Thế tốt, thế xấu và những điểm yếu kém
Trích & tóm lược từ : Cờ Tướng Trung Cuộc
Trần tấn Mỹ - Phạm tấn Hòa – Lê thiên Vị - Quách anh Tú
(Hội Cờ Thành phố Hồ chí Minh xuất bản 1992 )
THẾ TỐT, THẾ XẤU VÀ NHỮNG ĐIỂM YẾU KÉM
Khái niệm về THẾ, hiểu một cách đơn giản thì chỉ là vị trí, chỗ đứng của quân cờ. Chỗ đứng tốt thì quân cờ phát huy được sức mạnh, còn chỗ đứng xấu thì quân cờ không phát huy, hay phát huy rất hạn chế sức mạnh của mình.
Nhưng nếu hiểu một cách đầy đủ thì THẾ bao gồm từ vị trí đến cả mối liên quan của nó với các quân bạn và các quân cờ của đối phương.
Ở đây cần phân biệt, THẾ của từng quân cờ với THẾ CỜ.
Khi nói THẾ CỜ là khái quát chung vị trí tất cả các quân của hai bên tạo nên. Nếu nói THẾ CỜ bên Tiên ưu hơn, là nhận định chung các quân bên Tiên bố trí tốt và đang giành quyền chủ động. Tất nhiên THẾ CỜ phải do THẾ của từng quân cờ tạo nên. Chúng ta đang bàn ở đây là THẾ của từng quân cờ.
Vậy THẾ của quân cờ tốt, xấu là do đâu ?
Nếu nói THẾ của quân cờ bao gồm từ vị trí đến mối liên quan của nó với các quân bạn và các quân cờ đối phương thì THẾ tốt xấu là do những yếu tố này.
Chúng ta lần lượt xét từng yếu tố.
1. VỀ VỊ TRÍ :
Trước hết phải thấy ngay trên bàn cờ vốn có những vị trí tốt và những vị trí xấu.
Quân Xe, quân Pháo dù có tính cơ động cao nhưng khi còn ở bên đất mình và đứng ở các đường biên thì chẳng đe dọa gì Tướng đối phương. Nhưng nếu chúng được bố trí ở các đường dọc 4, 5, 6 thì chúng đe dọa trực tiếp đến Tướng đối phương ngay.
Con Mã ở góc chỉ có hai điểm để nhảy lên, còn đứng ở đường biên thì nhiều lắm nó cũng chỉ khống chế được 4 điểm. Thế nhưng nếu con Mã đứng gần vào giữa bàn cờ thì tối đa nó khống chế được 8 điểm.
Do thế bố trí các quân khi khởi đầu ván cờ, các lộ 4, 6 là lộ thông rất phù hợp cho các quân có tính cơ động cao di chuyển và nếu các lộ 2, 8 sớm khai thông thì cũng là những đường di chuyển chính của các quân Xe. Đối với các đường ngang cũng vậy, khi vào đầu ván cờ chỉ có đường ngang áp đáy và đường hà ( bờ sông ) là trống trải, dễ cho Xe, Pháo di động. Các đường khác thì đầy cản ngại bởi các quân của cả hai bên.
Khi khai cuộc, hai bên tổng động binh đưa quân bố trí những vị trí xung yếu, tranh nhau kiểm soát hay không chế các vị trí còn lại, đồng thời tìm cách phong tỏa lực lượng đối phương. Sang giai đoạn trung cuộc, lực lượng hai bên xáp chiến, mỗi lúc mâu thuẫn càng căng thẳng. Quân bên nào kiểm soát được nhiều vị trí, tức là làm chủ không gian nhiều, chiếm ưu thế.
Vị trí tốt xấu bây giờ phải xét cụ thể từng nơi, từng điểm. Nếu ở điểm nào mà một quân cờ phát huy được thế mạnh của mình một cách tối đa thì đó là vị trí tốt, còn ở điểm nào mà quân cờ xoay trở khó khăn bị hạn chế khả năng, sức mạnh của mình thì đó là vị trí xấu.
Vị trí tốt đối với mọi loại quân đều cần thông thoáng để chúng được linh hoạt, còn vị trí xấu là ngược lại, hạn chế cản trở tầm hoạt động của chúng rất nhiều.
Sau đây chúng ta xét một ván cờ cụ thể để thấy rõ điều này.
Hình trên là thế cờ của Triệu Khánh Các đấu với Hồ Vinh Hoa năm 1974.
Hai danh thủ đã chơi được 18 nước.
Tiên ưu thế quá rõ vì 2 Xe khống chế các trục lộ quan trọng và thông thoáng, hai Mã liên hoàn rất mạnh, chỉ có mỗi con Pháo 3 đứng ở chỗ xấu, đang bị vây hãm.
