hì, Rùa biểu tượng cho sự dài lâu nên nó cõng trên lưng chứ THỌ.
Quanh thân Rùa được khắc theo lối chữ 'Triện'. Phải nghiên cứu thư pháp thời cổ mới đọc được.
Printable View
Hi hi ông D, tôi biết ông có mà. Thôi thì cảm ơn ông vậy. Hy vọng tôi có dịp thưởng thức rượu quý của ông.
Lúc trước khoe câu cá bị bác Lâm chặt đẹp rồi. Giờ đang tới mùa mà chỉ ngồi .. nghe anh em câu được nhiều ít. Thiệt là.. :( .
Lúc này ông D khoe tôi thích rượu này nọ( may mà ổng không nhắc tới gái :) ), thì có ông Phi đây. Chỉ thích rượu thảo mộc thôi. He he, cái thằng tôi hư hỏng quá.
Tôi rất mê đông y. Đọc thấy bài viết này post lên quán để ai có bệnh thì dùng thử.
Hôm đó vào khoảng xế chiều, trên bến xe lam, chưa đủ khách nên xe chưa chạy, trên chiếc xe lam chỉ có 3 người: một bà già ngồi nhai trầu bỏm bẻm miệng đỏ hoe, nhìn cô gái (khoảng 20 tuổi) ốm yếu, da mặt vàng sạm, với hơi thở yếu ớt nằm trong vòng tay người mẹ.
Người mẹ cho biết cháu bị sỏi mật, nằm bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn cả tháng nay, bác sĩ định mổ nhưng xét nghiệm, rồi nói cháu máu loãng không đông nên không thể mổ, nếu mổ sẽ không cầm được máu mà chết, thôi thì đưa về cho ăn được gì ăn rồi sẽ chết!
Nghe xong, bà già ăn trầu nói như đinh đóng cột, rằng, chết chóc cái gì mà chết, bệnh này mà mổ xẻ cái gì! "Chị nghe lời tôi, về nhà hái một rổ trái sung xanh, xắc mỏng, phơi khô, sao vàng cho vào nồi, đổ ngập nước, nấu cạn còn nửa nồi - cho cháu uống dần sẽ hết bệnh".
Nghe bà già trầu nói thế, người mẹ mừng quá quên cả cám ơn, về đến nhà trời cũng đã tối. Bà con lối xóm nghe con bé về, ai nấy đến thăm, nhìn thân hình tiều tụy, mê man mà lắc đầu thương xót.
Khi đưa cô con gái vào nằm trên giường, mặc ai thăm thì cứ đến thăm, riêng bà đốt đèn ra bờ sông soi tìm hái đầy một rổ trái sung.
Bà cặm cụi xắt mỏng từng trái sung, đêm không nắng không phơi được, hơn nữa thời giờ cấp bách, bà chất lửa đốt, bắt chảo lên rang vàng đến khô giòn từng lát sung. Sau đó cho vào nồi nấu đến khi còn lại một bát lớn thì trời cũng đã khuya lắm rồi.
Nửa tỉnh nửa mê cô con gái ráng ngồi dậy uống hết bát thuốc.
Sau bát thuốc ấy, cô gái đòi ăn, dù trước đó, nằm bệnh viện cả tháng trời không chịu ăn uống gì, chỉ sống bằng thuốc, bằng dịch truyền thôi. Mừng quá, bà cho con ăn cơm nguội, nghĩ là... ăn bữa cuối, ai ngờ...
Sau hơn tháng trời xa nhà nằm bệnh viện, sáng hôm sau cô gái đi khắp xóm khắp làng gặp nhà ai cũng ghé vào nói cười vui vẻ làm ai cũng lo sợ. Cứ nghĩ cô gái này chết rồi mà hồi dương lại, đi thăm mọi người rồi về cũng sẽ chết luôn… (dân quê hay quan niệm vậy).
Đến chiều, nhìn con gái xem ra khỏe hơn, bà nghĩ bụng: vậy là trái sung đã cứu sống con mình rồi. Bà vui mừng đi tìm hái thêm mấy rổ nữa về làm cho con uống…
Trải qua 34, 35 năm nay cô con gái đó đã trở thành bà nội bà ngoại rồi. Đây là câu chuyện thật 100% ở cùng làng quê tôi.
