Kỳ Bí Những Động Chùa Trên Núi Đá Hoa Lư
http://nd5.upanh.com/b1.s18.d1/0dc62...655.hoalu3.jpg
Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Hiện, dấu ấn của nó còn hiển hiện trong hàng chục ngôi chùa cổ tại đây đặc biệt với nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá mà thành các động chùa độc đáo.
Các động chùa tiêu biểu ở ở kinh kỳ cổ này bao gồm: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh cốc
Chùa Hoa Sơn
Hoa Sơn động nằm ở Áng Ngũ, xã Ninh Hòa, ở độ cao gần 70 m. Tương truyền động Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Tên trước của động là chùa Bà Đẻ, sau vua Tự Đức đến thăm đã đặt lại tên động là Hoa Sơn
http://nd1.upanh.com/b2.s7.d4/dce96f...9911.hoalu.jpg
Trước cửa động, ở bên phải có hai pho tượng bằng đá được đánh bóng nhẵn thờ hai ông bà có công tu sửa chùa, tên là Nguyễn Hữu Non và Lê Thị Sánh. Văn bia khắc ở vách núi phía bên trái cho biết ông bà sửa chùa năm 1815.
Vào thời Nguyễn, vua Tự Ðức trong chuyến tuần du ra Bắc Hà, nghe đồn ở đây có "chùa" đẹp đã ghé thăm. Nhà vua vào động lễ Phật, thấy động kỳ ảo nên đã đổi tên động thành "Hoa Sơn Ðộng". Từ đấy động được gọi là "Ðộng Hoa Sơn" hay "Chùa Hoa Sơn". Nhà vua còn lệnh cho quan sở tại tập hợp lại các ngôi mộ thuộc Hoàng tộc nhà Ðinh và những người có công với triều Ðinh, cho xây lăng Nghĩa Chủng ở khu đất rộng chừng 3 mẫu. Hiện nay, lăng Nghĩa Chủng xây bằng đá vẫn còn, nằm ở phía đông nam, cách động Hoa Sơn chừng 150m. Nhà vua cũng truyền cho quan sở tại cấp 2 mẫu ruộng ở phía đông bắc động, giao cho nhân dân địa phương trồng cấy hằng năm, lấy lương thực để cúng tế trong chùa, gọi là ruộng Phù Tự.
Cửa động Hoa Sơn có mây vờn, sương phủ linh thiêng, nước rơi tí tách quanh năm từ các nhũ đá. Cửa tiền của động, chiều ngang 12m, chiều cao khoảng 20m, có cây Ða Bà rễ thả trước cửa động. Bên trái cửa tiền có chiếc khánh đá to, gõ vào nghe trầm bổng âm u như tiếng chiêng. Chiều dài của động bằng chiều ngang của núi, khoảng 100m, xuyên qua núi, có ba hang liền nhau, tam cấp, từ thấp lên cao là: Hang Hạ, hang Trung và hang Thượng
http://nd3.upanh.com/b5.s19.d2/a7c05...943.hoalu1.jpg
Chùa Linh Cốc
Chùa Linh Cốc thuộc thôn Gôi Khê, xã Ninh hải, cách chùa Bích Động khoảng 500m về phía Đông Nam, nằm trong núi chùa Móc (nay gọi là chùa Linh Cốc). Chùa quay hướng Tây, phía trước là một cánh đồng nước, nơi đây đúng là cảnh cao sơn lưu thuỷ khoáng đạt linh thiêng....
Chùa có từ năm Mậu Ngọ, triều vua Trần Thánh Tông, niên hiệu Thiệu Long thứ nhất, tức là năm 1258. Đến triều Lê Anh Tông, niên hiệu chính trị năm thứ 9, tức là năm 1556 chùa được tôn tạo. Năm 1996, nhân dân thôn Gôi Khê tu sửa lại.
Sân chùa rộng ở ngay chân núi, hai bên sân có nhà thờ tổ. 3 gian quay hướng tây bắc, đặt tượng thờ thánh tăng là đức A Nam Đà và đức tổ tây, mũi cao, tóc quăn, râu quai nón là người Ấn Độ. Nhà trai 5 gian, quay hướng đông nam. Điện Mẫu quay lưng vào sườn núi, hướng tây nam, xây dựng theo kiểu chữ “ Tam” (Hán tự). Hậu cung là một gian thờ Tam Toà Thánh Mẫu gồm: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Liễu Hạnh. Thiêu hương gồm 3 gian thờ Công Đồng Thánh Mẫu, Tiền Đường 5 gian, gian cuối bên tay trái có treo quả chuông.Lên chùa Linh Cốc du khách phải qua hồi hướng nam của Điện Mẫu, leo lên 83 bậc đá ở sườn núi mới tới.
Chùa ở lưng chừng núi, cao hơn so với sân gạch khoảng 30 mét.Con người đã lấy động núi làm chùa. Buồng ngoài cao đến 20 mét, nền bằng phẳng và rộng, dùng làm Tìên đường của chùa, đặt hai tượng Hộ Pháp, vách đá bên tay phải có treo một quả chuông. Buồng trong thấp là một động nhỏ ăn sâu vào núi ôm lấy thượng điện của chùa
http://nd3.upanh.com/b3.s11.d3/cd2a8...993.hoalu2.jpg
Chùa Thiên Tôn
Chùa - động Thiên Tôn là di tích lịch sử văn hóa thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư. Chùa nằm ở thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Nếu như núi chùa Bái Đính thờ thần Cao Sơn là vị thần núi trấn ngự ở cửa ngõ phía tây vào thành trong, hang động Tràng An thờ thần Quý Minh là vị thổ thần trấn ngự ở cửa ngõ phía Nam vào thành nam thì động chùa Thiên Tôn là di tích thờ thần Thiên Tôn, là vị thiên thần trấn ngự ở cửa ngõ phía đông vào thành ngoài của khu di tích cố đô Hoa Lư.
