Vâng em cảm ơn bác nhiều! Nhưng vế sau câu hỏi thì em muốn được nghe nhiều hơn...
Printable View
Vâng em cảm ơn bác nhiều! Nhưng vế sau câu hỏi thì em muốn được nghe nhiều hơn...
"Cái này có - cái kia có". Căn cơ tôi thấp kém nên tôi chọn cách chuyên tâm tụng niệm. Theo tôi thấy ta nên chú trọng ở hành trì hơn là thấu hiểu. Kinh tạng, thần chú... vượt qua ý thức của con người thì làm sao dùng ý thức để hiểu cho thấu, không khéo lại rơi vào tà kiến.
Lần này lòng cứ lưu luyến đến tu viện ở Nha Trang. Mong sao một lúc nào đó mình dẹp hết tất cả để chuông mõ hoặc mỗi năm đến đó vài tuần học tập cùng các bậc minh sư...
Thanks bạn ChienKhuD. Bận lòng chi nắm bắt, tâm bình thường là đạo ! Tôi thì nghĩ thần chú là ngữ ngôn của chư Phật, bồ tát nên hiểu về công dụng của chú nào hợp với mình thì tốt khi hành trì(không phân tích ngữ ngôn). Kinh tạng có văn, có tư thì tu dễ tiến. Mà bạn ở Bình Dương sao lại ra tận tu viện ở Nha Trang vậy? Tu viện nào ở Nha Trang có bậc minh sư vậy bạn ui?
Quái lạ hai ông D và ông Nhật Nguyệt đều còn trẻ mà đã có kiến văn của bậc thượng thủ
vượt qua ý thức của con người thì làm sao dùng ý thức để hiểu cho thấu,
Ông này rành rẽ Duy thức học ,biện tài vô ngại song vẫn còn dính vào phương tiện .Kinh Viên giác có nói Lìa cho đến hết cái đặng lìa ,như người tự cắt đầu mình .Đầu đứt thì cũng chẳng còn người cắt hay kẻ bị cắt
Kinh tạng có văn, có tư thì tu dễ tiến.
Ông này hành trì nhưng vẫn theo sát lời Phật dậy .Tuy nhiên chân ngôn quí ở chỗ hành trì không quí ở chỗ giác chỗ hiểu bởi đời cũng như đạo vẫn có những việc Bất khả tư nghì .Thế nên Đại Hạnh Phổ Hiền cũng có chỗ vi tế vượt qua Đại Trí Văn Thù .Nhưng rốt ráo vẫn là phương tiện .Đức Thế Tôn ba ngàn năm trước đã phải nói một trong những cái khó nhất trên đời là Khéo dùng phép phuơng tiện
Núi Linh Thứu nay đã quạnh quẽ mà lời dậy của Ngài Cồ Đàm vẫn còn vang dội trong từng phiến đá
Bác thợ cầm một chai bia trong tay và đưa lên, miệng mỉm cười! Thanks a lot!:zzz
Chỉ muốn làm người học trò nhỏ để được các bác chỉ bảo. Đang tập đánh bài 14 nhịp 6/8 nhức đầu ghê bác Thợ. Gần năm nay chỉ tập mỗi nhịp đơn 3/8 thôi. Bài này thầy cho tự tập sau khi tập xong bài số 1. He he học nhảy cóc chẳng theo thứ tự nào cả...
https://dl.dropboxusercontent.com/u/...0421221930.gif
Chào cả nhà :)
Đọc com của quý bác và anh em thú vị thật!
Bác Lâm cùng quý anh em gặp nhau hàn huyên, chụp hình, ăn uống, cùng trải nghiệm đây đó thật là vui. Đi như vậy mới bõ công, quý bác nhỉ.