***
Trải qua 12 năm tôi có tham gia chữa bệnh từ thiện ở các phòng khám của các chùa. Vào năm 2003 tôi đang châm cứu cho một bà bệnh nhân. Bà ấy bảo châm giùm chỗ cạnh sườn, vừa lấy ngón tay chỉ vào.Tôi hỏi, sao lại phải châm chỗ này, thì bà cho biết bị sỏi mật, còn một tháng nữa là đi mổ, giờ châm cho đỡ đau thôi.
Nghe vậy, tôi hứa sẽ chữa cho bà khỏi bệnh mà không cần mổ, sau đó nhờ người đi tìm hái trái sung về sao tẩm chế biến thuốc cho bà. Thỉnh thoảng hết thuốc bà thường đến gặp tôi để lấy về uống, liên tục như thế thời gian khoảng 1 tháng. Đến chừng 6 tháng sau đến chùa, gặp tôi bà cho biết hết bệnh rồi, không cần đi bác sĩ mổ nữa.
Là một Phật tử tin sâu lời Phật dạy, một lương y tuy có đủ bằng cấp chứng chỉ hành nghề, nhưng xưa nay phần nhiều làm ở các chùa, tiếp xúc đủ loại bệnh, tuy ít ai biết đến tôi, nhưng tôi cũng có vài bí quyết kinh nghiệm nhỏ. Nay tuổi cũng đã xế chiều, trường chay đạm bạc, niệm Phật phát nguyện vãng sanh, không vì danh lợi, muốn được phổ biến, chia sẻ cùng đạo hữu một vài kinh nghiệm đã tích lũy.
Tùy theo cơ địa của từng mỗi người, nhưng những phương tôi chia sẻ từ “cây nhà lá vườn”, bằng trái, hoa, củ quả… uống vào nếu vô thưởng thì cũng vô phạt.
Quý vị có bệnh sỏi túi mật liên lạc với tôi, số ĐT: 0902 323 549, hoặc đến Trạm y tế P.7 số 79 Đường Nguyễn Văn Nghi, P.7, Q.Gò Vấp, TP.HCM - sẽ được hướng dẫn cách bào chế gia giảm, cho thêm phần hiệu quả và tránh sỏi tái phát về sau.
Lương y Phan Văn Sang
Hôm nay đọc tin thấy Starbucks bên Mỹ lên giá những đồ uống cà phê từ 5 xu đến 30 xu, tỳ loại. Cà phê hột bán trong bao thì lên giá 1 đô, từ 9 đô lên 10 đô. Không biết tiệm Starbucks bên Sài Gòn có lên giá không, chắc không giá bên đó đã là giá trên trời so với nhiều người rồi.
Bác Lâm vẫn uống Starbucks phải không? Nghèo thêm mỗi ngày vài xu :).
Ông Tý Sở dĩ ông D còn ngần ngừ chưa cho ông rượu đó vì ông ấy còn ngại tôi , ông ấy đã hứa chiêu đãi tôi .Thôi ông D gửi cho ông Tý bình rượu bổ đó đi cho rồi .Không thôi ông Tý lại oán tôi -Bạn bè gì mà không làm cho nhau sướng ,ngăn cản đủ điều bực mình thấy mẹ
Hehe tôi cản vì điều đó tốt cho ông thôi .Không sát sanh thì sẽ trường thọ mà
Ông Gió .Lắm khi cùng rồi sẽ đến tận luôn vì việc đến đó là hết không còn biến hoá gì nữa
Ông D Ông cứ thong thả tập đàn mà không nên trước ý ,cứ nhẹ nhàng như ăn cơm uống nước .Bùng một phát ngày nào đó sẽ có một sợi chỉ xuyên suốt mọi dụng công .Đó là cái chỗ .Quốc sư Nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí ngộ ra từ giếng sâu trong Lục Mạch thần kiếm .Ông có tư chất tốt phải đi hành cước tới Núi Tuyết cho cao tăng điểm đạo
http://2.bp.blogspot.com/--xjFGkXln3...1600/thuoc.png
Một hiệu thuốc của người Việt
Mỗi dân tộc, để sinh tồn, phải có nền y học dân tộc riêng của mình. Truyền thuyết Trung Hoa nói vua Thần Nông mỗi ngày nếm 100 thứ cây cỏ, trong đó có 70 thứ độc, nhiều lần ông bị ngộ độc suýt chết, nhưng cũng nhờ có loại cây cỏ giải độc nên thoát chết.