Động thờ thần Thiên Tôn, vị thần trong truyền thuyết ở kinh đô Hoa Lư thế kỷ 10 Tương truyền, trước khi đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã mang lễ vật vào tế lễ trong động để mong được thần giúp đỡ đánh tan các sứ quân khác. Sau khi lên ngôi vua, Đinh Tiên Hoàng Đế đóng đô ở Hoa Lư, ông đã cho xây cất nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi vào kinh đô.
http://nd6.upanh.com/b5.s19.d1/9b587...46.hoalu31.jpg
Chùa Bích Động
Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường Yên thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu du lịch quốc gia là Tam Cốc - Bích Động. Chùa nguyên có tên "Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng"- ngôi chùa bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc. Đây là một kiểu động làm chùa phổ biến ở Ninh Bình, động Bích Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động", có nghĩa là động đẹp thứ nhì của trời Nam sau động Hương Tích.
Năm Giáp Ngọ 1774, chúa Trịnh Sâm đã đến thăm chùa, nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, cây cối đều xanh tươi, chùa như hội tụ nền xanh chùa nên đã đặt tên cho chùa là Bạch ngọc thanh sơn động.
Chùa Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" Hán tự, ba toà không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng. Điều độc đáo của chùa Bích Động là núi, động và chùa bổ sung cho nhau, lại ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc, làm cho chùa hoà nhập với cảnh trí thiên nhiên ngoại mục. Toàn cảnh như một bức tranh núi rừng hùng tráng, dát lên một phù điêu gồm 3 ngôi chùa cổ kính, mái ngói rêu phong, có đủ 8 cảnh đẹp mà người xưa đã gọi là Bích sơn bát cảnh, ba chùa lại được xây trên sườn núi cao, dưới gầm lại có động Xuyên Thuỷ
http://nd2.upanh.com/b4.s4.d4/a9c19b...082.hoalu4.jpg
Chùa Bái Đính
Chùa là một quần thể chùa gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng năm 2003. Đây là một siêu chùa nằm trên núi Bái Đính, thuộc huyện Gia Viễn. Chùa nhận bằng “Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa” năm 1997. Chùa nằm cách khu di tích Cố đô Hoa Lư 5km về phía tây. Đây là ngôi chùa gắn với nhiều danh nhân Việt Nam như Lý Quốc Sư, Đinh Bộ Lĩnh và Quang Trung.
Chùa Bái Đính cổ nằm cách Điện tam thế của khu chùa mới khoảng 800m. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, bước trên 300 bậc đá, hết dốc là tới ngã ba: bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự khắc trên đá có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng.
Tương truyền rằng nơi đây, Ông Nguyễn Minh Không đi tìm cây thuốc đã phát hiện ra hang động này đã dựng chùa thờ phật. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới Động Tiên (Hang Tối). Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 “buồng” tức là 7 hang, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hoá ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng... Bà Chúa Thượng Ngàn được đặt thờ giữa hang chính với các tượng bằng đá được sơn son thiếp vàng
http://nd8.upanh.com/b5.s2.d2/d3710f...178.hoalu5.jpg
Chùa Địch Lộng
Chùa nằm trên núi Kẽm Trống, thuộc xã Gia Thanh, Gia Viễn. Chùa ở lưng chừng núi Địch Lộng, có độ cao so với chân núi khoảng 80m.
Trước cửa chùa có các khối đá giống hình voi chầu, hổ phục, sư tử chầu như đang canh giữ bảo vệ cửa Phật. Ở đây còn có rất nhiều nhũ đá đẹp lấp lánh như cái dù che, rủ xuống như chuông treo. Trong chùa có bầy nhiều tượng Phật, các pho tượng phật uy nghiêm, nhân từ do con người tạo dựng hoà nhập với các nhũ đá của thiên nhiên. Tất cả hiện lên linh nghiêm trong ánh đuốc bập bùng và những loé đỏ của hương trầm phảng phất mùi thơm cõi thiền.
Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá, có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo. Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng (Địch nghĩa là sáo, Lộng nghĩa là gió).
Điều độc đáo ở hang Tối và Hang Sáng là các thạch nhũ, lấy đá gõ vào thì lanh lảnh như tiếng chuông. Đó là những thạch cầm của thiên nhiên. Đặc biệt hơn nữa là những rải nhũ đá trong hang lấp lánh bảy sắc cầu vồng và mầu sắc thay đổi theo ánh sáng mặt trời. Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3
(theo Đât Việt)
Hành Hương Về Chốn Tổ Vĩnh Nghiêm..
http://nd4.upanh.com/b3.s6.d2/81d23f...6401764.27.jpgNhắc đến tên gọi Vĩnh Nghiêm, người dân TP.HCM đều nhớ đến ngôi chùa lớn toạ lạc tại đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, nhưng ít ai biết, chùa Vĩnh Nghiêm ở TP.HCM được xây dựng theo nguyên mẫu chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang
"Ai qua Yên Tử, Quỳnh Lâm
Vĩnh Nghiêm chưa tới thiền tâm chưa đành”.
Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm, chùa Vĩnh Nghiêm - hay có tên gọi khác là chùa Đức La, thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, được xem là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là trường đào tạo tăng ni, Phật tử đầu tiên ở Việt Nam.