Chẳng bù cho tôi chẳng biết gì cả. Nhớ lại chuyện tôi và bà nhà lúc mới quen, bà nhà dẫn tôi về ra mắt gia đình của cô ấy. Ngày hôm đó là lễ Phục Sinh, bố mẹ, cô chú bác, bạn hữu có đầy đủ cả. Bà nhà kéo tôi ra giới thiệu với gia đình cô ấy. Sau khi giới thiệu qua chuyện học hành của tôi, xong bảo với mọi người là: bạn con "4 món ăn chơi" chẳng biết thứ gì cả. Ông bà Nhạc chỉ cười khà khà chứ không nói gì. Mọi con mắt đồ dồn về phía mình và chỉ cười, không biết họ nghĩ gì.
Chẳng bù cho tôi, bà nhà tôi vốn là gia đình làm ăn, nên từ ông bố cho tới cô ấy cũng thuộc loại "uống" được lắm. Cứ mỗi lần đi đâu chơi đến phần uống, bà nhà làm luôn phần của tôi. Có thời gian sau này mới uống tí xíu cho vui, chứ lúc trước thì chỉ biết nước lọc, trà, cafe mà thôi. Nghĩ lại thấy mình đánh mất tuổi xuân khá nhiều. Chơi bời, rượu chè, gái gú chẳng biết thứ gì, hehe. Tôi hỏi bà nhà sao em không lấy người đồng đạo cho hợp gu, lấy anh thì chán chết...bà nhà tôi chỉ cười tươi, chứ không nói gì.
Quý bác cùng anh em chuyện trò vui vẻ nhé. Mình phải trở lại công việc.
Ông Tôn cũng nên xếp bút nghiêng lo việc ăn chơi một ít. Thật ra thì rong chơi cũng không có gì để ca ngợi, một lối sống một ưa thích của từng người thế thôi, như bao nhiêu lối sống ưa thích trong cuộc đời này. Có đều lâu lâu để mình vào hoàn cảnh không quen thuộc mới biết mình ra sao. Cho nên thầy chùa nên rong chơi, thằng hoan đàng chi địa thì nên vào chùa ngồi lim dim con mắt.
Ông D .Nghệ thuật làm sao mà dễ dãi được ông .Chiều nó cũng khó khăn như chiều một người phụ nữ đã đẹp lại còn tài hoa
Cái quan trọng không phải ông đàn được bao nhiêu bài ,mà là để cái nhịp điệu ấy thấm vào người .Nghệ sĩ Nam Mỹ tại sao họ đàn Tango hay Bossanova chỉ vài nốt thôi là mình thấy nôn nao ,chính vì họ đã nắm được cái nhịp điệu huyền bí đó
Người Tạng và Ấn Độ rất giỏi về nhịp điệu .Khi họ tụng kinh mình mới thấy hết cái phong phú ,tiết điệu và nhịp điệu thay đổi liên tục ,chia thành 2 bè hay 3 bè rất phong phú ,giọng này nối tiếp giọng kia .tụng xong lại đến hát nghe rất đã
Ông Tôn .giữa một người yêu nhiều người và người yêu chỉ một người .chưa chắc ai đã hiểu tình yêu hơn .Nhiều ,có khi là phải chạy tìm kiếm lung tung vì không hiểu .Một, có khi là đã đầy đủ rồi .Hạnh phúc mỗi người mang một tầm vóc khác nhau .Ông đang hạnh phúc với phu nhân cớ chi lại tủi thân than thở .Nể ông là bậc thức giả không thôi tôi đã phạt thẳng tay vì đã có một tà kiến về hạnh phúc
http://gdb.voanews.com/DAA3D1F3-1570...0_cy6_cw86.jpg
Để chỉ sự-sống-sau-cái-chết của một nhà văn, trong tiếng Việt có hai khái niệm: bất tử và bất hủ. Nhiều người bất tử nhưng không bất hủ: Đó là những cây bút có giá trị lịch sử hơn là giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Tác phẩm của họ còn, nhưng chỉ còn trong các thư viện đầy bụi bặm để các nhà nghiên cứu cặm cụi tìm tòi và phân tích như các nhà giải phẫu học nghiên cứu các tử thi trong phòng thí nghiệm. Chỉ riêng trong văn học Việt Nam, những người thuộc loại này nhiều vô cùng. Trong mỗi nền văn học, và mỗi thời đại, số người thực sự bất hủ rất hiếm: Đó là những người có tác phẩm, nói theo cách nói quen thuộc, “vượt thời gian và vượt không gian”, ở đâu và thời nào, đọc lại, người ta cũng thấy hay. Nhờ sự bất hủ của tác phẩm, tác giả thành bất tử.
