Nghệ thuật giống như gái đẹp bác D ạ , càng kiêu kì khó chinh phục càng khoái ,đuợc rồi suớng tê mê .Những bài dễ tập tất cũng dễ chán ,một đoạn khó mà chạy lưu loát suớng không thể tả .Gái mà chưa kịp tán đã ...đây này.. Bác có chán không .Hôm nay xin tặng bác bài viết về Tango như một gửi gắm cho người bạn vong niên
Trong thể loại tango của Argentina, bản nhạc El Choclo là giai điệu nổi tiếng nhất nhì trên khắp thế giới, chỉ thua nhạc phẩm La Cumparsita (Vũ nữ thân gầy). Bản El Choclo từng được dịch sang tiếng Anh là Kiss of Fire (Nụ hôn rực lửa) và trong tiếng Việt là Tình như Mũi tên (lời của Anh Bằng). Nhưng ít có lời nào lột tả một cách trọn vẹn cái hồn của nguyên tác : ca từ thanh tao, ý tứ thô tục.
Vào cuối thế kỷ XIX, các bài tango chủ yếu là các giai điệu phổ biến trong giai cấp bình dân, thường là sáng tác tùy hứng, ít có cấu trúc bài bản.
Nội dung các ca khúc chủ yếu nói về cuộc sống về đêm, xoay quanh cái thế giới của các cô gái điếm. Trong những khu phố bình dân của vùng Rio de la Plata, có đủ mọi thành phần xã hội lui tới các nhà chứa : từ giới thượng lưu quý tộc, các doanh nhân tài phiệt, thành phần văn nghệ sĩ, các tay anh chị trong giang hồ, thổ dân da màu hay công nhân thấp hèn trong tầng lớp nhập cư … Thượng vàng hạ cám, khác biệt hay chăng là ở cái túi tiền mà khách làng chơi, giàu sang hay nghèo nàn, chịu bỏ ra để mua vui.
Khá nhiều bản tango đã ra đời trong cái bối cảnh đặc biệt của xã hội Achentina thời bấy giờ. Những bản nhạc thô tục nhất ít khi nào được ghi chép mà chỉ được truyền khẩu nên dễ bị mai một. Nếu có may mắn được lưu lại, thì bản nhạc cũng hiếm khi nào mà ghi tên tác giả.
Một điều cũng khá dễ hiểu vì chẳng có ai mà dám công bố mình là tác giả của những bài hát với lời lẽ thô tục, sống sượng đến như vậy. Những bản nhạc lưu truyền cho tới tận ngày nay, thường là những ca khúc dùng chữ thanh để nói lên cái tục : bài hát El Choclo vì vậy trở nên tiêu biểu cho các khúc tango hoan vui trụy lạc, lẳng lơ đĩ thõa.
Trong tiếng Tây Ban Nha, El Choclo có nghĩa đen là Trái Ngô, nhưng trong nghĩa bóng nên hiểu là ‘‘Của quý đàn ông’’ thì có lẽ đúng hơn. Khúc nhạc El Choclo do nhà soạn nhạc Angel Villoldo (tác giả của bài "El Porteñito") sáng tác vào khoảng những năm 1897-1898 và được diễn lần đầu tiên vào năm 1903. Theo sử sách, lời của bài hát đã được viết vào năm 1905. Trong phiên bản nguyên gốc, tác giả dùng những chữ thanh tao như :
Đầu đồng có trái ngô
Mịn râu kết hạt vàng
Rót vào hồn miên man
Giọt đam mê dịu dàng
Trong thực tế, "El Choclo" là biệt danh của một tên ma cô chuyên cò mồi, dắt khách vào nhà chứa. Dựa vào một nhân vật có thật, với mái tóc vàng như râu ngô, tác giả Angel Villoldo phác họa cảnh dục vọng ái ân giữa hai nhân tình cũng như quan hệ giữa tên ma cô và cô gái điếm.
Đến đầu những năm 1930, ca sĩ kiêm tác giả Juan Carlos Marambio Catan sửa đổi ca từ bài hát cho lần thu âm đầu tiên, nội dung trở nên tình tứ lãng mạn hơn, nói về tình yêu đôi lứa nhưng lại gạt qua một bên những hình tượng thanh tục. Phiên bản này sau đó rất ăn khách với giọng ca Angel Vargas. Trong ca từ, tác giả lược bỏ thủ pháp hoán dụ tài tình của bậc đàn anh là Angel Villoldo. Bản nhạc vì thế mà mất đi chiều sâu ban đầu do thiếu hẳn một cách đọc.
Đến năm 1947, bài El Choclo lại có thêm một lời thứ ba trong tiếng Tây Ban Nha. Nhà thơ Enrique Santos Discépolo với cách dùng chữ trang trọng trau chuốt, lái hẳn nội dung của nguyên tác về một hướng khác. Tác giả nói về tình quê hương, những kỷ niệm thời thơ ấu để gợi lên tình cảm gắn bó của ông với đất nước, quê nhà thông qua biểu tượng của dòng nhạc tango, từ lúc khai sinh cho tới khi trở thành hình ảnh tiêu biểu của một quốc gia.