Ngôi chùa cổ Vĩnh Nghiêm nằm tại ngã ba sông Phượng Nhỡn, nơi gặp gỡ của 2 con sông lớn (sông Thương và sông Lục Nam), nơi phù sa hội tụ trước khi đổ ra biển. Từ chùa nhìn về bên kia sông, có thể trông rất rõ đền Kiếp Bạc - nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
http://nd1.upanh.com/b6.s10.d3/8bb2c...1235456734.jpgKề bên Kiếp Bạc là dãy Côn Sơn - nơi nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ lỗi lạc Nguyễn Trãi về mai danh ẩn tích. Xa hơn chút nữa là danh lam thắng tích Yên Tử - vùng đất thánh của thiền phái Trúc Lâm.
Du khách hành hương về Vĩnh Nghiêm sẽ được nghe sự tích vua Trần chọn đất xây chùa. Chuyện xưa kể, sau chiến thắng quân Nguyên Mông, vị vua anh hùng Trần Nhân Tông đã đi du ngoạn khắp nơi, ngắm nhìn giang sơn cẩm tú để chọn đất dựng chùa. Khi ngài tới nơi này, con ngựa chiến từng xông pha trận mạc cùng ngài bỗng lồng lên dẫm nát hoa màu. Dân làng kéo nhau đến xem và quỳ xuống lạy thì con ngựa dừng lại. Vua hỏi dân làng, được biết đây là vùng đất thiêng nên cho dựng ở đây một ngôi chùa lớn đặt tên là Vĩnh Nghiêm.
http://nd2.upanh.com/b4.s8.d3/197e09...1235456734.jpg
Vĩnh Nghiêm dần trở thành một trung tâm Phật giáo nổi tiếng dưới thời Trần, là nơi đào tạo tăng đồ. Vĩnh Nghiêm cũng là nơi tu hành của 3 nhân vật sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm gồm: vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa thiền sư Đồng Kiên Cương và Huyền Quang đại sư Lý Đạo Toái.
Chùa Vĩnh Nghiêm có kiến trúc bề thế, khuôn viên chùa rộng và đẹp gồm tam quan, tam bảo, nhà tổ đệ nhất, nhà tổ đệ nhị, gác chuông, khách đường, hành lang tả hữu, vườn tháp... được bố trí hài hoà theo bố cục kiến trúc ‘‘nội vương, ngoại quốc”.
http://nd0.upanh.com/b2.s5.d1/14bb29...vinhnghiem.jpg
Ngoài những giá trị kiến trúc nghệ thuật, chùa Vĩnh Nghiêm còn được xem như một bảo tàng văn hoá Phật giáo Đại thừa tiêu biểu ở miền Bắc Việt Nam. Chùa còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật quý như: hệ thống tượng thờ, đồ thờ, các bức phù điêu, chạm khắc, hệ thống văn bia, hoa văn trên kiến trúc...
Đặc biệt, chùa có kho mộc thư với những bộ ván in kinh như: Hoa Nghiêm sớ, Di Đà sớ, Yên Tử nhật trình, Bản Nguyện chân kinh, Tỳ Khâu Ni giới kinh, Thần Du phương ký… Tổng cộng, chùa còn giữ được 34 đầu sách với hơn 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt có 2 trang sách khắc ngược bằng chữ Hán. Đây là một trong những di sản văn hoá đặc biệt quý mà hiếm nơi nào trên đất nước ta còn lưu giữ được
http://nd1.upanh.com/b4.s19.d2/89d02...1235456734.jpgChùa Vĩnh Nghiêm còn có tấm bia đá cổ 6 mặt đặt trên bệ sen, thân bia cao 1,18m, mỗi mặt rộng 0,32m, 5 mặt được chạm trổ ‘‘lưỡng long chầu nguyệt”. Bia dựng năm Hoằng Định 1606, nội dung bia ghi lại việc trùng tu chùa năm đó.
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm diễn ra vào ngày 14 tháng 2 Âm lịch hàng năm, là một trong những lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc xưa và Bắc Giang nay. Hơn 700 năm đã trôi qua, với những giá trị văn hoá lớn lao, chốn tổ Vĩnh Nghiêm vẫn là đích đến của nhiều đoàn khách hành hương tìm về nguồn cội, về cái thiện, về sự thanh thản trong tâm hồn
(theo Báo Phụ Nữ)
Chùa Bái Đính Và Hang Động Tràng AN..
http://nd0.upanh.com/b6.s16.d2/bad62...inhchuaqn7.jpg
Chùa Bái Đính là tên ngôi chùa nằm trên núi Bái Đính ở Xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa cách đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành 6km, cách thủ đô Hà Nội gần 100 km.
Đây là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam với nhiều kỷ lục trong nước và khu vực Đông Nam Á.
Chùa Bái Đính là một công trình Phật giáo được xây dựng do một nhóm tư nhân và các quỹ hảo tâm và từ thiện đống góp. Nơi đây không chỉ là một khu chùa thờ Phật tổ, thờ thần núi và chúa thượng ngàn mà còn gắn với lễ tế cờ khi vua Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Ngôi chùa được phát hiện do đức thánh Nguyễn Minh Không (1065 – 1141) là người đã biến các hang động thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông.
http://nd0.upanh.com/b6.s17.d1/bb90c...36403960.2.jpg
< Cổng Tam quan.
Đây là công trình lớn nhất Việt Nam được xây dựng và dự kiến hoàn thành vào năm 2010 nhân kỷ niệm 1000 năm vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Trong lịch sử vùng đất Ninh Bình, từ thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê đã rất quan tâm đến Phật giáo và cho xây dựng nhiều ngôi chùa. Do đó việc xây dựng một ngôi chùa lớn nhất Việt Nam ở Ninh Bình có ý nghĩa rất lớn.