Còn bên Hậu, 1 Xe qua đất địch, kiểm soát được lộ 2, tấn công Mã nhưng chẳng làm được gì, 1 Xe bị kẹt ở đường biên, dù đang uy hiếp Pháo nhưng thế đứng ngột ngạt, 1 Mã đã qua hà đối phương nhưng bị kẹt giữa 2 Chốt bên Tiên.
Từ những vị trí của các quân hai bên, ai cũng thấy rõ bên Tiên ưu thế, mặc dù trước mắt Xe và Mã bên Hậu đang bắt Pháo.
Bây giờ đến lượt Tiên đi, nếu đơn giản chơi 19. P3-2 thì Hậu tiếp tục khó khăn.
Hậu có 3 khả năng đối phó :
a)
19…………....M7.6
20. P2.3……T7.9
21. C5.1…...X9-8
22. X2.6…...M6/8
23. C5.1, Tiên vẫn ưu.
b)
19…………....P4-3
20. C7.1…...P3.5
21. X6/4…...M7.6
22. P2.3…...S5/6
23. X6-7, Tiên vẫn ưu.
c)
19…………....M6.7
20. M5/3….X2-3
21. T3.5…..X3/3
22. X6-9, Tiên hơi ưu.
Thế nhưng Tiên đánh giá tình hình không chính xác đã quyết định chọn phương án kế hoạch sau :
19. X6-8…..X2/4
20. P3-8…..C5.1
21. P8.3…..T5/3
22. C5.1…..X9-2
23. P8-9…..P4-5
Sau một loạt nước đi tình hình đã đổi khác : Xe bên Hậu từ bị kẹt bây giờ chuyển sang cánh mặt rất thông thoáng, linh hoạt, con Mã bên Hậu qua hà không còn bị kẹt Chốt đầu có thể tiến 4 tấn công rất nguy hiểm, con Pháo ở góc Sĩ đang phòng thủ bây giờ vào lộ giữa phản công, trực tiếp uy hiếp Mã lẫn Tướng bên Tiên, còn con Mã 7 cũng trở nên linh hoạt sẵn sàng đợi lịnh nhảy lên phối hợp tấn công.
Trong khi đó bên Tiên mất các ưu thế, chuyển thành bị động đối phó :
24. T3.5
Cần xem lại nên lên Tượng bên nào ?. Ta sẽ xét 24.T7.5 ở dưới.
Trước mắt Tiên buộc phải củng cố trung lộ, nếu không :
Hậu đi : 24……X2.3 hoặc 24. ……M6.7 bắt chết Mã.
Hoặc nếu Tiên đi :
24. S4.5…..M6.4
25. X2.2…..M4.3
26. M5/6….X2-4, Hậu lời quân, ưu thế.
24…………M6.4
25. X2.1…..X2.4
26. X2-6…..M4/5
Bây giờ Hậu phản tiên, ưu thế với các quân linh hoạt.
Vừa rồi Hậu hồi Mã bắt Chốt rất già dặn, nếu tham lời quân chơi :
26…………P5.4
27. S4.5 ( như 27. M7.5 ? ….X2-5 28. S6.5…..X5/1, Hậu lời quân )
27…………X2-3
28. X6.2…..P5/1
29. X6-5….P5-2
30. C5-6 , Tiên lỗ 1 quân nhưng 2 Chốt qua hà cặp kè, chận đường về của Xe bên Hậu, đồng thời Chốt 3 sắp qua hà đủ đền bù 1 Mã.
27. C3.1…..M5.6
28. M7.6
Tiên không thể chơi :
28. X6-4 ?......X2-3
29. X4.2…….X3/1
30. C7-6……M7.5
31. C6-5……M5.3
32. C5-6……M3.2, Hậu ưu thế lớn.
28…………..M7.5
29. M6/4……X2-5
30. S6.5…….X5/1
31. M4.2……M5.6
32. Tg – 6…..P5-4
33. Tg – 5…..M6.8 , Tiên chịu thua.
Bây giờ ta xét lại nước 24, nếu Tiên đổi lại T7.5,
Diễn biến có thể là :
24. T7.5……M6.4
25. X2.1……X2.4
26. X2-6……M4/5
27. C3.1……M5.6
28. M7.6…….M6/7
29. X6-3…….T7.9
30. S4.5……..P5.3
31. X3.3……..X2/7
32. P9/1……..X2.1
33. P9.1……..X2-4
34. M6/7……X4.2
35. M5/3……M7.5
36. M7.5……X4.3
37. C7.1……M5.3
Hậu vẫn ưu nhưng Tiên còn chống đỡ lâu .
( Còn tiếp )