Từ năm 1952 trở đi, bản nhạc El Choclo nổi danh trên khắp thế giới nhờ có thêm phiên bản tiếng Anh là Kiss of Fire (Nụ hôn rực lửa). Nhiều ca sĩ nổi tiếng quốc tế như Nat King Cole, Connie Francis, Louis Armstrong, Tony Martin, Georgia Gibbs … đều có thu âm bài này.
Những năm gần đây hơn thì có các phiên bản của Julio Iglesias, Helmut Lotti hay của Hugh Laurie. Còn trong tiếng Việt, nhạc sĩ Anh Bằng đặt lời cho bài này sau năm 1975, các phiên bản quen thuộc nhất là qua tiếng hát của Tuấn Ngọc phối theo điệu rumba, hay của Nguyên Khang phối theo tango.
Lối dùng ca từ trau chuốt của nhà thơ Enrique Santos Discépolo định hình khuôn thước của bài El Choclo, tất cả các phiên bản ghi âm trong tiếng Tây Ban Nha đều chọn lời thứ ba làm khuôn mẫu. Các bản dịch cũng ít nhiều gợi hứng từ lời này. Bài thơ của Enrique Discépolo được nhiều người tán tụng, trong đó có văn hào trứ danh Jorge Luis Borges khi ông cho rằng không có bài thơ nào viết về tango hay như bài thơ này.
Nhưng bên cạnh đó, cũng có ý kiến ngược lại, đánh giá rằng El Choclo đã hai lần bị kiểm duyệt : khi giai điệu cực kỳ quyến rũ của bài hát trở nên phổ biến, thì ca từ nguyên gốc của bài hát lại bị cắt xén, sửa đổi cho lọt tai đa số người nghe. Vào những năm 1930, khi các dàn nhạc thường xuyên biểu diễn bài này trong các buổi dạ hội dành cho giới thượng lưu, qúy tộc, thì ca từ khiêu gợi của bản nhạc nguyên gốc khó mà chấp nhận được.
Khi nhìn lại các bản nhạc tango viết vào những năm 1890, người ta sẽ thấy là có nhiều bài hát thô tục, thô trong cách tả chân, tục vì có sao nói vậy. Nhưng bên cạnh đó, cũng có nhiều bài đậm đặc chất thơ, trong đó các tác giả khuyết danh cũng như các nhà soạn nhạc lưu danh hậu thế nhờ trổ tài luồn lách, nói bóng nói gió, qua ẩn dụ hay hoán dụ, dùng chi tiết để nói lên tổng thể, dùng cận ảnh để phác họa toàn cảnh.
Thông qua những hình tượng như Una Flota (Ống sáo), Siete pulgadas (Bảy tấc hay là Dài như bảy đốt ngón tay), El Serrucho (Ổ khóa), El fierrazo (Nòng súng) hay El Choclo (Trái Ngô), các tác giả đánh vào tâm trí người nghe. Hình ảnh càng thanh, thì ý nghĩa càng tục : Chỉ cần một chút tưởng tượng thì người ta có thể hình dung ra được các tác giả đang muốn nói gì.
Không phải ngẫu nhiên mà tango từng được gọi là Vũ điệu của ác qủy, bời vì nó biểu hiện cho đam mê rực cháy lửa tình, con tim hừng hực dục vọng trong cái thời khai sinh, từ cái thuở nguyên thủy. Những giọng ca ‘‘thiên thần’’ sau đó nổi danh là ông vua hay bà hoàng của thể điệu này, biết lột tả cái hồn của tango do có kinh nghiệm từng trải với nỗi đau xác thịt.
Khi nghe các phiên bản sau này của bài El Choclo, cái bối cảnh hình thành của dòng nhạc tango trở nên mờ nhạt hơn. Trong nghĩa đen, ca từ nguyên gốc làm cho ta liên tưởng đến những ca khúc dân gian đồng án, còn trong nghĩa bóng, ý nghĩa của bài hát làm cho những tác giả thánh thiện đạo mạo phải thẹn thùng đỏ mặt.
Trong cách chơi chữ hình thanh mà bóng tục, bài hát Trái Ngô coi vậy mà lại khuynh đảo tư tưởng phải đạo, vì thế cho nên các tác giả thường dùng uyển ngữ để làm nhẹ đi ca từ. Khi lược bỏ thủ pháp hoán dụ, lưỡi kéo kiểm duyệt đã hai lần cắt ngang "Của quý Đàn ông".
Bác để ý người nghệ sĩ ngồi kéo cello lúc cô ấy dùng tay không búng trên thùng phát ra những tiếng tóc tóc chỏi nhịp nghe suớng thật
29-10-2013, 01:32 AM
Aty
Bài này của bác Lâm làm cho em nhớ về những năm 76-77. Ngồi uống cà phê ở đường Hùng Vương Đà Nẵng, lại lắng nghe mấy bài hòa tấu này được phát ra từ cái loa to của phòng triển lãm ( lâu quá không nhớ tên ) bên kia đường. Ngày ấy có khi không có tiền phải đi uống ké cà phê với mấy thằng bạn.