Chùa Bái Đính mới gồm các hạng mục chính: tam quan nội, hành lang La Hán, Tháp chuông, chùa Pháp chủ, Điện tam thế và khu chùa cũ
http://nd2.upanh.com/b3.s3.d4/9e0040...2c543bd769.jpg
Bước vào chùa là cổng tam quan, đây là lối kiến trúc thường thấy trong các ngôi chùa ở Việt Nam. Tam quan nội của chùa Bái Đính là công trình được xây dựng bằng gỗ tứ thiết, có 4 cột lớn nặng 10 tấn. Tam quan có 3 tầng mái uốn cong, lợp men Bát Tràng, màu nâu sẫm. Trong tam quan có 10 tượng hộ pháp lớn bằng đồng, trong đó nổi bật là 2 tượng lớn cao 5,5m, nặng 12 tấn.
Qua tam quan, dọc theo con đường vào tháp chuông là hành lang La Hán. Trong dày hàng lang đặt 500 vị La Hán bằng đá, mỗi tượng có một tư thế và hình dáng khác nhau, được đúc bằng đá nguyên khối to, mỗi tượng cao khoảng 2,4m, nặng khoảng 4 tấn do bàn tay các nghệ nhân làng đá xã Ninh Vân – Hoa Lư – Ninh Bình chế tác. Chùa Bái Đính là ngôi chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam.
http://nd9.upanh.com/b2.s4.d3/44b9bb...1270695776.jpg
Từ hành lang La Hán là đến tháp chuông. Tháp có kiến trúc cổ, hình bát giác, cao 3 tầng, mái cong gồm 24 mái đao vút lên ở tám phía với các đầu đao. Trong tháp có treo một quả chuông năng 36 tấn được coi là quả chuông lớn nhất Việt Nam.
Điện pháp chủ uy nghiêm, đồ sộ được xây dựng bằng bê tông cốt thép giả gỗ với 2 tầng mái cong có 8 mái ở 4 phía. Điện có 5 gian, gian giữa đặt một pho tượng lớn bằng đồng nguyên khối cao 10m, nặng 100 tấn. Pho tượng đã được công nhận “Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam”. Trong điện treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng. Đây là bức hoành phi và cửa võng lớn nhất Việt Nam.
http://nd7.upanh.com/b6.s18.d1/a7ea1...ua19050810.jpg
Tọa lạc trên ngọn đồi cao là Điện Tam Thế. Điện có 3 tầng mái cong với 12 mái ở 4 phía, cao 34m dài 59,1m, rộng 40m, diện tích trong nhà khoảng 3000m2. Bốn phía nền của điện Tam Thế đều xây các tường đá tam cấp theo độ dốc của đồi với nhiều bậc đá đi lên tạo một không gian rộng, nghiêm trang và linh thiêng khi bước lên Điện.
Trong điện Tam Thế đặt 3 pho tượng tam thế bằng đồng đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai, mỗi tượng nặng 50 tấn. Đây là bộ tượng tam thế lớn nhất Việt Nam mới chi có ở chùa Bái Đính
http://nd5.upanh.com/b6.s19.d2/e8b14...5.trangan5.jpg
Đối lập với vẻ uy nghi, đồ sộ của khu chùa mới, từ Điện Tam Thế đi qua bên núi là chùa Bái Đính cũ vẫn tĩnh mịch, trầm mặc và hoang sơ. Bước đến bậc đá đến chùa cũ, du khách nhớ lại câu chuyện thiền sư Nguyễn Minh Không vào núi Bái Đính tìm thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông bị hóa hổ. Thiền sư đã phát hiện động Tối, động Sáng, Thung Thuốc trên núi nên đã biến động thành chùa thờ Phật. Bên động Tối, động Sáng gồm nhiều hang nhỏ thông nhau và trong động thờ Mẫu Thượng Ngàn.
Cách chùa Bái Đính không xa là hang động Tràng An. Từ khu du lịch tâm linh, đi tiếp hành trình đến khu du lịch sinh thái sẽ thấy thư thái khi thả hồn mình trên dòng sông thơ mộng. Tại đây, du khách ngồi trên thuyền, đi dạo một vòng quanh hang động sẽ như thấy mình lạc vào cõi tiên, bỏ lại những lo toan, vướng bận của cuộc sống thường ngày
http://nd2.upanh.com/b2.s5.d1/e3dc66...42.trangan.jpg
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, Khu du lịch sinh thái Tràng An có khoảng hơn 310 loại thực vật bậc cao, nhiều loại rêu tảo và nấm. Trong đó, một số loài gỗ thuộc diện quý hiếm như: sưa, lát, nghiến cùng nhiều loài cây có giá trị cao được sử dụng làm thực phẩm, làm thuốc chữa bệnh như: hoài sơn, kim ngân, bách bộ, rau sắng, … Ngoài ra, còn có khoảng 30 loài thú, hơn 50 loài chim, hàng chục loài bò sát, có một số loài thú quý hiếm như: sơn dương, báo gấm, chim phượng hoàng…
Tràng An có gần 50 hang động dài từ vài chục mét đến hàng trăm mét. Các hang động được nối với nhau bởi gần 30 thung, mỗi thung là một bức tranh thủy mặc. Các thung đều thông nhau bởi các động xuyên thủy khiến núi non gắn bó, làm nên một dáng vẻ sống động. Những nhũ đá lấp lánh, được tạo hóa khéo sắp đặt, muôn hình vạn trạng trên vách hang, tạo nên những kỳ quan sinh động, để du khách phát huy trí tưởng tượng đặt tên cho các nhũ đá.
http://nd9.upanh.com/b1.s17.d1/13a16...ongtrangan.jpgGiống như những cái tên hang, động của Vịnh Hạ Long, Tràng An có những cái tên lạ mà khơi dậy chí tưởng tượng và sự tò mò của du khách như: hang Seo lớn, hang Si, hang Ao Trai, hang Sính, hang Nấu Rượu, hang Địa Linh, hang Ba Giọt, hang Sáng, hang Tối, thung Láng, thung Mây, thung Trần, thung Khống, núi Vua, núi Chúa, núi Ông Trạng... Với những dải đá vôi, thung lũng và hệ thống sông ngầm đan xen tạo một không gian huyền ảo,thơ mộng, sơn thủy hữu tình như níu kéo bước chân du khách trên mảnh đất này!