Bởi vậy, vua Thần Nông đã tìm ra thuốc chữa bệnh. Việt Nam cũng có vua Thần Nông, vua của nghề nông, không phải một mà nhiều ông, rất nhiều ông. Thần Nông Việt Nam không liều mạng như Thần Nông Trung Quốc. Ông thông minh hơn, biết dựa vào thiên nhiên, nhờ vào động vật sống trong thiên nhiên để tìm ra cây lành, cỏ độc. Con chó mẹ sau khi đẻ con ra vườn tìm ăn một thứ lá cây, thành tên chó đẻ, một vị thuốc quý. Con khỉ trên rừng bị tên bắn, hái lá đắp vào vết thương, người ta trông thấy, dựa vào đặc điểm đặt tên bồ cu vẽ. Trâu bò gặm cỏ trên đồng, loài dê ăn lá trên núi, cỏ lá gì chúng ăn là lành, thứ gì chúng thà nhịn đói chứ không đụng mõm là độc, v.v… Từ những kiến thức cơ bản ấy, người xưa không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết, dân gian truyền miệng, có chữ thì ghi chép.
Lục địa Trung Quốc rộng lớn, núi cao, rừng rậm, cây cỏ nhiều. Trên cơ sở đó, dược liệu họ phong phú và phát triển. Nhưng khí hậu Trung Quốc tùy từng miền mà có khô hanh, lạnh giá, băng tuyết, cây cỏ không tươi tốt bằng phương Nam bốn mùa xanh màu xanh sự sống. Bản chất người Trung Quốc từ ngàn xưa, thích chiếm đoạt đất đai và ham làm giàu bằng nhiều thủ đoạn. Trẻ em Việt Nam cũng biết điều này, thường hay hát: “Ngộ bên Tàu là ngộ mới sang, sang Nam Việt bán buôn làm giàu…”. Một trong những con đường làm giàu của họ là thuốc Bắc. Thời Trần, chợ Cửa Đông lớn nhất kinh thành, riêng hẳn một phố Thuốc Bắc. Nhiều hiệu bán thuốc Bắc có cả thầy thuốc Bắc. Từ kinh thành, thuốc Bắc tỏa đi nhiều ngả đường đến các thị trấn, thắt chặt dây thòng lọng vào cổ thuốc Nam.
Nhưng thuốc Nam không dễ chết. Ngược lại, có sức sống mãnh liệt riêng của nó. Đối diện với phố Thuốc Bắc chợ Cửa Đông là những hàng mẹt, thúng, mủng, chiếu bày la liệt những cây, lá, củ, quả… có tác dụng chữa bệnh, nhà nông thu hái từ rừng núi Hải Đông lên, Sơn Tây xuống. Nhiều dược vị Trung Quốc không có hoặc không tốt bằng, giá cả lại rất rẻ. Tại đây thương trường cũng là chiến trường. Người Trung Quốc mua dược liệu Việt Nam là tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam. Nhưng họ đem về nước sơ chế rồi lại bán sang nước ta giá đắt gấp nhiều lần với cái tên thuốc Bắc. Chỉ có thể dẫn ra một ít ví dụ: binh lang (hạt cau già), trần bì (vỏ quýt rừng), sinh khương (gừng sống), can khương (gừng phơi râm mát), khiếm thực (củ súng), liên nhục (hạt sen), long nhãn (cùi nhãn) v.v… Đại hồi mọc ở một số tỉnh biên giới Trung Việt, nhưng đại hồi chỉ mọc nhiều ở Lạng Sơn và chất lượng tốt nhất. Củ mài Việt Nam - Trung Quốc đều có, riêng củ mài Bắc Ninh tốt nổi tiếng (Hoài sơn). Trung Quốc trồng nhiều ở Quảng Tây, Quảng Đông giáp giới Việt Nam, cho quế nhục, quế bì, quế chi làm thuốc nhưng không tốt bằng quế Việt Nam, đặc biệt là quế Thanh Hoa (Trịnh Vạn) rồi đến Nghệ An (Quỳ Châu). Cho đến lộc nhung, gạc nai,… cũng vậy.