29-10-2013, 02:41 PM
ChienKhuD
Cảm ơn bác Thợ. Bác quả là đánh đúng vào đam mê của tôi rồi. Tôi mê Tango lắm. Giờ luyện guitar cũng để sau này chơi Tango hehe. Những bài Tango lúc trước bác chỉ down về tôi upload lên cloud hết để tránh mất dữ liệu. Sau này khi kỹ thuật kha khá sẽ thưởng thức dần dần. Nhiêu đó bài cũng đã đủ cho việc cất công học guitar rồi.
Bài này phải đọc kỹ để lên bàn nhậu "chém" với chiến hữu mới được. Rõ là thanh và tục rất sát nhau. Vui và buồn chỉ cách nhau một nốt nhạc. E và Em mang 2 màu đối lập mà chỉ khác nhau một nốt thôi.
30-10-2013, 12:38 AM
Thợ Điện
Mùa giải cờ vua đến rồi mà ông Gió vẫn biền biệt chắc ông đang leo núi Nepal .Mong ông cẩn thận
Âm nhạc tựa như hương hoa, ẩn chứa những cảm xúc vô hình, tiềm tàng kỷ niệm mông lung khó tả. Mùi hương say đắm như ánh mắt, quyến luyến những vòng tay để rồi lan tỏa những câu chuyện tình lãng mạn. Dù nẩy sinh trong khoảnh khắc tâm can nhưng mùi hương vẫn chắp cánh vượt thời gian, không sợ tuổi già năm tháng, mà lại suốt đời miên man.
Câu nói của tác giả Osvaldo Farrés, khi ông nói về bí quyết soạn nhạc của mình, đã trở nên bất hủ để đời, cũng như khá nhiều bản nhạc bolero mà ông đã sáng tác lúc sinh thời. Nhắc đến tác giả người Cuba Osvaldo Farrés (1902-1985), người yêu nhạc trên thế giới đều biết đến ca khúc Quizás Quizás do ông viết vào năm 1947.
Có nhiều nguồn ghi chép sai một chi tiết quan trọng khi cho rằng bài Quizás Quizás là một bản mambo nổi tiếng. Thật ra, theo ông Radamés Giró, người đã soạn quyển Tự điển Bách khoa về Âm nhạc Cuba (Diccionario Enciclopédico de la Música en Cuba), nguyên tác của bài Quizás Quizás được viết theo thể điệu bolero. Lúc sinh tiền, Osvaldo Farrés từng được mệnh danh là ông hoàng bolero, vì trong số hơn 300 ca khúc mà ông đã cống hiến cho đời, phần lớn là những tình khúc du dương ngọt ngào, muôn thuở dạt dào làn điệu bolero.
Sinh năm 1902 tại thị trấn Quemado de Guînes, thuộc tỉnh Las Villas, bây giờ được gọi là Villa Clara, Osvaldo Farrés từ thuở thiếu thời đã có năng khiếu hội họa. Ở trường lớp, cô giáo thấy Osvaldo có tài vẽ tranh nên mới khuyên cậu học trò lên thủ đô để tầm sư học đạo. Sau cấp trung học, ông cùng với gia đình dọn nhà về thủ đô La Havana.
Theo lời khuyên của bố mẹ, ông chủ yếu học vẽ để kiếm sống và tự học đàn trong những lúc nhàn rỗi. Trước khi nổi danh là một tác giả, Osvaldo Farrés thời thanh niên đã làm đủ mọi nghề để kiếm sống : đạp xe đi giao hàng, họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, nhân viên quầy ngân hàng, thợ lắp ráp cửa sổ, thợ chế tạo lò xo trong các xưởng sản xuất ghế nệm. Cái nghề ổn định duy nhất gần với những gì ông đã học, là nghề vẽ bích chương cho một công ty quảng cáo.
Hồi tưởng lại giai đoạn này, Osvaldo Farrés nói rằng : Ông chưa bao giờ nghĩ tới chuyện trở thành một nhà soạn nhạc, huống chi tưởng tượng rằng một ngày nào đó, ông có thể hái ra tiền, có được một cuộc sống sung túc dư giả, chỉ nhờ thành công trong sự nghiệp sáng tác. Điều đó giải thích vì sao tác giả người Cuba này nổi danh trễ hơn so với các đồng nghiệp cùng trang lứa.
Vận may đến với Osvaldo Farrés vào năm 1937, lúc đó ông đã ngoài 35 tuổi. Vào thời ấy, một hiệu bia nổi tiếng cần một đoạn nhạc để làm quảng cáo trên đài phát thanh thủ đô. Người vẽ bích chương quảng cáo không ai nào khác ngoài Osvaldo Farrés, cho nên ông mới đề nghị công ty nhà sử dụng một khúc nhạc của ông để làm nhạc hiệu quảng cáo. Bản nhạc Mis Cinco Hijos, soạn theo nhịp điệu guajira, một thể loại dân ca miền đông Cuba, trở nên ăn khách nhờ được phát sóng nhiều lần trên đài phát thanh thủ đô.