Đến thăm chùa Bái Đính, du khách không khỏi ngạc nhiên trước vẻ hùng vĩ của núi rừng, sự linh thiêng của đất Phật và sự kỳ vĩ của những tuyệt tác kiến trúc mà con người tạo dựng nên nơi đây.
(Theo lên đường)
Leo Côn Sơn,Ngồi Thiền,Hái Nấm Thông..
http://ne1.upanh.com/b2.s17.d1/0362b...1.13736904.jpg
Danh thắng Côn Sơn – Kiếp Bạc là hai di tích gắn bó với nhau thuộc huyện Chí Linh (tỉnh Hải Dương).
Đường đến Côn Sơn – Kiếp Bạc khá đơn giản, bởi giao thông thuận tiện. Di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc gắn liền với các anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, các danh nhân Trần Nguyên Đán, Lê Thánh Tông…
Địa linh nơi đây được tạo hoá ban cho đủ cả tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang. Là sự quần tụ hiếm có của đất trời và cảnh vật. Chả thế mà Nguyễn Trãi đã về đây dựng nhà làm thơ, lắng nghe chim hót, rồi lên đỉnh núi cao nhất chơi ở bàn cờ tiên
http://ne0.upanh.com/b5.s19.d2/766e2...enbanctien.jpg< Đường lên Bàn cờ Tiên.
Đến Côn Sơn nhiều nhất và thường xuyên nhất có lẽ chính là những người thích ngồi thiền, tập khí công. Do được tạo hoá ưu đãi cùng với sự tu luyện lâu đời của thiền phái Trúc Lâm, Côn Sơn được đánh giá là nơi rất thích hợp cho những người tập khí công tu luyện.
Tứ linh tại Côn Sơn gồm đủ 4 đỉnh núi long, ly, quy, phượng. Nếu ngồi tại đồi trung tâm sẽ thấy đủ cả tứ linh quần tụ xung quanh.
Người ta thường đến Côn Sơn ngồi thiền, tập khí công tại đồi trung tâm, hoặc lên Long Đình trên núi Ngũ Nhạc Linh Từ, hoặc luyện chân hỏa tại Thạch Bàn (phiến đá lớn ven suối rất đặc biệt). Mệt mỏi có thể ra giếng Ngọc múc nước uống.
http://ne9.upanh.com/b4.s4.d4/fd7fcd...2jpg091700.jpg
Khi ngồi ở đồi trung tâm hoặc núi Ngũ Nhạc Linh Từ, người tập khí công ngồi kiết già hoặc bán già, nhắm mắt, thẳng lưng, miệng khép, lưỡi đặt hàm trên, đầu hơi ngửa. Để cho tinh thần thật thoải mái, hơi thở sâu, đều, chậm rồi từ từ cho “khí” thiêng từ những cơn gió, từ mặt trời đỏ, từ hồ nước Côn Sơn, từ cây cối, từ dưới địa cung xoáy vào cơ thể cho bản thể được hòa với vũ trụ. Hoặc để cho “tứ linh khí” đi vào cơ thể triệt tiêu bệnh tật, khí huyết, kinh mạch lưu thông. Tất cả cùng tĩnh tâm để đến khi mở mắt ra bỗng thấy sảng khoái trong cơ thể mà thấy yêu đời, yêu thiên nhiên, con người, cuộc sống.
http://ne9.upanh.com/b4.s19.d1/41a7f...9.conson11.jpg
Lễ hội Côn Sơn diễn ra vào tháng 8 âm lịch, là ngày kỵ Đức thánh Trần Hưng Đạo - tháng tám giỗ cha. Người dân các nơi lại tụ về dự lễ hội, dâng hương, leo núi vãn cảnh.
Nhưng thời gian này cũng là lúc mùa nấm thông rộ sau những cơn mưa mùa hạ. Vốn dĩ, núi Côn Sơn nhiều thông, tán thông khép, lá thông rụng xuống phủ kín mặt đất khiến cho cỏ không thể mọc được. Lá thông khô gặp mưa rồi khi nắng lên là lúc nấm thông rộ tràn lan trên mặt đất
http://ne5.upanh.com/b2.s15.d2/4a221...961435.cs7.jpg
Nấm thông màu vàng sẫm. Sau cơn mưa khoảng hai ngày, khi nắng lên, nấm thông bắt đầu mọc và đó là lúc hái nấm thú vị nhất. Gạt nhẹ đám lá thông trên mặt đất, những đám nấm lộ ra, cấu nhẹ gốc, chỉ hái phần cuống thân và mũ nấm. Chú ý tránh không để nấm bị giập dù và cuống nấm. Nấm thông hái về có thể chế biến ăn ngay hoặc phơi khô để dành. Nấm thông chỉ cao khoảng 3 – 5cm, dù mở nhỏ như đồng xu. Có thể hái nấm thông khi đã bung dù hoặc khi nấm mới nhú cao. Nên chọn nấm ở những nơi chỉ có lá thông mà không có bất cứ loài cây nào khác mọc chen. Điều này có thể giữ cho nấm khỏi bị nhiễm độc và giữ cho nấm thông không bị lẫn mùi.
http://ne1.upanh.com/b6.s8.d1/5cfcf8...3jpg091700.jpg
Khi chế biến nấm thông, cần nhặt kỹ, bấm cho hết gốc dính đất hoặc mùn lá thông. Nhặt riêng cuống và dù nấm. Rửa sạch và vẩy cho ráo nước. Xào cuống nấm trước cho chín mềm rồi cho dù nấm vào đảo đều. Khi ăn thấy nấm mềm, giòn, cuống nấm không bị dai có vị thơm thoang thoảng của nhựa thông, nấm có màu vàng nhạt của ráng mỡ gà là được. Nhớ xin chai nước giếng Ngọc về nấu với nấm thông.
