Lã mông áo trắng qua sông
Quan Vũ, tự Vân Trường, đại tướng Thục Hán thời Tam Quốc, võ nghệ siêu phàm, vạn người không địch nổi. Một viên đại tướng như vậy lại thua trận trước một viên tướng chẳng có tên tuổi gì, lại còn bị bắt sống. Kết cục này ngoài ý muốn của mọi người, đợi khi chúng ta hiểu rõ về Lã Mông sẽ rõ.
Lã Mông (178 – 219), tự Tử Minh, người Nhữ Nam Phú Bi (đông nam Phụ Nam, An Huy nay). Thuở nhỏ gia đình rất nghèo, không được hưởng thụ một chút giáo dục nào. Tính tình cực kỳ ngu dốt, không thích đọc sách, chỉ thích múa thương đấu gậy, tranh hơn thua với mọi người. Về sau, tham gia quân đội, giỏi đánh những trận ác liệt, lập nhiều chiến công. Trong trận Xích Bích, ông là thủ hạ của lão tướng Trình Phổ , xông trước quân lính, đại phá quân Tào. Tướng lính Đông Ngô đều biết có Lã Mông, nhưng ai ai cũng cho ông là thô kệch, rất nhiều người nhìn ông với con mắt coi thường, trong đó có cả Tán quân hiệu úy danh tướng Lỗ Túc.
Sau có một lần, Tôn Quyền đi ngang trại quân của Lã Mông, thuận đường vào thăm, thấy ông như trước không thích đọc sách, liền hết lòng khuyên bảo, nói:
- Thân làm đại tướng, không đọc sách nhiều thì không làm được, ông thử xem xem, các tướng lĩnh lưu trong sử sách không ai là không biết một bồ chữ. Ông bây giờ đã già, không còn trẻ nữa, ta sợ ông cứ như thế, sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ về sau!
Lã Mông nghe những lời chân thành của Tôn Quyền, có lẽ ông cũng ý thức được cái dở của việc không đọc sách, cho nên từ đó gắng sức học tập, không hiểu thì hỏi, dần dần trở thành rất có tri thức.
Lỗ Túc thay Chu Du trấn giữ Lục Khẩu (tây nam Gia Ngư Hồ Bắc nay), trên đường may mắn đi qua doanh trại của Lã Mông, vốn vẫn cho ông ta là người lỗ mãng không có mưu lược gì, nay gặp mặt chuyện trò, Lỗ Túc phải giật mình, Lã Mông giống như một con người khác, nói cười tự nhiên, chuyện gì cũng lý giải vô cùng cặn lẽ, rõ ràng. Khi lên đường, Lỗ Túc cảm thán nói:
- Ông vỗn chỉ là người biết xung phong hãm trận. Mới chỉ có mấy ngày không gặp, ta không thể nhận ra ông được nữa!
Từ đó về sau, Lỗ Túc cho rằng , Lã Mông có thể quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, chăm chỉ đọc sách để trở thành một con người khác, có tài của đại tướng, từ đó rất coi trọng ông.
Năm 217, Lỗ Túc chết, Tôn Quyền xem xét tài năng, cho Lã Mông thay chức đó, chỉ huy quân ở Lục Khẩu. Sau khi khảo sát kỹ càng, Lã Mông cho rằng Quan Vũ ở Kinh Châu có dã tâm thôn tính Đông Ngô, nên dâng thư lên Tôn Quyền, nói:
- Bọn Lưu Bị, Quan Vũ đều là những người không có tín nghĩa, chỉ là bọn tiểu nhân tráo trở, khi có cơ hội nhất định sẽ phát binh đánh chúng ta, nếu chúng ta không sớm phòng bị, sẽ trở tay không kịp.
Đúng lúc đó, Quan Vũ đang bao vây quân Tào ở Phàn Thành (Tương Sài, Hồ Bắc nay), giết Bàng Đức, chiêu hàng Vu Cấm. Dọa cho Tào Tháo thậm chí đã nghĩ đến việc bỏ căn cứ địa Hứa Xương. May mắn là Tư Mã Ý mưu cao kế hiểm, thấy hai bên Tôn Lưu có quỷ kế, khuyên Tào Tháo cho người , mời Tôn Quyền cùng đánh Quan Vũ, như vậy, Quan Vũ trước sau đều có địch, vòng vây Phàn Thành tự nhiên được phá, Tào Tháo nghe theo ý kiến của ông ta.