Cũng từ đó mà cái tài soạn giai điệu của nhạc sĩ Osvaldo Farrés lọt vào tai của các nhà sản xuất. Từ đầu những năm 1940 trở đi, ông bắt đầu nổi danh nhờ sáng tác nhiều ca khúc cho giới nghệ sĩ tên tuổi. Tiêu biểu nhất cho giai đoạn này có bài Acércate Más, cũng là một bản nhạc nổi tiếng ở châu Mỹ La Tinh.
Sông có khúc, người có lúc. Năm 1943, tức cách đây đúng 70 năm, là thời điểm định mệnh của một sự nghiệp sáng tác. Vào thời đó, nhà soạn nhạc Osvaldo Farrés chấp bút viết bài Toda Una Vida (Trọn một đời người), một trong những bài kinh điển nhất của dòng nhạc bolero.
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Cristóbal Díaz Ayala, tuy Osvaldo Farrés không được đào tạo bài bản, không tinh thông nhạc lý, tức là ông không biết đọc và ghi chép nốt nhạc, nhưng ngược lại ông có một lỗ tai khác thường. Ông sáng tác bằng cách mò mẫm, ngân nga một giai điệu, để rồi thu vào máy ghi âm, nhờ người khác (thường là nhạc sĩ Fernando Mulens) có kiến thức âm nhạc, ghi chép lại từng nốt trên các bản dàn bè.
Osvaldo Farrés biến sở đoản thành sở trường : ca từ mộc mạc trong sáng thường được viết dưới dạng đối thoại trực tiếp, ông đặt mình vào tư thế của một người đàn ông tỏ tình vuốt ve, mơn trớn người yêu. Người khác sáng tác nhạc bolero bài bản cúng cụ. Osvaldo soạn ca khúc để đánh trúng tim đen người nghe. Ông nén từng câu, vuốt từng chữ như đang ôm ấp tình nhân. Cảm giác gần gũi càng hiệu quả khi người diễn đạt dùng cách hát thì thầm, thủ thỉ bên tai.
Guitar đệm hay quá
Nhờ vào sự thành công của nhạc phẩm Toda Una Vida (Trọn một đời người), mà Osvaldo Farrés trở thành tác giả độc quyền của đài phát thanh thủ đô La Havana thời bấy giờ. Từ phát thanh chuyển sang truyền hình, ông trở thành người điều khiển và dẫn dắt chương trình Bar Melódico de Osvaldo Farrés (hiểu theo nghĩa Quán nhạc du dương).
Chương trình này được phát sóng mỗi buổi tối thứ Tư hàng tuần, xen kẽ các tiết mục biểu diễn ca nhạc với các cuộc phỏng vấn giới văn nghệ sĩ trong nước cũng như ngoài nước. Trong vòng 13 năm liên tục, nhiều nghệ sĩ quốc tế tên tuổi như Josephine Baker, Sara Montiel, Nat King Cole hay Maurice Chevalier lần lượt trở thành khách mời của chương trình này.
Vào năm 1947, tác giả Osvaldo Farrés đạt đến đỉnh cao danh vọng với nhạc phẩm Quizás Quizás, cột mốc quan trọng thứ nhì trong sự nghiệp sáng tác của ông, sau nhạc phẩm Toda Una Vida. Bài hát chẳng những thành công ngay lập tức trong tiếng Tây Ban Nha mà còn thịnh hành nhờ phiên bản tiếng Anh Perhaps Perhaps Perhaps, do tác giả Joe Davis đặt lời.
Với thời gian, bản nhạc Quizás Quizás chẳng những được chuyển dịch sang hàng chục thứ tiếng kể cả tiếng Hindi, Ả Rập hay Do Thái, mà còn được phối theo nhiều thể điệu khác nhau : từ mambo đến cha cha, từ salsa đến flamenco. Người Cuba thì chủ yếu hát bài này trong điệu bolero : tiết tấu chậm rãi nhịp điệu khoan thai, phá cách theo lối thoát nhịp chứ ít có đảo phách, nhấn mạnh nhịp lẻ.
Đối với một người mà ban đầu không nghĩ rằng mình có thể sống nhờ sáng tác, một tác giả không ‘‘tinh thông’’ nhạc lý, Osvaldo Farrés lại trở thành một trong những bậc thầy của dòng nhạc bolero. Từ lúc thành danh đầu những năm 1940 cho tới lúc ông qua đời năm 1985, sau một thời gian dài sống lưu vong ở Mỹ, để chạy trốn chế độ Fidel Castro, Osvaldo Farrés vẫn được xem là tác giả người Cuba nổi tiếng nhất ở nước ngoài.
Từ nhạc phẩm Tres Palabras cho tới Quizás Quizás, từ Esta Noche o Nunca cho tới Dime Si Te vas Conmigo, tác giả Osvaldo Farrés sáng tác theo ngẫu hứng, theo linh cảm. Ông diễn đạt được cái tâm hồn La Tinh theo cách nhìn của riêng mình : tình yêu tựa như mùi hương, vô hình mà thực tại, ta có thể dùng bút vẽ để phác họa chân dung, dùng ngôn ngữ để mô tả hình hài, chứ tận đáy con tim không thể nào mà lý giải.