Đến với Côn Sơn để tưởng nhớ về những anh hùng dân tộc, được nhắm mắt ngồi thiền cho linh khí đất trời nơi đây tụ vào đan điền cho cơ thể khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái; được hưởng cái mát ngọt của nước giếng Ngọc và được thưởng thức nấm thông với mùi vị không một thứ nấm nào có được. Hãy một lần thưởng thức nấm thông Côn Sơn để không bao giờ quên được.
(theo lao dong)
Đền Dọc Di Tích Lịch Sử..
http://ne0.upanh.com/b5.s7.d1/cb8e7c...0.9772131s.jpg
Đền Dọc thuộc thôn Lạc Dục, xã Hưng Đạo (Tứ Kỳ) là một ngôi đền cổ thờ bà Vũ Thị Đức, người đã có công giúp vua Lê đánh giặc. Đền đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hoá từ năm 2005.
Theo cuốn Thần tích do Nguyễn Bính phụng soạn vào mùa xuân năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và các tài liệu còn lưu giữ tại chùa, đền Dọc được xây dựng vào thời Hậu Lê, thờ thánh mẫu Vũ Thị Đức, người có công nuôi 2 con "tâm nhân mình xà", hiệu là Hắc Long Quân và Bạch Long Quân, tương truyền đã hiển linh phù vua Lê đánh giặc cuối thế kỷ 15
http://ne6.upanh.com/b4.s10.d1/6eb79...ckieuthanh.jpg
Trong kháng chiến chống Pháp, đền Dọc là nơi trú quân của du kích và bộ đội địa phương đánh giặc trên đường 391, điển hình là trận đánh ngày 10/12/1948 đã gây cho địch nhiều tổn thất. Để ngăn chặn lực lượng du kích và bộ đội của ta, địch đã đốt và san phẳng ngôi đền. Suốt một thời gian dài đền trở thành khu hoang tàn, nhân dân không nơi thờ cúng.
Hầu hết các sắc phong của Thánh Mẫu đều bị thất lạc, chỉ còn lưu giữ được 3 sắc phong của triều đại Lê - Nguyễn, đó là: năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Duy Tân năm thứ 3 (1090), Khải Định năm thứ 9 (1924). Đến năm 1989, nhân dân trong thôn đã quyên góp tiền của, vật liệu dựng được 3 gian hậu cung, 5 gian tiền tế, 5 gian nhà khách. Mặt bằng đền có kiến trúc hình chữ Đinh (T); mái tiền tế bao gồm hệ thống hoành, rui bằng gỗ lim chắc chắn, lợp ngói mũi truyền thống, bờ nóc, bờ cánh mềm mại; trên mái đắp lưỡng long trầu nguyệt và lạc long; xung quanh khu di tích vẫn giữ được 2 ao như xưa kia, có cây xanh, cảnh quan khá đẹp
http://ne1.upanh.com/b2.s11.d4/38e70...lehoxemhoi.jpg
Tưởng nhớ công ơn của Đức Thánh Mẫu, hằng năm nhân dân trong thôn thường tổ chức lễ hội truyền thống từ ngày 11 đến ngày 13 tháng giêng (âm lịch). Trong đó, ngày 11 rước kiệu Đức Thánh Mẫu, Đức Thánh Ông và hai Đức Thánh Tử từ đền về đình làng, ngày 13 rước ngược trở lại. Trong lễ hội, thôn còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian. Với bề dày lịch sử, năm 2005, đền Dọc được UBND tỉnh công nhận di tích lịch sử văn hoá.
Những năm gần đây, cán bộ và nhân dân trong thôn Lạc Dục luôn quan tâm đến việc bảo tồn đền Dọc. Nhân dân trong thôn đã công đức trên 1,3 tỷ đồng xây dựng và tu bổ đền Dọc với kết cấu nhà tiền bái 5 gian, 8 mái và hậu cung. Toàn bộ công trình đền Dọc đã được khánh thành vào cuối năm 2009, đáp ứng lòng mong mỏi của cán bộ và nhân dân.
(theo TCDL)
Dinh Thự Của Những Ông Vua Bản Mường
http://ne0.upanh.com/b4.s8.d4/02bcd6...2110.2201h.jpg
Những cái tên Vương Chí Sình, Hoàng A Tưởng, Đèo Văn Long... "vua" bản mường một thời lừng lẫy dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. Sau Cách mạng Tháng 8/1945, những ông "vua" này không còn nhưng những dinh thự của họ vẫn còn đó.
Dinh thự nhà họ Vương
Ai đã từng đặt chân lên Đồng Văn (Hà Giang), nơi cực Bắc của Tổ quốc đều muốn ghé thăm dinh thự nhà họ Vương nằm dưới thung lũng Sà Phìn. Dinh thự được xây dựng từ thời Vương Chính Đức, một quan Bang tá do chính quyền bảo hộ dựng lên để cai quản vùng đất biên ải hiểm yếu bậc nhất Việt Nam.