Năm 43, tướng xâm lược Mã Viện tiến vào Cửu Chân (Thanh Hóa) vơ vét trống đồng tiêu diệt linh khí phương Nam, linh hồn Lạc Việt. Mã Viện tiêu diệt nền văn hóa Việt Nam, không quên chất hàng xe đầy cây bo bo (hạt làm thuốc) Trung Quốc gọi là ý dĩ chở về nước. Những năm tháng Trung Quốc đô hộ Việt Nam, bắt dân ta phải tiến cống sừng tê, ngà voi, ngọc trai,… đều có tác dụng làm thuốc trị bệnh vô cùng quý hiếm…
Đời vua Trần Hiến tông đêm trăng trung thu chơi thuyền Hồ Tây, Thái tử Vượng ngã xuống nước, chỉ còn thoi thóp thở. Vua triệu thầy thuốc giỏi Trâu Canh đến chữa. Trâu Canh là con Trâu Tôn, dòng dõi đại y sư Trâu Diễn. Trâu Tôn vào quân đội phục vụ quân xâm lược Nguyên Mông sang nước ta cướp phá. Quân Nguyên Mông đại bại, Trâu Tôn bị bắt, vua Trần tha tội vì y biết nghề thuốc. Trâu Canh nối nghiệp cha làm thuốc, rất được tín nhiệm. Đáng lẽ chỉ cần châm vào huyệt nhân trung và mệnh môn hỏa, thái tử Vượng tỉnh lại ngay và khỏe mạnh bình thường. Nhưng Trâu Canh châm vào hiểm huyệt khiến thái tử Vượng lớn lên bị liệt dương, không thể sinh con nối dõi. Vua Hiến tông chỉ có Vượng là con trai, tất anh em trong họ tranh giành ngôi báu, tạo cơ hội để nhà Nguyên phát binh mã kéo sang đánh lấy Đại Việt dễ như thò tay vào túi lấy đồ vật.
Chị ruột thái tử Vượng, công chúa Thiên Ninh rất thông minh và quyết đoán, bằng mọi cách muốn em trai chữa khỏi bệnh liệt dương. Vua Hiến tông sai Trâu Canh tìm phương thuốc cứu chữa. Trâu Canh ra chợ Cửa Đông mua mấy hàng thuốc Nam các thứ thông dụng: Diêm sinh (lưu hoàng), cây chân chim (ngũ gia bì), củ súng (khiếm thực), củ mài (hoài sơn)… cho vua Dụ tông (thái tử Vượng) trong uống, ngoài đắp. Dụ tông quả nhiên khỏi bệnh. Nhưng Trâu Canh chưa cho gặp các cung nữ vội, bắt phải thông dâm với chị ruột (công chúa Thiên Ninh) ba lần… Sau đó, những cung nữ được chọn dâng lên vua do Trâu Canh đã bí mật gian dâm trước. Thời gian sau, bệnh Dụ tông tái phát như cũ, nhưng một số cung nữ vẫn có chửa! Thượng hoàng Hiến tông sai tra hỏi, họ đều thú nhận. Hiến tông khép Trâu Canh án tử hình. Dụ tông xin tha tội chết, chỉ cách tuột chức tước, vì dù sao y cũng có công chữa bệnh cho vua. Đám cung nữ xấu số bị đuổi ra khỏi cung. Họ không thể mang giống nòi Trâu Canh. Họ ra chợ Cửa Đông tìm đến các mế nàng bán thuốc Nam, xin được thương tình “cho” ấm thuốc lá…
Vua Dụ tông chết sớm, ngôi báu truyền sang Nhật Lễ. Vốn Lễ là con trai Kép hát Trung Quốc Dương Khuông do Cung Túc vương Nguyên Dục thích vợ anh ta đẹp, hát hay lấy về làm lẽ đã có mang 3 tháng, sau đẻ ra Nhật Lễ. Nhật Lễ được làm vua, ra lệnh tàn sát tôn thất, giết cả Thái hậu, đưa người họ Dương và phe cánh vào triều nắm giữ các chức vụ trọng yếu. Đất nước đứng bên bờ vực thẳm…
Thiên Ninh công chúa (chị ruột Dụ tông) họp gia nô làm lính, hẹn Cung Định vương Trần Phủ hội quân tại bến sông Đại Lại Thanh Hóa rồi kéo ra Thăng Long bắt giết Dương Nhật Lễ, đưa Trần Phủ lên ngôi làm Nghệ tông. Đất nước lại đứng vững sau cơn nguy biến nhất thời.
