ “vợ chồng thằng nhiều chuyện”. Uất ức, ông quyết định dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Nói thầm với vợ tạm lánh sang bên kia đường, ông ra tay.
Lúc này, dân đi đường túm lại rất đông, ai cũng lo cho chàng thanh niên mảnh khảnh, nhưng sợ nên chẳng ai dám can ngăn. Thấy vợ đã ra khỏi “vùng nguy hiểm”, ông xuất chiêu luôn. Bốn năm tên đồng loạt lao vào nhưng chỉ trong chớp mắt, đứa thì ngã sõng xoài dưới cống, đứa thì lộn lên hè kêu la thảm thiết.
Thấy chiến hữu đều bị hạ đo ván một cách khó hiểu, có tên từ phía sau, chực vung búa lên đánh lén. Thấy mọi người chỉ, ông quay phắt lại. Gặp ánh mắt sắc lẹm của ông, tên này chân tay bủn rủn. Buông “vũ khí” trên tay, hắn co cẳng chạy. Thấy ông ra tay ngoạn mục, dân bên đường đồng loạt vỗ tay thán thưởng. Sau này, những người dân quanh đó nói bọn chúng đều là những phần tử “thương tích đầy mình”. ( Còn tiếp )
3 trận chiến - 1 kẻ thù
Lần ra tay thứ hai, ông bảo, đó là cuộc chiến dai dẳng, khó chịu. Mở lớp dạy võ tại nhà (phố Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), ông luôn bị đám đầu gấu ở quanh khu vực đó quấy nhiễu. Môn đệ của ông liên tục bị chặn đường xin đểu, lúc thì lại bị mất đồ xe máy.
Một hôm, có môn sinh báo mất cốp xe, bực mình ông liền đi gặp mấy tên lưu manh ấy để “làm cho ra nhẽ”. Gặp nhau ở quán nước, hỏi thì thằng nào thằng ấy đều chối đây đẩy. Biết có hỏi nữa cũng chẳng được gì, thất vọng, ông đứng dậy ra về. Để răn đe chúng, khi đứng dậy, tiện tay, ông đã vỗ luôn một chưởng vào bức tường rào gần ấy. Cú đòn răn đe ấy đã làm bức tường sụt một mảng lớn.
Sau đấy vài hôm, đám lưu manh bị công an bắt. Tại cơ quan công an, chúng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, trong đó có cả việc “nhảy đồ” ở lò võ của võ sư Thắng. Bị phạt tù, chúng uất ức cho rằng chính vị võ sư là người tố giác hành vi phạm tội của mình. Chúng nung nấu ý định trả thù.Năm 1987, sau khi thụ án 2 năm, mấy tên trong băng nhóm đó mãn hạn. Về nhà, chúng tuyên bố, việc đầu tiên để “làm lại cuộc đời” là tìm “gã” võ sư đáng ghét để rửa hận. Võ sư Thắng kể, sáng ấy, đang ngồi ăn phở ở đầu phố thì thấy chúng chừng 7, 8 tên, lăm lăm trên tay “hàng lạnh”, hùng hổ kéo nhau vào quán.
Biết chúng kiếm mình gây sự, ông chuyển lại tư thế ngồi, quay lưng vào tường và vẫn đủng đỉnh ăn như không có chuyện gì. Liếc thấy có tên lao vào, ông đứng phắt dậy, tay trái gạt chiếc chai hắn đang nện tới, tay phải dùng đũa dứ ngay trước mặt. Có lẽ biết nếu ông xuống tay thì đôi mắt của mình coi như hỏng, tên này sợ hãi đẩy đồng bọn lùi ra. Ông cũng thủ thế từ từ bước ra ngoài. Biết không thể đánh trực diện ông, chúng cũng nháy nhau giải tán.
Đêm ấy, kéo thêm cả chục tên lưu manh nữa, chúng đến thẳng cửa nhà ông chửi bới om sòm. Không thể lảng tránh, một mình ông xách kiếm mở cửa bước ra. Thanh kiếm sáng loáng trên tay, ông cứ thế múa vun vút. Nhìn sắc mặt, nghĩ là ông không doạ nên chẳng đứa nào dám xông vào ẩu đả. Công an ập đến, tất thảy được đưa về phường. Tưởng sau lần ấy, chúng thôi giở thói du côn, ỷ đông hiếp yếu, nào ngờ, chúng vẫn tuyên bố, gặp ông ở đâu là đánh chết luôn ở đó. Và, đã vài lần chúng dao búa phục ông ở cổng bệnh viện nhưng được mọi người báo, ông đều lánh mặt an toàn.
Thấy không đánh thì không yên nên một buổi đi làm về, ông quyết định ra đòn. Hôm ấy, biết chúng tụ tập phục mình ở cổng bệnh viện, ông gửi lại xe và chiếc cặp da trên tay, ông thủng thẳng rảo bộ về nhà. Thế nhưng, vừa ra đến cổng, đám lưu manh trên đã ập tới.