Nằm trên con đường buôn bán thuốc phiện từ vùng Tây Nam Trung Quốc tới Miến Điện vào Việt Nam và các nước Đông Nam Á, Đồng Văn có độ cao trung bình trên một ngàn mét so với mặt nước biển, lại là vùng núi đá rất phù hợp với việc trồng cây thuốc phiện.
http://ne9.upanh.com/b3.s17.d2/5d7b1...2119.2203h.jpg< Cửa vào tiền dinh.
Vương Chính Đức trở thành một mắt xích quan trọng trong đường dây buôn bán nha phiến, ông bỗng chốc trở nên giàu có và đầy quyền uy, tự phong là “vua” xứ Mèo Hà Giang.
Dinh thự nhà họ Vương được xây dựng cuối thế kỷ 19 do hơn 300 thợ dân tộc Hồi (Trung Quốc) xây dựng trên một gò đất hình mai rùa nằm giữa thung lũng Sà Phìn, do thầy địa lý Trung Quốc chọn. Nhà tựa vào lưng núi, mặt quay ra phía thung lũng xoải dài, phù hợp với thuyết phong thuỷ của người Tàu.
http://ne9.upanh.com/b5.s4.d4/b39ed4...9.37396541.jpg< Toàn cảnh nhà vua Mèo.
Kiến trúc của khu nhà mang đậm phong cách kiến trúc phong kiến Trung Hoa, bao gồm: Tiền đinh, trung đinh và hậu đinh. Nối ba lớp nhà hai tầng bằng gỗ, tường đất nện (kiến trúc của dân tộc Mông Dao, Pa Dí, Hà Nhì… vùng núi cao) là khoảng sân lát đá. Nơi ở của “vua” là ngôi nhà phía trong cùng tường xây bằng đá, phía sau có một đường hầm thoát hiểm. Các ngôi nhà đều lợp ngói âm dương, một số hoạ tiết trang trí là những bông hoa thuốc phiện, nhờ những bông hoa ấy mà Vương Chính Đức mới trở thành “vua Mèo” nơi vùng biên viễn. Xung quanh dinh thự là một lớp tường đá dày 0,8m có nhiều lỗ châu mai và chòi canh gác
http://ne9.upanh.com/b6.s4.d1/4d3dac....cd17dinh1.jpg< Dinh thự nhà họ Vương trước khi trùng tu.
Về mặt quân sự, đây vừa là dinh thự nhưng cũng là pháo đài kiên cố khi có biến. Bởi khu dinh thự nằm dưới thung lũng mà xung quanh là núi đá, nếu những kẻ bên ngoài muốn tấn công, trước tiên phải vượt qua dãy núi đá tai mèo hiểm trở, từ dưới thung lũng lại dễ dàng quan sát được, nên mọi động tĩnh từ phía bên ngoài đều có thể phát hiện ra ngay. Do đó, mọi biến động bên ngoài, quân lính của nhà họ Vương kịp thời nắm bắt để báo cho ông chủ ứng phó
http://ne6.upanh.com/b1.s9.d4/254274...2146.2204h.jpg< Mặt tiền dinh giữa.
Khi Vương Chính Đức mất trao lại quyền cho người con thứ tên là Vương Chí Sình. Cách mạng Tháng 8/1945 bùng nổ, quân của Vương Chí Sình đã phối hợp với quân của Mặt trận Việt Minh đánh đuổi quân Pháp chạy khỏi Hà Giang. Sau ngày Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Vương Chí Sình tham gia Quốc hội khoá I và kết nghĩa làm anh em, đổi tên cho ông là Vương Chí Thành, tặng ông thanh bảo kiếm, ngoài vỏ khắc 8 chữ: "Tận trung báo quốc/ Bất thụ nô lệ"
http://ne3.upanh.com/b5.s2.d4/53413b...153.184089.jpg
Dinh thự Hoàng A Tưởng
Dinh thự Hoàng A Tưởng nằm ở thị trấn Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, trên đường lên Si Ma Cai. Hoàng A Tưởng là người Tày nhưng cai trị ở địa phương có trên 80% dân số là dân tộc Mông, nên được mệnh danh là “vua Mèo”. Hoàng A Tưởng là con Hoàng Yến Chao - Thổ ty vùng cao nguyên Bắc Hà. Trước ngày Lào Cai được giải phóng (11/1950), Bắc Hà không chỉ là con đường tơ lụa nối với Vân Nam qua vùng Trung Á, mà Bắc Hà còn là nơi trung chuyển thuốc phiện từ Trung Á qua Đông Dương xuống khu vực Nam Á và ngược lại. Cao nguyên Bắc Hà trước đây nổi tiếng là vùng cây thuốc phiện, thuế bổ xuống đầu dân bằng thuốc phiện. Sử sách còn ghi, mỗi năm Bắc Hà thu thuế từ 1,8-2,25 tấn thuốc phiện, riêng Hoàng A Tưởng mỗi năm thu không của dân 500 kg thuốc phiện, ép dân bán rẻ 500 kg, đứng đầu đường dây buôn bán thuốc phiện và hàng hoá xuyên Á qua ngả Bắc Hà
http://ne8.upanh.com/b1.s16.d2/49aca....cd17danh2.jpg
Dinh thự Hoàng A Tưởng quay hướng đông nam, lưng tựa vào núi Cô Tiên, đúng theo thuyết phong thuỷ của người Tàu “Tựa sơn đạp thuỷ”, thế rất vững chãi. Kiến trúc của khu dinh thự kết hợp giữa lối kiến trúc cổ của Pháp thế kỷ 17-18 với kiến trúc nhà sàn của người Tày, rất hài hoà nổi lên giữa vùng núi non hùng vĩ. Cửa nhà vòm cuốn, đắp nổi nhiều hoạ tiết dây lá nho, tường gạch nung, móng đá, mái lợp ngói âm dương. Cầu thang đi phía sau nhà, dưới cầu thang là bể hứng nước mưa, trong các phòng đều có lò sưởi
http://ne3.upanh.com/b3.s2.d1/05cab5...213.184092.jpg
Chính giữa là ngôi nhà lớn hai tầng, sàn gỗ, gian chính diện là phòng làm việc, tiếp khách, kế bên là nơi ở của vợ chồng, con cái Hoàng A Tưởng, hai dãy nhà ngang tả-hữu cũng là nhà hai tầng nhưng thấp hơn, đó là nơi ở của các gia nô, binh lính và người giúp việc. Hai ngôi nhà ngang được nối với ngôi nhà chính bằng một hành lang hẹp, các cửa đều quay ra cái sân rộng, nơi Hoàng A Tưởng thường tổ chức múa xoè khi tiếp các quan Pháp, hoặc những nhà buôn và khi lễ Tết.