Như vậy, trong bảng giá trị văn học, khái niệm bất hủ cao hơn khái niệm bất tử: Người bất hủ đương nhiên bất tử trong khi không phải ai bất tử cũng đều bất hủ. Điều đó cũng có nghĩa là, trong các yếu tố tạo nên giá trị văn học, tác phẩm quan trọng hơn con người. Chứ không phải ngược lại. Những người có cuộc đời lớn hơn tác phẩm (ví dụ các nhà cách mạng hay các nhà đạo đức) hiếm khi thực sự là những cây bút lớn và cũng hiếm khi còn lại với thời gian như những giá trị thẩm mỹ lúc nào cũng tươi roi rói. Ngược lại, với những nhà văn lớn thực sự, tác phẩm của họ bao giờ cũng thông minh, đẹp đẽ và cao lớn hơn hẳn con người của họ. Chính những tác phẩm như thế đã “cứu” họ khỏi trận lũ điên cuồng của sự quên lãng.
Nhưng cái lớn của tác phẩm không phải chỉ lớn tự bản thân nó. Cái lớn của tác phẩm, ngoài những giá trị tự tại, còn tùy thuộc vào hai yếu tố khác nữa: một là phê bình và hai là ảnh hưởng.
Theo tôi, một trong những tác dụng của phê bình là làm cho các tác phẩm lớn trở thành lớn hơn và đặc biệt, giàu có hơn. Mỗi bài phê bình hay, thực sự hay, phải là một cách diễn dịch mới. Nhiều bài phê bình hay như thế gọp lại, bức chân dung của tác giả và tác phẩm sẽ trở thành đa dạng, đa tầng, đa thanh và đa sắc hơn. Có thể nói, cái giàu của một tác phẩm hay một tác giả cũng giống cái giàu của ngân hàng: Giàu chủ yếu nhờ số tiền khách hàng ký thác. Trong văn học, sự ký thác ấy đến chủ yếu từ phê bình. Và như vậy, chúng ta có thể thấy ngay: Một nhà văn/nhà thơ sinh trưởng trong một quốc gia có nền phê bình phong phú và sâu sắc sẽ may mắn hơn một đồng nghiệp sinh trưởng trong một quốc gia như… Việt Nam, nơi phê bình không những ít mà còn yếu, không những nghèo mà còn vụng.
Thứ hai là ảnh hưởng. Tầm vóc của một người cầm bút lớn giống như tầm vóc của một nhà lãnh tụ lớn: Cái gọi là sự nghiệp của họ không phải chỉ thể hiện ở những gì họ làm mà còn ở tác động của những việc làm ấy đối với lịch sử. Ví dụ trường hợp của Nguyễn Du với Truyện Kiều: Tác phẩm này không những hay mà còn góp phần làm cho tiếng Việt (thời ấy còn viết bằng chữ Nôm) trở thành một ngôn ngữ văn học thực sự; làm cho truyện thơ trở thành một thể loại văn học; làm cho nhân vật nữ trở thành một hình tượng, hơn nữa, một hình tượng trung tâm của cả một thời đại; cuối cùng, làm cho chủ nghĩa nhân đạo trở thành một dòng chủ lưu trong văn học cổ điển Việt Nam.