Tôn Quyền trong bụng cũng thấy thế lực của Quan Vũ tạo nên sự uy hiếp với Đông Ngô, bản thân lại không dám đối địch với Quan Vũ, sau khi sứ giả của Tào Tháo đến liền nhận lời, quân hai bên bèn hợp lại. Tôn Quyền lập tức hạ lệnh cho Lã Mông chuẩn bị kế hoạch đánh Kinh Châu.
Lã Mông tuy đã quá rõ dã tâm của Quan Vũ, nhưng còn chưa có cách gì đối phó với ông ta. Hơn nữa, Quan Vũ lại đã sớm đề phòng, tuy mang quân đội chủ lực đến Phàn Thành, nhưng ở Giang Lăng, nơi tiếp giáp giữa Thục và Ngô đều bố trí quân đóng giữ. Quân Ngô có động thái gì, Quan Vũ tất sẽ điều binh ứng cứu, với dũng khí của ông ta, một khi chính diện giao chiến, quân Ngô không thể nào chống đỡ.
Lã Mông suy nghĩ trước sau, cũng chưa có cách gì, Tôn Quyền lại thúc giục, thật là khó xử, ông ta chỉ còn cách cáo bệnh, xin Tôn Quyền quay về nghỉ ngơi. Việc này một đại tướng khác của nước Ngô là Lục Tốn đã đoán ra. Lục Tốn ngầm kiến nghị với Tôn Quyền:
- Sau khi Tử Minh giả bệnh, chúng ta cần phải tương kế tựu kế, giương cờ giong trống tiễn ông ta về nghỉ hưu. Quan Vũ vốn chủ quan cho rằng, tướng Đông Ngô chỉ có một người là Tử Minh, Tử Minh đã về rồi, ông ta sẽ nhất định mất cảnh giác, dốc toàn lực để đánh Phàn Thành, lúc đó, việc giữ Giang Lăng và Công An sẽ lơ là, chúng ta sẽ bất ngờ đưa Tử Minh tới, lấy Kinh Châu, đánh Quan Vũ không phí một chút sức lực.
Tôn Quyền đồng ý cho Lã Mông giả bệnh, cử một tướng chưa có tiếng tăm gì là Lục Tốn đi trấn giữ Lục Khẩu. Việc đầu tiên Lục Tốn làm sau khi nhậm chức là cho người đến gặp Quan Vũ, tiến dâng lễ hậu, còn viết cho Quan Vũ một phong thư tình ý rất thắm thiết, trong thư nói mình tài sơ học ít, khó có thể thay Lã Mông, mong hai bên giữ hòa hảo, lấy hai chữ bình an.
Quan Vũ lúc đó đang phấn khởi, không phân biệt được thật giả, xem xong thư cười lớn, trong lòng cho rằng tên tiểu tử Lục Tốn thật là giảo hoạt, sợ ta mang binh đánh hắn. Sau khi đã giương giương tự ý như thế, Quan Vũ quả nhiên như Lục Tốn dự đoán, điều chỉnh việc bố trí quân đội, đem lực lượng vốn để phòng bị Đông Ngô điều đến Phàn Thành.
Đông Ngô lúc này lập tức có phản ứng, Tôn Quyền phong cho Lã Mông làm đại đô đốc lệnh cho ông lập tức trở về tiền tuyến làm nhiệm vụ.
Lã Mông đến Tầm Dương (tây nam Hoàng Mai, Hồ Bắc nay). chọn lấy 3 vạn tinh binh, đem hơn 80 chiến thuyền giả làm thuyền của thương nhân, đưa phần lớn người ngựa vào khoang thuyền, chỉ còn một số ít làm việc chèo thuyền, tất cả đều mặc áo trắng, giả làm lái buôn. Sau khi đã hoàn tất việc giả thuyền buôn, quân của Lã Mông đã rõ ràng là một đội thuyền buôn, dễ dàng tới nơi bờ bắc do quân Thục đóng giữ. Đây chính là điển “Áo trắng qua sông”.