Xung quanh dinh thự là tường đá bao quanh có lỗ châu mai, mặt tiền là cầu thang hình vòng cung đi lên từ hai phía, trước khi bước vào dinh thự, khách phải dừng chân ở phòng chờ có lính canh gác trước một cánh cửa gỗ nặng trịch dày gần một gang tay
http://ne2.upanh.com/b5.s6.d2/c207a8...222.184090.jpg
Trên tường mặt tiền đắt nổi những khẩu pháo, nhằm phô trương sức mạnh và thị uy những ai khi bước chân vào dinh thự. Dinh thự của Hoàng A Tưởng xây dựng trong vòng 8 năm trời (1914-1921), vật liệu bao gồm: Đá, vôi, cát, mật mía khai thác tại địa phương còn xi măng, sắt thép thì được chở bằng máy bay và ngựa thồ từ Hà Nội và Lào Cai lên.
Sau chiến tranh biên giới tháng 2/1979, tôi đã nhiều lần ngủ trong khu dinh thự này, những cây hoa mộc sau nhà thơm thoảng, nhiều đêm thức giấc nhìn ra ngoài trời sương đêm bảng lảng, tôi có cảm giác những oan hồn mà cha con Hoàng A Tưởng giết hại vẫn lẩn khuất đâu đây
Dinh thự Đèo Văn Long
http://ne3.upanh.com/b2.s10.d2/3f9fb...243.mg6896.jpg
Dinh thự Đèo Văn Long nằm ở ngã tư nơi gặp nhau của con sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay. Trước kia thuộc phường Lê Lợi, thị xã Lai Châu (cũ) sau khi tách Lai Châu thành hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, dinh thự Đèo Văn Long thuộc xã Lê Lợi, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Theo các tài liệu, Đèo Văn Long là con của Đèo Văn Trị, cai quản mười hai xứ Thái (Sipsong Chuthai). Cuối thế kỷ 19, Đèo Văn Trị hưởng ứng Hịch Cần Vương, lãnh đạo sắc tộc Thái và một số dân tộc khác vùng Lai Châu nổi dậy chống Pháp. Sau bị dụ dỗ, Đèo Văn Trị đầu hàng Pháp, mở đường cho chúng tiến vào Mường Thanh, được Pháp khôi phục quyền cai trị vùng đất Sipsong Chuthai bên bờ sông Đà, cho phép cha truyền con nối.
http://ne4.upanh.com/b1.s16.d2/779eb...deovanlong.jpg
Được sự hỗ trợ của Pháp, Đèo Văn Long lên nắm quyền cai trị thay cha, ra sức vơ vét của cải, buôn bán thuốc phiện, lâm thổ sản, hàng hoá, tổ chức những đoàn thuyền lớn lấy sông Đà làm tuyến giao thông chính giao thương với vùng đồng bằng sông Hồng, trở thành người giàu có nhất vùng.
Dinh thự Đèo Văn Long được xây dựng tại nơi 3 con sông gặp nhau, một vị trí hiểm yếu, sau lưng là núi cao trước mặt là sông rộng, ở vị trí yết hầu đó có thể khống chế được con đường lên Phong Thổ, Sa Pa, Mường Tè và xuôi về Hoà Bình cũng như qua ngả Điện Biên sang Lào. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đèo Văn Long mang vợ con chạy sang Pháp. Dinh thự của Đèo Văn Long không có người ở, lâu ngày đã bị đổ nát, trở thành phế tích
http://ne7.upanh.com/b5.s7.d4/9db183...eovanlong1.jpg< Một phần dinh thự Đèo Văn Long ngày nay được làm trường học.
Những gì còn sót lại cho thấy kiến trúc của khu nhà là kết hợp giữa kiến trúc nhà sàn của người Thái với kiến trúc của người Pháp. Khu nhà chính được xây hai tầng bằng gạch đỏ, sàn gỗ, xung quanh ngôi nhà chính là những khu nhà nhỏ dành cho người ở và binh lính, xung quanh là tường bao xây bằng gạch và đá dày trên 40cm, có nhiều lỗ châu mai, cao trên 3m. Trước khu nhà có sân rộng để múa xoè khi tổ chức tiệc tùng. Mái lợp ngói tách ra từ những phiến đá, người dân gọi là đá giấy, lúc mới tách đá mềm có thể dùng dao cắt được, nhưng khi gặp nắng đá trở nên cứng như sành.
Trước đây, tỉnh Lai Châu có dự kiến trùng tu dinh thự Đèo Văn Long, nhưng khi triển khai công trình thuỷ điện Sơn La, thì toàn bộ khu dinh thự Đèo Văn Long sẽ bị ngập dưới lòng hồ. Sau tháng 10/2010, khi nước hồ Sơn La dâng thì toàn bộ khu dinh thự của ông “vua Thái” đều nằm dưới thủy cung
(theo Nông Nghiêp VN)