Chẳng nói thêm gì nữa, ông xuất đòn luôn. Như con thiêu thân, lần lượt cả 4 tên đều bị ông hạ đo ván. Sau trận ấy thì ông đã "bình yên vô sự". Sau này, gặp lại ông, chúng vẫn rối rít gọi ông là “đại ca”, còn cảm ơn vì hôm ấy, ông đã nương tay, ra đòn chưa hết sức!
Nội công bí kíp của Thăng Long võ đạo bây giờ đã nổi như cồn. Các võ sinh đến theo học ngày một đông. Võ sư Thắng bảo, bây giờ, môn phái ông đã có trên 2.000 môn sinh. Bởi là một bác sĩ, nên ông muốn dùng chính nội công lừng danh của môn phái vào việc cứu người. Khí công trị liệu, ấy là một sở trường của Thăng Long võ đạo, hiện đang được rất nhiều bệnh nhân ở Hà Nội theo học để tự cứu mình. ( S/T )
Hùng Kê Quyền
Túy Quyền
Có một số bạn thắc mắc rằng nên gọi là Vĩnh xuân hay Vịnh Xuân, Ky moc xin đưa một bài giải thích của một cao thủ VX bên trang web VX:
"...Trên thế giới đa phần gọi Vịnh Xuân và phiên âm sang tiếng Anh là wingchun. Tuy nhiên cũng có nơi ngoài Việt Nam gọi Vĩnh Xuân, phiên âm tiếng Anh là wengchun. Xét về phả hệ còn đặc biệt nữa là dòng từ Phùng Tiểu Thanh xuống Phùng Tỉnh và Dong Jik xuống tiếp đến Wei Wan, Tang Yik ... gọi môn của họ là Chí Thiện Vĩnh Xuân quyền sau lại gọi Thiếu lâm Vĩnh Xuân ( không có bộ ngôn đằng trước) Mà Phùng Tiểu Thanh cũng là sư phụ của Nguyễn Tế Công (Sư tổ của VX Việt Nam). Vì thế các cụ học từ cụ Tế Công gọi môn họ học là Vĩnh Xuân..."
Karate hay Karate-Do là một môn võ thuật truyền thống của vùng Okinawa (Nhật Bản). Karate có tiếng là nghệ thuật chiến đấu với các đòn đặc trưng như đấm, đá, cú đánh cùi chỏ, đầu gối và các kỹ thuật đánh bằng bàn tay mở. Trong Karate còn có các kỹ thuật đấm móc, các kỹ thuật đấm đá liên hoàn, các đòn khóa, chặn, né, quật ngã và những miếng đánh vào chỗ hiểm. Để tăng sức cho các động tác tấn đỡ, Karate sử dụng kỹ thuật xoay hông hay kỹ thuật kime, để tập trung lực năng lượng toàn cơ thể vào thời điểm tác động của cú đánh.
Trước đây, khi mới chỉ giới hạn ở Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ ở đây, và được viết là 唐手 (tangsho, Đường thủ, tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa). Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết này. Tuy nhiên, do 唐手 thường bị hiểu không đúng là "võ Tàu", cộng thêm việc môn võ này thường chỉ dùng tay không để chiến đấu, nên người Nhật bắt đầu từ thay thế chữ 唐 bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa "KHÔNG", đó là 空. Tên gọi Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo ...), karate được gắn thêm vĩ tố "Đạo", phát âm trong tiếng Nhật là "DO" (viết là 道). Vì thế, có tên Karate-Do.
Lịch sử hình thành
Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các các phương thức chiến đấu của người Ryukyu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốc nhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ này. Người ta chỉ có thể đưa ra được những giả thiết về nguồn gốc của Karate.
Xuất phát từ các điệu múa vùng nông thôn Lưu Cầu, một môn võ (người Ryukyu gọi là dei và viết bằng chữ Hán 手) hình thành và phát triển thành Todei (唐手). Đây là giả thiết do Asato Anko đưa ra.
Do tập đoàn người Hoa từ Phúc Kiến di cư sang Okinawa và định cư tại thôn Kuninda ở Naha và truyền các môn võ thuật Trung Quốc tới đây. Vì thế mà có tên gọi là tote (唐手) với chữ to (唐 - Đường) chỉ Trung Quốc, còn t (手 - Thủ) nghĩa là "võ".
Theo con đường thương mại tới Okinawa. Vương quốc Lưu Cầu xưa có quan hệ thương mại rộng rãi với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Các môn võ thuật có thể từ các miền đất này theo các thuyền buôn và truyền tới Okinawa.
Bắt nguồn từ môn vật của Okinawa có tên là shima.
Các bạn có biết, nhà thơ Lê Kim Giao còn là một cao thủ Vĩnh Xuân không?
Một trong ngũ hổ tướng của dòng cụ Trần Thúc Tiển (Đệ tử sư tổ Nguyễn Tế Công)
Nhâm, Sinh, Lễ, Giao (Bác Lê Kim Giao), Thi.
Đừng ai hỏi Kymoc Bác Lê Kim Giao là ai nhé?
Nếu ko chạy vui lòng bấm Play để xem
wWw.ThangLongKyDao.Com Media
Trận đấu quyền Thái có 1 không 2