http://2.bp.blogspot.com/-0AknX0-YSx...pgthuocnam.jpg
Thu hái thuốc Nam trong vườn nhà
Thời Trần, Nho học nước ta bắt đầu phát triển. Những tài năng lỗi lạc, danh sĩ xuất chúng: Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Trương Hán Siêu… đều xuất thân cửa Khổng sân Trình. Nhưng quan trường đất chật, nho sĩ người đông, không “tiến vi quan” thì “đạt vi sư”. Ai cũng làm nho sư (thầy đồ) kiếm đâu ra học trò? Đành “sư” nào là “sư”: Địa lý sư, y sư, bốc sư, pháp sư,… Nhiều người chọn nghề thầy thuốc chữa bệnh cứu người, giúp đời. Họ nghĩ học thuốc Bắc dễ kiếm sống vì chỉ có thuốc Bắc mới có sẵn thầy để học, sách để đọc và thuốc Bắc để chữa bệnh. Họ xuất thân từ nông thôn, hành nghề ở nông thôn. Nhưng thuốc Bắc giá đắt, đa số nông dân nhà nghèo khó, vẫn dùng thuốc Nam là chính vì rẻ tiền, lắm khi không mất tiền. Ví dụ: Chị Cò có thằng Cu bị đi phân lỏng đến nhà thầy thuốc Nam hỏi “xin” tí thuốc. Thầy (chỉ là bà lang vườn) bảo: “Nhà chị về nhà hái mấy ngọn ngấn hương, mấy búp chè, mấy đọt ổi, thêm vài ba hạt muối, nhai nát trún cho cháu vài ba lần thì khỏi!” Chị Cò nghe lời thầy về làm theo, quả nhiên thằng Cu khỏi.
Ở nông thôn, thực tế, từ vườn ngõ nhà mình đến đầu làng cuối xóm, ngoài đồng ruộng, bái hoang, chỗ nào cũng mọc đầy cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Người dân nào cũng ít nhất biết một vài bài thuốc Nam đơn giản chữa bệnh. Thành ngữ “Thầy nhà lá vườn” phản ánh khá chính xác tình hình thuốc thang và công việc chữa bệnh trước kia ở nông thôn nước ta.
Thầy thuốc Bắc thường phải có dao cầu, bồ thuốc, nhưng ít khách, thị trấn xa, hay bị “què vị” (thiếu vị) không dễ “bổ vị” (mua bổ sung) đành phải tính bài “thay vị” Bắc bằng vị Nam. Thì nhà thầy có cả kho “bán không ai mua, cho không ai lấy”. Nhà thầy cũng như nhiều nhà khác, trên một mảnh vườn hẹp, có biết bao cây thuốc, vị thuốc quý: Cây núc nác đầu ngõ, vỏ tác dụng như vị hoàng bá, cây vối sau nhà vỏ là hậu phác, cỏ gấu mạnh như gấu, củ của nó là hương phụ, cây cứt lợn mọc đầy bờ vườn là vị hy thiêm, cây cau cao vút, hạt già là vị binh lang, dây trầu không leo cây cau có thể thay vị phòng phong, v.v…
Nam dược thần hiệu là bộ sách lớn đặc biệt giá trị của Đại y sư kiêm đại thiền sư Tuệ Tĩnh. Ông chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, là người đầu tiên đặt nền móng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng nền y học dân tộc nước nhà, trước hết vì:
Thiên thư đã định rõ Nam bang
Thổ sản cũng khác miền Bắc quốc.