Quân sĩ phòng thủ của quân Thục cùng với các tướng lĩnh của Quan Vũ đều chủ quan khinh địch, xem đó là thuyền buôn, chỉ có việc hỏi han cũng lười nhác, để cho họ đỗ lại bên bờ sông. Nửa đêm, phục binh quân Ngô xuất hiện, dễ dàng khống chế trận địa bờ bắc sông, tiến vào thành Giang Lăng. Tướng giữ thành Giang Lăng là Ma Phương vội liên hệ với Quan Vũ, Lã Mông nhằm trúng bệnh cho thuốc, không phí nhiều công sức khuyên hàng.
Lúc đó, Quan Vũ còn đang trong giấc mộng, cùng với Tào Nhân ở Phàn Thành đọ tài cao thấp. Sau khi biết sự thật, không còn cách nào, hối thì đã muộn. Hai quân Ngụy Ngô cùng đánh tới, Quan Vũ vội chạy về Mạch Thành (Đương Dương Hồ Bắc nay), khi đang tìm đường phá vây thì bị bắt, một danh tướng phút chốc trở thành ba ba trong chum, cá nằm trên thớt.
Lã Mông với kế áo trắng qua sông lấy được Kinh Châu, khiến cho Thục Hán mất đi một căn cứ địa trọng yếu, từ đó bị cầm chân ở Tam Hiệp, làm hỏng kế hoạch của Gia Cát Lượng vốn định kế hoạch tiến quân từ hai đường Kinh Châu và Hán Trung
Nhẫn nhỏ thành nghiệp lớn
Không có tịnh khẩu gì hết ông Gió ,tính tôi ham chơi mà tịnh làm gì cho gò bó .Trời sinh ra cái mồm để nói lời ân ái ,để uống rượu và hôn hít nhau ,để ca hát chào mừng ngày mới ,để niệm câu thần chú .Ông lại bảo tôi tịnh đi thì thật có đôi phần cưỡng bách
Chẳng qua lúc này đang chơi ,mà ông biết đó .Khi một cái máy hoạt động hết công suất thì nó êm ru à ,có tiếng kêu là có trở ngại .Lúc sức khoẻ dồi dào ông ít ngồi yên một chỗ được lắm .Tôi sắp làm lại passport để đi chơi đây .Ông cũng nên bớt làm việc lại đi ,ông làm mấy chục năm rồi bà xã cũng làm việc .Tôi có thể khẳng định ông không còn gánh nặng tài chính nào hết .Vậy mà cứ làm ngày làm đêm ông tưởng thế là hay lắm sao .Con cái lớn lên nó có công việc tiền bạc của nó .Nó đâu thèm tiền của ông .Đấy là việc sống ,còn việc chết thiêu xác hết có 6K à ,thiêu xong hắt cái rào xuống sông khỏi gởi chùa giữ cốt làm chi ,người nhà lâu lâu lên thăm lại tốn ít tiền trà nước
Ông không nghe tôi tất nhiên là kẻ cực kì u mê hehe
Hoàng đế khai quốc của Đông Hán là điển hình nổi bật trong lịch sử của nhân sĩ thành công, phân tích nguyên nhân ông từ một thủ lĩnh của nông dân khởi nghĩa trở thành một Hoàng đế, phát hiện ngoài tác dụng của những cơ duyên trong lịch sử, còn chủ yếu là do sự tương quan giữa thành công với tính cách.
Khổng Tử nói: “Xảo ngôn loạn đức, tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu”. Ý câu này muốn nói, gặp việc nhỏ không chịu nhẫn nhịn sẽ làm đảo lộn cả kế hoạch. Lưu Tú là người đã học được câu danh ngôn này của Khổng Tử. Ông đã đem câu cách ngôn này vận dụng vào cuộc đời mình, tích những nhẫn nhịn nhỏ thành mưu lược lớn giành ngôi vua.