Trường hợp của Gabriel García Márquez (1927-2014) cũng vậy, dĩ nhiên ở một tầm khác, rộng hơn (ở phạm vi toàn cầu) và cao hơn (ở tầm nhận thức và phương pháp sáng tác). Ảnh hưởng của Márquez lớn và cụ thể đến độ người ta có thể thấy được, cân đo đong đếm được. Ông đã biến Colombia, quê hương của ông, thành một xứ sở văn học thay vì chỉ là nơi nổi tiếng về việc trồng và buôn bán thuốc phiện. Ông đã thần thoại hóa nguyên cả một lục địa (Nam Mỹ) và qua đó, làm cho cả vùng đất ấy bỗng dưng có một linh hồn để từ các lục địa khác, các nền văn hóa khác, người ta có thể hình dung được con người châu Mỹ La Tinh thực sự như thế nào. Ông đã làm cho tiếng Tây Ban Nha trở thành một thứ ngôn ngữ văn học ở phạm vi toàn thế giới, một vai trò mà, theo nhiều nhà phê bình, chỉ có Miguel de Cervantes (1547-1616), với tác phẩm Don Quixote là có thể so sánh được.
Márquez không phải là người phát minh ra phương pháp sáng tác hiện thực thần kỳ (magical realism). Công lao ấy thuộc về nhà văn Argentina Jorge Luis Borges, nhà văn Cuba Alejo Carpentier và nhà văn Mễ Tây Cơ Juan Rulfo, nhưng không ai có thể phủ nhận được, chính Márquez, với cuốn Trăm năm cô đơn, câu chuyện viết về bốn thế hệ nhà Buendia, chứ không phải bất cứ ai khác, đã biến chủ nghĩa hiện thực thần kỳ trở thành một phương pháp sáng tác đặc sắc, một dấu ngoặt trong lịch sử văn học thế giới và một nguồn cảm hứng cho vô số các cây bút thuộc nhiều văn hóa và nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó, có lẽ có cả Việt Nam. Riêng tại Úc, nhân ngày ông qua đời, nhiều nhà phê bình và học giả đồng thanh nhấn mạnh: Nếu không có Márquez, có lẽ diện mạo văn học Úc trong suốt mấy chục năm vừa qua sẽ khác hẳn. Nhiều nhà văn tài hoa của Úc thừa nhận: Cách viết của họ thay đổi hẳn sau khi đọc Márquez.
Nhưng ảnh hưởng của Márquez còn lớn hơn tất cả những điểm vừa nêu. Ông không những thay đổi cách viết của nhiều người; ông còn thay đổi cả cách đọc của quần chúng, hơn nữa, qua đó, thay đổi cách nhìn về hiện thực của mọi người: Người ta bỗng phát hiện đằng sau những sự kiện ngỡ như rất hợp lý, được nối kết với nhau bằng một thứ quan hệ nhân quả bỗng xuất hiện vô số những làn sương mù mịt với những hình ảnh thấp thoáng: Cái gọi là hiện thực bỗng trở thành huyền ảo hẳn và ngược lại, những cái vốn được xem là huyền ảo lại trở thành như thực.
Với những người có tầm vóc lớn lao như vậy, cái gọi là chết hay qua đời chả có ý nghĩa gì cả. Có thể nói, họ có đến hai thân thể: một là xương thịt và một là giấy. Thân thể bằng xương thịt lụi tàn, trong khi cái thân thể bằng giấy, với những cuốn sách lấp lánh chữ nghĩa kia cứ tồn tại mãi. Chính vì vậy, nghe tin ông mất, tôi chả có chút cảm xúc gì cả. Không buồn. Không thấy mất mát. Nhưng tự dưng thấy… cô đơn. Tôi bèn với tay lên kệ lấy các cuốn sách của ông đọc lại. Qua các cuốn sách ấy, tôi gặp lại Márquez. Ông vẫn còn đó. Ông kể chuyện. Ông tâm tình. Ông vẫn ngây thơ đến khờ khạo khi bàn về một số vấn đề chính trị. Nhưng khi ông nói về đời sống và con người, về văn chương và chữ nghĩa, hầu như lúc nào ông cũng thâm trầm. Ông không có gì đổi khác cả.
Và có lẽ ông sẽ không bao giờ đổi khác.
Có phải bài nhạc này, Biển Nhớ Muôn Trùng (Chateau De Sable Live) do ca sĩ Ngọc Lan trình diễn chỉ đươc thu âm có 1 lần?
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/bi...5bNmmfHbZ.html