Tuệ Tĩnh trên tinh thần khoa học, không bài ngoại hay bài xích Trung y Bắc dược. Ngoài bộ Nam dược thần hiệu, ông biên soạn rất công phu bộ “Hồng Nghĩa giác tư y thư”, trong đó ông sở đắc khá nhiều cái hay của y lý Trung Hoa. Trong bài phú “Thuốc Nam” bằng quốc âm, Tuệ Tĩnh viết:
Tôi Tiên sư kính đạo Tiên sư
Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt.
Do thời tiết, khí hậu, đất nước phương Nam khác miền Bắc quốc, hoạt chất, tinh chất cây cỏ Nam Bắc tất không hoàn toàn giống nhau. Khí chất, bản tính người Việt Nam với người Trung Quốc cũng vậy. Đó là một đề tài hết sức thú vị, nhưng ở đây, trong một bài viết ngắn, không thể đi sâu.
http://1.bp.blogspot.com/-4N9jUl1vGr...TBchoanhuy.jpg
Thuốc Bắc bán ở chợ An Huy-T.Quốc
Hàng thuốc Bắc tràn ngập thị trường dược liệu, thầy thuốc Bắc cũng chiếm lĩnh “thị trường” chữa bệnh dẫn đến thị hiếu quen dùng, ưa dùng thuốc Bắc. Dược liệu Nam bị coi rẻ, thầy thuốc Nam bị coi thường, gọi bằng các tên lang vườn, lang khoai, lang băm, lang gà!
Nhưng thuốc Nam không thể mất, thầy lang không thể chết. Vì người Nam vẫn sinh tồn và phát triển, dù trải qua bao cuộc chiến tranh hủy diệt.
Một lý do rất đơn giản, thiết thực là thuốc Nam tiện và lợi. Những thầy thuốc trong Thái y viện thời Lê được đọc sách Bản thảo chữ Hán từ Thần nông bản thảo cổ xưa đến Bản thảo cương mục, Bản thảo tòng tân, Bản thảo thập di, Bản thảo vấn đáp, Nam phương thảo mộc trạng, v.v… Chắc chắn họ phát hiện quá nửa số dược vị trong Bản thảo cương mục nổi tiếng của Lý Thời Trân (đời Minh), ở Việt Nam cũng có và tác dụng chữa bệnh giống nhau.
Tiêu biểu cho giới thầy thuốc thời Lê là danh y Trần Ngô Thiêm, sống nửa đầu XVIII, người làng Tây Mỗ, Từ Liêm (Hà Nội), một ngự y rất được các vua nhà Lê tín nhiệm. Những phương thuốc kinh nghiệm của ông truyền lại, ngoài phương dược cổ rút ra từ y thư Trung Hoa được các danh sư Trương Trọng Cảnh, Trần Tu Viên,… bàn luận nhiều và một số phương thang do ông tự cải tiến, có không ít bài thuốc theo kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân, ông sưu tầm được. Trong đó, nhiều phương thuốc mang tính Bắc - Nam kết hợp. Đặc biệt, Trần Ngô Thiêm sử dụng cả thuốc dân gian kinh nghiệm của người Việt. Ví dụ: Bệnh trẻ em bị kinh phong méo mồm, lấy máu mào gà bôi vào thóp và góc hàm em bé sẽ khỏi. Nếu trẻ em bị kinh phong phát sốt: Chích máu mào gà hòa với ít bột hùng hoàng cho uống, v.v…
Đời Tây Sơn, ngọn cờ “Nam dược thần hiệu” do Tuệ Tĩnh dựng lên (thế kỷ XIV hay XVII?) được vua Quang Trung phất cao bằng việc thành lập Viện nghiên cứu chữa bệnh bằng thuốc Nam (Nam dược cục) do danh y Nguyễn Hoành làm Viện trưởng (Ngự y chính, chánh cục) là đòn chí mạng vào độc quyền thuốc Bắc của Trung Quốc. Theo lương y Nguyễn Minh Cầu (hậu duệ Nguyễn Hoành), Nguyễn Hoành có soạn sách Nam dược bản thảo, Y học nhập môn ca… Rất tiếc, sau khi vua Quang Trung mất (1792) Nam dược cục không được vua Quang Toản quan tâm, Nguyễn Hoành xin giải chức, về quê Thiên Linh, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa, làm một lang vườn!