30-10-2013, 01:56 PM
ChienKhuD
Tôi phải tự học tiếng La Tinh thôi. Ít ra là để phát âm tên nhạc sỹ và tên bài hát cho đúng mới được :).
30-10-2013, 02:19 PM
Aty
Bạn hiền CKD tính chuyển nghề hay sao :( . Ca sĩ bây giờ dể kiếm tiền tỉ lắm mà ha . Ban đầu thì tên và bài hát, sau dần rồi lời nhạc và .. hát luôn bài nhạc đó.
Ngày xưa quen nhau anh nói rằng.... . He he, bài này nghe đã quá. Trong thời gian mới tập tửng đi uống cà phê của tuổi mới lớn, quán cà phê nào mà cho phát những bài nhạc thế này ( ở Đà Nẵng )thì chắc chắn ngồi GỒNG mình cũng phải ngồi. Rồi thì Tình sử, mấy con búp bê không tình yêu, love story, hai khía cạnh cuộc đời........ . Có quán thì nhạc hòa tấu, có quán thì nhạc có lời. Mê lắm mấy điệu nhạc này. Cho đến bây giờ vẫn còn mê. Trong tôi lại như có nhiều những kỉ niệm cho từng mỗi bài. Cứ thế mà mỗi lần nghe một bài nhạc thì y như rằng kỉ niệm ngày cơ hàn lại hiện về rất rỏ. Thời ấy mình cũng thường mang luôn rượu vào quán cà phê ngồi uống. Rượu được châm vào cái bình trà làm bằng nhôm, và rót vào ly nhỏ ( loại ly uống nước trà ). Túm tụm mấy thằng bạn thân cùng nhau nghe nhạc và uống rượu trong quán cà phê với dĩa mồi đậu phộng muối, ngắm em ngồi két tuy trẻ tuổi nhưng trang điểm xanh hồng cũng đẹp ra phết. Lại miên man về ngày xưa.
30-10-2013, 10:29 PM
Thợ Điện
Nghe ông Tý nhắc những bài hát trên xem ra ông cũng đã già rồi có thể chưa đến đầu sáu nhưng chắc cũng đầu năm .Ông cũng thích Hai khía cạnh cuộc đời ? Hồi ấy tụi tôi sống vừa đẹp lại vừa buồn ,chiến tranh mà ông ,hôm nay ngồi với nhau mai đã đuợc tin nó mất ,yêu đuơng hay bè bạn lần gặp nhau nào cũng như là lần cuối .Mọi thứ đều xót xa hư ảo như cảnh vật nhìn qua lớp kính mờ ,tôi vốn ham chơi nên mười lăm muời sáu đã lê la vũ truờng đuợc các chị vũ nữ già dậy cho từng buớc nhảy ,từng cái đánh chân ,lắc tay sao cho điệu nghệ .Bằng tuổi nhau người ta còn e ấp lãng mạn mà tôi đã hoang phí đời mình chốn ham vui .Vì thế các ông tha lỗi khi tôi hay thích post nhạc có kèm nhảy nhót như để nhớ lại cái thời vũ điệu trong bóng mờ
Điệu sầu quán vắng
Trong số những bản nhạc Tây Ban Nha rất nổi tiếng, mà nhiều người La Tinh cứ nghĩ rằng nguyên tác là một bài ca Trung Mỹ, có bài Cantinero de Cuba, với giai điệu nồng thắm mặn mà, tiết tấu mềm mại lụa là. Tựa đề nguyên gốc khiến cho người ta tưởng lầm đây là một bản tình ca ra đời tại La Havana. Nhưng bài này được viết tại Sevilla, thủ phủ vùng Andalucia.
nhạc phẩm Cantinero de Cuba (tạm dịch là Điệu sầu quán vắng) đã ra đời vào năm 1964, tức cách đây gần đúng nửa thế kỷ, dưới ngòi bút của nhà soạn nhạc Manuel Pareja Obregón (1933- 1995). Ông sinh trưởng tại vùng Andalucia, trong một gia đình quý tộc, thuộc dòng dõi bá tước Tây Ban Nha.
Gia đình ông Manuel Pareja Obregón còn có dòng máu nghệ sĩ, thừa hưởng năng khiếu từ song thân và nhờ được sống trong môi trường nghệ thuật thuận lợi. Ngoài âm nhạc, ông còn học hội họa và điêu khắc, bắt đầu sáng tác từ năm lên mười. Đến khi qua đời ở độ tuổi ngoài 60, ông để lại một di sản đồ sộ, với gần ba ngàn tác phẩm đủ loại.
Tuy nổi tiếng là một bản bolero, nhưng trong nguyên tác, bài Cantinero de Cuba ban đầu được viết cho thể điệu changuí. Đây là một điệu nhạc truyền thống của Cuba, còn được gọi là dân ca miền đông (Oriente) và là tiền thân của thể điệu ‘‘son cubano’’ gồm bốn nhịp chắc, và thường đánh với nhạc cụ dân tộc vùng cao nguyên.