Bây giờ chúng ta xem Lưu Tú đã “tiểu nhẫn thành đại mưu” như thế nào. Tổ của Lưu Tú là tông thất đời Tây Hán, nhưng đến đời ông đã thành bình dân. Lưu Tú từ khi còn nhỏ đã có suy nghĩ khác người, nhưng ông không lộ ra bên ngoài. Trong gia đình, ông vô cùng chịu khó, chịu mọi kham khổ, rõ là người phúc hậu. Do đó, anh của ông là Lưu Diễn tự so với Lưu Bang (hồi nhỏ, Lưu Bang từng là công tử lang thang), còn so Lưu Tú với em thứ hai của Lưu Bang là Lưu Hỷ (Lưu Hỷ tầm nhìn hạn hẹp, không có chí lớn), rất coi thường ông, thường cười ông là thật thà chất phác, nhưng Lưu Tú không hề có phản ứng gì.
Trong thời gian Vương Mãng nắm triều chính, Lưu Tú đến Trường An đọc sách, do hoàn cảnh không được dư dật, tiền ăn học rất nhanh chóng đã hết. Để tiếp tục học tập, Lưu Tú cùng bạn học tìm cách kiếm tiền, cùng mua một con lừa chở đồ cho người ta lấy tiền theo đuổi việc đọc sách. Đúng vào lúc đó, ông học những kinh điển của nhà Nho “Luận ngữ”, “Thượng thư” . Khi đọc “Luận ngữ”, đến thiên “Vệ Linh Công”, đọc câu Tử viết: “Xảo ngôn loạn đức, tiểu bất nhẫn tắc bất thành đại mưu”, ông hoa chân múa tay, nói: “Thật là hay quá! Hay quá!” . Từ đó, ông lấy câu danh ngôn chí lí này làm mẫu mực cho hành vi của mình, thể hiện rất xuất sắc sau khi anh của ông bị giết.
Lại nói cuối đời Vương Mãng, loan lạc nổi lên, chính vào khi anh hùng trong thiên hạ dụng võ, hai anh em Lưu Diễn, Lưu Tú tháng 10 năm 22 (năm thứ 3 Tân Mãng Địa Hoàng) phát động khởi nghĩa Thung Lăng. Không lâu sau, họ đem quân Thung Lăng hợp nhất với hai đạo quân khác vũ trang tạo phản. Tuy thế, hai anh em họ Lưu trong hành động này vẫn giữ vai trò lãnh đạo. Nhưng người anh họ Lưu Huyền được quân khởi nghĩa suy tôn. Năm 23, Lưu Huyền được lập làm Hoàng đế, đó là “Canh Thủy Đế”. Khi Lưu Huyền xưng đế, bụng người trong dòng tộc là Lưu Diễn không được vui. Lưu Huyền trong lòng rất rõ điều này. Lưu Diễn vốn là người tính tình thô bạo, lại nóng nẩy, thêm vào đó, quân đội do anh em họ lãnh đạo, trong quá trình tác chiến với quân chính phủ giành nhiều thắng lợi, chiến công nổi bật. Điều này thật là uy hiếp đến ngai Hoàng đế của Lưu Huyền. Vì thế, Lưu Huyền rắp tâm tìm cách tiêu diệt anh em Lưu Tú.
Một bộ hạ tin cậy của Lưu Diễn là Lưu Tắc rất không vừa ý với việc Lưu Huyền làm Hoàng đế, ông ta bực tức nói:
- Chúng ta khởi binh làm việc lớn, rõ ràng công lao toàn là của Lưu Diễn, Lưu Huyền làm được việc gì, có tư cách gì mà làm Hoàng đế?