Thực tế, không phải mới từ Lê - Tây Sơn mà đời Trần thuốc Nam đã được chú trọng với việc Trần Hưng Đạo gây trồng vườn cây thuốc Nam trên núi Sơn Dược (Hải Dương), ẩn sĩ Trần Tu (Thời Trần - Hồ) cũng có một vườn “thuốc tiên” trên đỉnh Am Tiên, núi Nưa (Thanh Hóa)…
Triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí, chú trọng mục sản vật, trong đó sưu tầm, ghi chép những vị thuốc quý ở từng địa phương như sâm báo, sâm Bố Chính, quế Thường Xuân, ý dĩ Thanh Hóa, nam tinh Vĩnh Lộc, sơn dược Kinh Bắc, v.v… Rất độc đáo và đặc sắc một số cây thuốc Nam được khắc hình lên đỉnh vạc lớn đặt ở sân nhà Thái miếu kinh thành Huế: Quế Thanh (Nghị đỉnh), Hương nhu (Thuần đỉnh), Sa nhân (Thuần đỉnh), Hột sen (Nhân đỉnh), Quả nhãn (Tuyên đỉnh), Tía tô (Dụ đỉnh), Kiệu (Chương đỉnh), Tỏi (Huyền đỉnh), Gừng (Tuyên đỉnh), Hành (Cao đỉnh), Hẹ (Nhân đỉnh), Đậu xanh (Chương đỉnh), Đậu trắng (Dụ đỉnh), Đậu ván (Nhị đỉnh)… Khắc ghi vào đỉnh vạc những cây thuốc, vị thuốc quý của Nam dược là cách khẳng định giá trị muôn đời của thuốc Nam trường tồn bất diệt cùng với người Việt Nam, giang sơn gấm vóc, đất nước yêu quý Việt Nam.
Thời kỳ kháng chiến 30 năm chống giặc ngoại xâm (1945-1974) nguồn thuốc Bắc khan hiếm, thuốc Nam càng được khẳng định vai trò “Nam dược trị Nam nhân” và khả năng “thần hiệu” của nó.
Tỉnh Thanh Hóa, thời kỳ phong kiến chống bành trướng xâm lược phương Bắc, ra đời loại hình trò diễn dân gian. Rất nhiều trò Ngô, nội dung hài hước, chế diễu, đả kích quân Tàu thực dân “sang Nam Việt bán buôn làm giàu” bằng các thủ đoạn xảo quyệt, vô nhân tính. Ví dụ: Trò Khách xưa ở làng Thiết Đanh, Yên Định và Bằng Trình, Thiệu Hóa. Một chú khách Tàu bán thuốc Bắc (đi cùng thầy địa lý Tàu) quảy đôi bồ rao thuốc: “Cái nị (ông, bà)! Cái nị! Thôốc lớ! Thôốc lớ! Ngộ tựa (từ) Quảng Tông (Quảng Đông), ngộ sang Pắc kè (Bắc kỳ), cái nị muốn thôốc chi, ngộ cũng pán!” Một người Nam nói đế: “Thôốc thôốc, thôốc chi mà thôốc? Bải (phải) rồi! Củ chuối, củ nâu, nấu chín, nhuộm đen thành thôộc tịa (thục địa)!” Người khác đế thêm: “Thôốc thôốc! Thôốc tốt nhờ thang, cả làng nhờ thuốc thầy Tàu: Đau bụng thì uống nước đồng, đau mắt lấy mủ xương rồng mà tra, nhức đầu lấy đá mà va…!” Khán giả cùng cười vang. Thầy Tàu cũng nhe bộ răng trắng nhởn ám khói vàng khè cười hềnh hệch !... (1)
Đó là bản chất, bản tính tàn ác, xảo quyệt, trơ tráo của người Trung Quốc. Cho nên ông cha ta từ xưa đã chỉ rõ chân tướng : “Thuốc Nam đánh giặc thuốc Bắc lấy tiền(2). Nay, thuốc Bắc vẫn xuất sang ta, dùng nhiều hóa chất độc hại khi gieo trồng, bào chế cùng hạng thầy Tàu rởm, khoe khoang chữa bách bệnh nan y đều chung mục đích như tổ tiên họ “Sang Nam Việt bán buôn làm giàu” không từ thủ đoạn lừa đảo, cướp của, giết người!