Một dàn nhạc changuí chỉ gồm có ba nhạc khí : Đầu tiên là đàn hộp marimbula, kế đến là đàn dây ba cặp gọi là tres, giống như ghi ta nhưng kích cỡ nhỏ hơn và sáu dây đàn được chia thành ba bộ riêng biệt, cuối cùng là bộ trống đôi bongo, một cặp gồm hai chiếc gắn liền với nhau.
Bải nhạc Cantinero de Cuba được viết theo ý tứ này, tác giả dựng lên bối cảnh của một quán vắng, nơi mà người đàn ông uống rượu giải sầu, nhưng càng uống bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu. Cách đặt ca từ trong bài này rất khéo vì bài hát không một lần dùng nghịch dụ mà vẫn nói lên được nghịch lý tình yêu.
Nhân vật trong bài hát cố tình uống cho say, nhưng người hầu rượu (cantinero) càng rót, thì người uống càng chua xót. Uống để làm tê đi cơn đau nhức nhối, uống để quên hết những mất mát trong đời. Nhưng tất cả đều phản tác dụng : Say cũng không xong, uống cũng bằng thừa.
Âm thanh mượt trầm của cặp trống bongo rất tiêu biểu cho changuí. Các nghệ sĩ sau này chuyển thể điệu changuí thành điệu ''son cubano'' khi sử dụng thêm kèn đồng và trống thiết. Khi đánh theo điệu rumba hay bolero, các nhạc sĩ sử dụng trống đơn quinto nhiều hơn là trống đôi bongo.
Có người cho là khi sáng tác bài Cantinero de Cuba, nhà soạn nhạc Manuel Pareja Obregón đã vay mượn thủ pháp của bài Moliendo Café, do tác giả Hugo Blanco người Venezuala sáng tác vào năm 1958. Bài này sau đó chiếm hạng đầu thị trường Nam Mỹ và Nhật Bản vào năm 1961.
Ở đây, hình tượng cà phê xay nhuyễn thay thế cho rượu mạnh (aguardiente). Người đàn ông thất tình chán nản, dù không uống cà phê nhưng vẫn không sao tìm được giấc ngủ, cả đêm thức trắng nên phải ngồi dậy làm việc (xay cà phê) quần quật, dùng công việc chân tay để cho tâm trí không còn tưởng nhớ đến bóng hình người yêu.
Nhưng làm sao để quên những gì ta không quên được. Trí óc đi một đằng, con tim đi một nẻo. Bài Moliendo Café trở nên tiêu biểu cho nghịch lý tình yêu. Hai tác giả dù ở hai phương trời khác nhau nhưng vẫn có cùng ngẫu hứng đồng cảm trong cách đi tìm hình tượng. Rượu ru điệu sầu hoang vắng, cà phê say đêm thức trắng. Đằng sau nụ hôn tình nồng thường nấp bóng đam mê vết cắn. Thuốc độc dưới cái vỏ bọc ngọt ngào còn đáng sợ hơn cả mật đắng.
31-10-2013, 12:23 AM
ChienKhuD
Bác Thợ đúng là Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ, kiến văn quảng bác, từng trải sự đời. Nghe ông Tý miên man những bài hát mà đoán trúng phóc tuổi của ông. Lạ cái ông Tý này cứ bắt tôi kêu bằng anh mới chịu, kêu bằng chú ông la chết.
31-10-2013, 01:10 AM
Aty
He he, bác Lâm đoán không sai tí nào. Em khâm phục bác thật rồi đây. Tính chối quanh chối co một hồi, không dè bạn hiền CKD của mình không hổ danh Thật Như Đếm khai luôn ra rồi làm mình không còn cửa.
Hồi đó cứ mỗi buổi tối mà được ngồi quán cà phê để nghe nhạc thì niềm hạnh phúc của tôi đây rồi. Lâu dần các bài nhạc ấy tự đi sâu vào đầu lúc nào không biết. Nhưng chung quy thì cứ như đi đêm chỉ hướng theo ánh sáng phía trước. Hôm nay đọc bài của bác Lâm viết về tác giả, xuất xứ, cấu tạo nội dung .v.v.. của mấy bài đó cảm thấy sướng thiệt. Như được thắp lên mấy bóng đèn.
Em rất thích lời của bài nhạc hai khía cạnh cuộc đời đó bác Lâm. Vào cái lúc mới lớn mà ngẫm lời bài này thì mới thấy rằng, ôi không có gì tuyệt đói.
Bạn hiền CKD gọi mình bằng chú thì mình sẽ thấy là già lắm lắm .
31-10-2013, 10:39 PM
Thợ Điện
Truớc đây tôi không biết bài này tình cờ cuối tháng 6 năm ấy ngồi trong Latin Club chờ thằng bạn Venezuela tới uống một bữa từ biệt mai nó về xứ rồi biết bao giờ gặp lại .Hôm đó cũng buồn mới đầu còn kêu từng li otra vez riết rồi xách luôn cả chai Tequila uống cho đã ,bạn mình không đến cứ ngồi uống tì tì một mình ,quán vắng chỉ lác đác vài cặp .Ban nhạc sắp breaktime ,định bụng uống li cuối đi đái cái rồi về .Chợt có con bé ca sĩ ra hát bài này, vừa nghe câu đầu đã nổi da gà .Quái sao có bài hay thế nhỉ ? Sau này đuợc xem phim nữa thì chao ôi ! đúng là Tuyệt diệu hảo từ Phải tặng bài này cho Đại sư Huyền người trẻ mà rành nhạc số một trên đây
Trong số các bài bolero từng được chọn làm chủ đề nhạc phim, bài Piensa En Mi (Hãy nhớ đến ta) của tác giả người Mêhicô Agustín Lara có lẽ là bản nhạc quen thuộc nhất. Bài hát do tác giả Agustín Lara ghi âm lần đầu tiên vào năm 1937, nhưng không thành công vượt bực như mong đợi.