Lời nói này đến tai Canh Thủy Đế Lưu Huyền. Lưu Huyền mới đầu muốn mua chuộc Lưu Tắc, hứa cho Tắc chức tước, bổng lộc, chỉ cần Tắc nói Lưu Diễn có ý đồ làm phản. Lưu Tắc không chịu, Lưu Huyền đã giết Tắc. Lưu Diễn ra mặt ủng hộ bộ tướng của mình. Lưu Huyền không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng, giết cả Lưu Tắc và Lưu Diễn. Lúc đó, Lưu Tú đang cầm quân ở bên ngoài. Để trừ cỏ phải trừ tận gốc, Lưu Huyền quyết định tìm cơ hội giết cả Lưu Tú. Ông ta cho người mang chiếu thư của mình đi thăm dò Lưu Tú, chỉ cần Lưu Tú có một biểu hiện khác thường, sẽ có thể danh chính ngôn thuận giết ngay.
Sứ giả vừa tuyên đọc chiếu thư cho Lưu Tú nghe, vừa quan sát sắc mặt của Lưu Tú.
- Thái thường phiên Lưu Tú anh dũng thiện chiến, phong làm Phá lỗ đại tướng quân, Vũ Tín hầu.
Chưa đợi Lưu Tú tạ ơn. Lại đọc tiếp:
- Đại tư đồ Lưu Diễn có ý gây rối, thường kháng thánh ý của Hoàng đế nên đã bị giết.
Nghe tin anh bị giết, nhưng Tú vẫn thông minh để hiểu Lưu Huyền đang muốn thăm dò thái độ có dụng ý diệt tận gốc? “Tiểu bất nhất tắc loạn đại mưu”. Sau khi nghe chiếu thư, Lưu Tú cố nén mối hận anh bị giết, vội rập đầu tạ ơn:
- Bệ hạ thưởng phạt rõ ràng. Chẳng qua công của tôi còn nhỏ. Hoàng thượng ban thưởng như thế này, Lưu Tú thật hổ thẹn. Còn việc huynh trưởng Lưu Diễn có ý làm phản, thần đã khuyên bảo nhiều lần, không muốn anh ta mê muội, để đến ngày hôm nay bị giết, thật là hắn phải đền tội không oan.
Lời nói của Lưu Tú rất chân thành, sứ giả do Lưu Huyền sai đến cũng không nghi ngờ gì, ngay cả bộ hạ của Lưu Tú cũng tin là thật.
Sứ giả đi rồi, Lưu Tú về trại của mình, trong phòng kín đáo cất tiếng khóc, bằm môi nghiến răng nói: “Hận anh ta phải trả!” Nhưng Lưu Tú cũng hiểu rằng thực lực của mình bây giờ chưa thể đương đầu với Lưu Huyền, còn phải chờ thời cơ báo thù. Sáng sớm ngày hôm sau, Lưu Tú vội vàng đến hành cung của Lưu Huyền. Thấy Canh Thủy Đế, Lưu Tú lời tâu bệ hạ, miệng ơn Hoàng thượng vô biên, tuyệt không một lời nói về công lao của mình, cũng không để tang anh, rõ ràng là hết sức cung kính, lại thể hiện vô cùng khoan hậu. Ông cười nói tự nhiên như thường , không để lộ một chút đau thương, chỉ có khi đêm tới tĩnh mịch, mới thầm khóc thương cho cái chết của anh. Màn kịch “nhẫn nhục thâu sinh” của Lưu Tú, cuối cùng đã xóa tan mối nghi ngờ của Lưu Huyền, bảo vệ được tính mệnh của mình. Ba tháng sau, Lưu Tú được cử đi Hà Bắc phát triển sức mạnh của quân khởi nghĩa. Từ đó, Lưu Tú dần thoát khỏi sự giám sát và khống chế của Lưu Huyền, nhanh chóng chiêu binh mãi mã, tìm kiếm nhân tài, bổ sung lực lượng. Trong thời gian chưa đến một năm, quân của Lưu Tú đã phát triển đến hơn 10 vạn người. Ông cón có một đội quân thiện chiến, các chiến tướng cực kỳ trung thành, tự mình hành động, công khai đối đầu với Lưu Huyền.
Dựa vào lực lượng này, qua chiến đầu, đến năm 25, Lưu Tú xưng đế, thành lập chính quyền Đông Hán. Lại qua thời gian 12 năm, Lưu Tú cuối cùng dẹp được đám quần hùng, hoàn thành việc thống nhất quốc gia, thu được giang sơn.