Xem ra cuộc chiến ngàn năm thuốc Nam - thuốc Bắc chỉ là một trong nhiều trận địa cam go, chưa có hồi kết...
Ông Dê cũng muốn tìm hiểu về Đông Y à ?, tấm ảnh có hình lá cây tôi đã úp lên ở trong quyển 'Tăng bổ bản thảo' của Đông Y, hồi đó dùng phần mềm thử dịch nhưng không được. Về tính vị dược thảo thì thuốc Nam chữa bệnh hiệu quả hơn, thuốc Bắc bồi dưỡng cơ thể tác dụng hơn, đấy là nói trước kia con người thuần phác, khí hậu trong lành. Bây giờ hằng ngày ra chợ mua rau, củ, quả cũng còn chưa biết thế nào ...!.
Ông Wind thích bàn về lẽ cùng thông, chắc hằng ngày dùng Dịch gối đầu giường.
Ông Thợ có bài viết rất hay, trong đó có nói về cỏ Gấu 'củ của nó là Hương phụ' đấy là báu vật của chị em. Nên phân biệt chớ có nhầm với 'củ gấu tầu'.
Làm nhớ có lần làm việc nhiều thấy yếu người đi ông thầy Đông Y, ông này di dân từ Bắc Kinh qua ông nói phân lượng bây giờ không thể dùng như trong sách xưa được, cây cỏ bây giờ nhiều chất hóa học ảnh hưởng không như xưa. Ổng phải tùy kinh nghiệm mà phăng ra thêm.
Ổng nói mầy yếu thận âm (chắc tại người nóng quá) nên đem bài lục vị biến chế ra thêm. Có bỏ thêm mai rùa vã ra, nói cái này bổ âm tốt lắm. Mình uống một hai lần thấy tốt người mát ra, nhưng nghĩ mình chỉ là yếu người chứ có bệnh hoạn gì đâu mà phải uống mu rùa nên vài lần sau bảo ổng thôi đừng dùng mu rùa.
Cái này phần nhiều nhìn đời sống mà ngẫm nghĩ ra bác Phi.Trích dẫn:
Ông Wind thích bàn về lẽ cùng thông, chắc hằng ngày dùng Dịch gối đầu giường.
Dễ thấy nhất là trong đời sống mình, sau năm 75 bao nhiêu người chạy tứ tán tiền bạc mất hết; nhiều người đàn bà con bồng con bế bao nhiêu năm chồng cha lo cho bây giờ phải tự tay tự thân mà lo vậy rồi cũng thành công tiền bạc con cái. Cũng có những người bất đất chí mấy chục năm ngồi ù lì than "tại". Cuối cùng mình nghiệm ra hình như không có cái thật là triệt, có triệt một khoản thời gian thì có, nhưng đường lâu đường dài hình như luôn có cách chuyển, chỉ là con người muốn chuyển hay không thôi. Tôi có niềm tin đó. Có đều phải công nhận một người tự chuyển thì khó thật, bởi vậy mới có câu gì đó "non sông dễ đổi tâm tánh khó thay" (?). Cả một số lớn người phải chuyển thì càng khó nữa.
Đúng rồi đó bác D! Có một số loại trái cây hỗ trợ làm tan đi phần nào sỏi mật như sung (sấy khô), nước táo, nước chanh (uống nóng), rong biển, củ dền (làm thành nước uống). Ngoài ra, có một số người tôi thấy họ dùng 2 thìa muỗng cafe của Apple Cider Vinegar cho vào với 1 chút mật ong và nước lọc, uống mỗi ngày, cũng hỗ trợ trong việc làm tan sỏi mật. Nếu chỉ muốn dùng Apple Cider Vinegar mà thôi thì đổ vào chừng 1/4 cup Apple Cider Vinegar với chút nước lọc cũng được, và uống mỗi ngày. Cái này lành, uống không sao cả, bác ạ.