Mãi đến gần nửa thế kỷ sau, khi đến phiên Luz Casal ghi âm lại bài hát cho bộ phim của Almodovar, thì lúc đó bài Piensa En Mi mới phá kỷ lục số bán : 5 triệu đĩa đơn trong vòng 6 tháng. Piensa En Mi (Hãy nhớ đến ta) là ca khúc chủ đề của bộ phim Tacones Lejanos (Gót người xa vắng), phát hành vào tháng 10 năm 1991.
Theo lời kể của nhà đạo diễn Tây Ban Nha Pedro Almodovar, thì trước khi khởi quay, ông đã chọn sẵn những bài hát mà ông muốn đưa vào bộ phim, trong đó có bản bolero khá xưa đề tựa Piensa En Mi của tác giả Agustín Lara. Tuy nhiên, trong số những phiên bản ghi âm mà Almodovar có trong tay, không có bài nào thật sự làm cho ông vừa ý. Vì thế ông quyết định thực hiện một phiên bản mới, nhưng vẫn chưa biết là sẽ thu thanh với ca sĩ nào.
Sáu tháng trước ngày ra mắt cuộn phim, cả đoàn làm phim vẫn còn loay hoay trong giai đoạn tiền kỳ : tác phẩm vẫn chưa có tựa đề chính thức, kịch bản còn đang chỉnh sửa. Trong thành phần diễn viên, người duy nhất vừa được tuyển lựa là Marisa Paredes, nổi tiếng trong làng điện ảnh Tây Ban Nha từ giữa những năm 1970. Trong bộ phim sắp quay của Almodovar, bà thủ vai một ca sĩ ở độ tuổi tứ tuần.
Bà có một đứa con gái ruột (do Victoria Abril thủ diễn), nhưng thời còn trẻ, sự nghiệp sân khấu khiến cho bà có cuộc sống nay đây mai đó, không được gần gũi với con. Đứa bé vì thế cảm thấy bị bỏ rơi hất hủi, đến khi trưởng thành, cô gái có vẻ ghét người mẹ ruột nhiều hơn là thương.
Kỷ niệm thơ ấu duy nhất đọng lại trong tâm trí cô gái là tiếng động giữa đêm khuya của bà mẹ đi giầy cao gót. Ý tưởng này sau đó được thu gọn trong tựa đề chính thức của bộ phim là Gót người xa vắng (Tacones Lejanos). Quan hệ giữa hai mẹ con lại càng phức tạp hơn khi hai người đàn bà này cùng yêu một người đàn ông : tình nhân khi xưa của bà mẹ nay lại là người chồng của cô con gái. Đời lắm cảnh trớ trêu, tình cớ sao oan trái.
Mối tình tay ba dẫn đến án mạng. Cô con gái bị tình nghi là đã giết chồng nên bị bắt giam. Mặc cảm tội lỗi dày vò lương tâm ray rức trái tim bà mẹ. Khi bà bước lên sân khấu biểu diễn, bà hát bài Piensa En Mi, không phải cho khán giả, mà để gửi gấm những lời nhắn nhủ cho đứa con gái ở trong tù. Bà mẹ hát cho con tất cả những lời yêu thương, mà trong suốt cuộc đời bà chưa từng nói.
Khi viết kịch bản, đạo diễn Pedro Almodovar thừa hiểu đây là màn quan trọng nhất của bộ phim : nút thắt càng khó tháo gỡ càng tạo thêm sự hồi hộp căng thẳng khiến khán giả phải chú tâm theo dõi cho đến hồi kết. Bản nhạc Piensa En Mi vì thế mà trở nên mấu chốt. Đạo diễn Almodovar muốn tìm ra một giọng ca có đủ hai tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng.
Thứ nhất là khả năng diễn đạt, để lột tả trọn vẹn ý tứ của bài Piensa En Mi trong bối cảnh cuộn phim, tức là con hãy nhớ mẹ, chứ không phải là đôi lứa nhớ nhau. Thứ nhì, giọng ca này phải gần giống với giọng nói bình thường của nữ diễn viên Marisa Paredes. Một sự khác biệt quá lớn giữa giọng ca thu âm và giọng nói của người diễn có nguy cơ làm cho cảnh quay mất sức thuyết phục.
Theo lời kể của đạo diễn Almodovar, ông mời Luz Casal hợp tác ghi âm ca khúc chủ đề bộ phim sau khi tình cờ khám phá giọng ca này trên đài truyền hình. Sở trường của Luz Casal là hát nhạc rock, với chất giọng trầm khàn theo phong cách của Joan Jett và Chrissie Hynde của nhóm Pretenders.
Nhiều người trong đoàn làm phim cho rằng cách hát nhạc rock của Luz Casal sẽ không hợp với các bản tình ca thâu cho bộ phim. Bản thân cô ca sĩ cũng rất ngạc nhiên khi được nhà đạo diễn mời ghi âm bản nhạc bolero Piensa En Mi.
Công việc thu đĩa diễn ra vào ngày 12 tháng Tư năm 1991 tại một phòng ghi âm thủ đô Madrid. Ngoài các kỹ thuật viên và nhà đạo diễn, còn có nữ diễn viên Marisa Paredes, bởi vì bà muốn gợi hứng từ cách hát của Luz, để tìm ra điệu bộ và phong cách diễn vai.
Ngược lại, Luz Casal thay đổi cách hát, từ lối nhã chữ cho đến cách đặt giọng ca làm sao cho mượt mà trầm ấm chứ không khô khan khàn đục, cách uốn giọng vẫn trở nên gai góc chai sạn khi cần, một lối diễn đạt chầm chậm mà vẫn thôi thúc mãnh lực nội tâm. Kết quả rất ấn tượng, đạo diễn Almodovar rất hài lòng sau buổi ghi âm.
Trong phiên bản Piensa En Mi của mình, Luz Casal có một cách hát bolero rất tinh tế, khá tân kỳ, khác với những gì ta thường nghe ở thể điệu này, một giọng ca nén từng câu, vuốt từng chữ mà mỗi từ vẫn đầy đặn cả độ dài lẫn âm sắc, cô không lạm dụng cách rung giọng, chỉ luyến láy khi cần thiết, tức là trong những đoạn lâm ly nhất. Người hát bolero khi lạm dụng vibrato, khiến cho nhịp điệu thêm nặng nề, lê thê.
Thường thì trong phim truyện, ca khúc hay nhạc nền được dùng để minh họa hình ảnh. Nơi đạo diễn Pedro Almodovar, bài hát được dùng để dẫn dắt câu chuyện, để phản ánh trạng thái hay nói lên diễn biến nội tâm của các nhân vật. Điều đó giải thích vì sao đạo diễn này thường hay chăm chút khâu âm nhac.
Ông thường chọn ca khúc trước khi quay phim, dòng nhạc La Tinh hay các ca khúc lãng mạn trữ tình thường gợi cho ông ý tưởng cảnh quay. Chính ông đã viết lời Tây Ban Nha cho bài Un Ano de Amor, trong nguyên tác là một ca khúc tiếng Pháp, bài C’est Irréparable của Nino Ferrer mà Dalida và Mina đều có ghi âm. Nhiều bản nhạc tình khác như bài Curucucu Paloma cũng được ông đưa vào các bộ phim sau đó.
Dựa vào ca khúc, đạo diễn Almodovar xây dựng cảnh quay. Màn biểu diễn của bà mẹ trên sân khấu mở đầu với lối quay toàn cảnh, chầm chậm từ xa rồi dần dần xích gần lại, xen kẻ hình ảnh của bà mẹ đang cất tiếng hát, dư âm vang vọng đến người con gái đang ngồi trong tù. Càng về sau, đạo diễn càng dùng nhiều hình tượng cận ảnh, vết son môi để minh họa cho nụ hôn tội lỗi, nước mắt xuất hiện trên bờ mi sau bao ngày dồn nén câm nín, để rồi đạt tới đỉnh cao, khi đẫm lệ tuôn trào, nhỏ giọt nức nở xuống sàn diễn nhẹ rơi.
Do khéo chọn lựa, nên phim và nhạc cộng hưởng với nhau để tạo thêm sức cuốn hút. Người xem có cảm tưởng bài hát Piensa En Mi đã được viết riêng cho bộ phim này : bản bolero vô cùng thích hợp, cảnh quay lại càng ăn khớp. Vào tháng 10 năm 1991, bộ phim Tacones Lejanos ra mắt khán giả.
Tác phẩm này sau đó rất ăn khách tại châu Âu và tại Nam Mỹ, đoạt giải César dành cho phim nước ngoài và nhận đề cử Quả cầu vàng. Nhờ bộ phim mà cả đạo diễn, lẫn diễn viên và ca sĩ đều có được một sự nghiệp quốc tế. Nhờ bộ phim mà người Mêhicô khám phá lại bài bolero Piensa En Mi của tác giả Agustín Lara.
Sinh thời, ông Agustín Lara đã viết hơn 700 ca khúc, trong đó có các bài rất nổi tiếng như Vera Cruz, Granada hay Solamente Una Vez, còn bài Piensa En Mi chỉ trở nên kinh điển từ đầu những năm 1990 trở đi. Bản bolero này có khúc đàn dạo đầu vươn vấn khiến tâm hồn ray rức bâng khuâng, lối thể hiện nhập tâm xuất thần khiến cảnh phim trở nên tột cùng gay cấn, giai điệu nghe biết bao lần mà vẫn cực kỳ mùi mẫn.