“Quá khứ nào buồn bã rêu phong
Thời gian nào dọc ngang tơ nhện…“.

Vậy quá khứ có mùi gì? Thời gian có mùi gì? Không biết! Chỉ biết kẻ thức giả khuyên rằng bất luận thế nào thì cũng nên đóng cho kín quá khứ lại, đừng có dại mà mở nó ra. Ví dụ như một câu chuyện dân gian sau đây:

Chuyện kể rằng ở vùng nọ có ông quan rất to tên Mỗ. Vốn là người học hành đỗ đạt, cũng thỉnh thoảng thi phú lăng nhăng. Song lại là người nổi tiếng đểu cáng, bất nhân bất nghĩa, bất chấp liêm sỉ, Chữ nghĩa, học thuyết… phun ra phì phì. Mỗ muốn nói xuôi, nói ngược gì thiên hạ cũng đều phải nghe, đều phải cho là chân lý. Kẻ khác muốn nói cái gì nhất nhất đều phải uốn lưỡi theo ý Mỗ, Mỗ cho nói thì được nói, bắt câm là lập tức phải câm… Vì thế những kẻ tử tế, có chút liêm sỉ trong thiên hạ lúc nào cũng nhất tề im lìm như một đàn hến, lặng ngắt như một đám tang. Kẻ ngoài nhìn vào tuy vẫn thấy ầm ĩ đấy, nhưng tất cả chỉ vo ve độc một giọng Mỗ mà thôi.

Có lẽ vì cái đểu cao ngất ấy mà trời phạt. Mặc dù Mỗ có vô số vợ rải khắp thiên hạ, nhưng lại đẻ ra rặt những giống chó lợn, nếu không thì cũng hao hao cầy cáo… chẳng đứa nào được ra cái hồn người. Gần sáu chục tuổi, Mỗ vẫn chưa có đứa con nào khả dĩ có thể nối được cái “đức“ của mình. Nghe người ta đồn nơi có mả Chúa là một chốn rất thiêng, có thể cầu gì được nấy, thiên hạ vẫn ngày ngày xếp hàng đến vái đông như trẩy hội. Mỗ bèn huy động lâu la quét dọn đường sá, chuẩn bị lễ vật. Lại sai tìm thuê bằng được một lão thầy cúng cao tay ấn rồi tiền hô hậu ủng, đích thân tới mả Chúa để cúng tế, cầu đẻ được một đứa con cho ra cái giống người.
Bữa ấy tế xong về ngủ, đến khoảng canh ba mơ màng nghe có gió lạ thổi vào trong màn, bất chợt lẫn trong bóng trăng khi mờ, khi tỏ, Mỗ nhìn thấy Chúa dắt một đứa bé ngắn độ hai tấc, tròn xoe, mũm mĩm như thiên thần đến bên màn mà bảo:

-Cúng cáp ghê quá, làm cho ta muốn lờ đi cũng không được. Nhưng ta chỉ là nhà môi giới đầu thai thôi đấy. Có gì các ngươi tự thương lượng với nhau.

Nói xong, Chúa biến mất. Còn lại đứa bé, nó khoanh tay lễ phép nói với Mỗ:

-Ông muốn có con hay để sáng mãi cái đức của mình. Phải cái thời buổi này, từ các thiên tinh, đồng tử cho đến những vong hồn, quỷ sứ… đều không ai muốn đầu thai làm người cả. Nay nể Chúa mà tôi phải thí thân đó thôi. Vậy tôi chịu làm con cho ông ba mươi năm được không?

Mỗ ngắm đứa bé thì thích lắm, lại nghe nó nói thế thì mới đầu mừng rỡ. Song nghĩ lại thấy có chỗ không ổn, bèn trả lời:

-Ba mươi năm ngắn quá. Ta còn muốn sống đến trăm tuổi nữa kia. Chẳng lẽ ta phải chôn con trước rồi mới đến lượt ta hay sao?

Đứa bé lại nói:

-Vậy năm mươi năm được không?

Mỗ trả lời:

-Đời người năm chục tuổi vẫn còn là chết non. Ta không muốn con ta lại có cái số kiếp ấy.

Đứa bé tiếp tục nhượng bộ:

-Thôi thì bẩy mươi năm vậy.

Đến đây Mỗ mới gật đầu bằng lòng. Liền đó một trong số vợ bé của Mỗ có mang, đủ chín tháng mười ngày quả sinh ra một đứa bé bụ bẫm, giống hệt đứa bé Mỗ gặp trong giấc mộng ấy.

Đứa bé lớn lên, một tuổi biết đi, hai tuổi biết nói, ba tuổi bắt đầu học chữ, bốn tuổi đã đọc thông viết thạo. Mỗ mừng lắm, quý như cục vàng, sai người chuẩn bị kinh sách, tự mình bịa ra truyền thống, xuyên tạc gia phả… cốt sao dạy nó sau này đểu hơn cả mình. Năm mười ba tuổi, đứa bé dường như đã thấu hết tình đời, kiến thức không thua gì người lớn. Một hôm nó ôm lấy mẹ mà bảo:

-Bố té ra là hạng người không ra gì. Con nghe lời Chúa, đầu thai đã là cái sự ngu, không ngờ lại thác sinh vào chốn đểu, cố được đến ngày hôm nay cũng là bởi vì thương mẹ. Song con cũng phải tìm nơi khác mà làm người thôi. Mẹ đừng buồn, sau này nếu thấy ở đâu có đứa trẻ lên ba không biết nói, một bàn tay nắm chặt giữ một vật gì, thì xin mẹ hãy tìm đến. Đó chính là con đấy.

Nói xong, nó nằm lên giường, nhắm mắt lại rồi không bệnh mà chết. Mỗ đau đến chết đi sống lại, bấy giờ Mỗ đã già, sinh khí tiêu hết không còn đẻ được nữa, đành bấm bụng chọn trong số đám con cầy cáo kia lấy một đứa làm người kế nghiệp. Duy người mẹ không khóc lóc gì, chỉ kiểm lại thì thấy mất cái trâm gài đầu, không biết trong lúc hỗn độn đánh rơi mất ở đâu. Từ đó cứ lặng im ghi nhớ những lời trăn trối của nó rồi kiên nhẫn nghe ngóng, chờ đến ngày gặp lại đứa con.

Sau đó gần bốn năm, nghe đồn rằng làng ấy có vợ chồng một nhà nông phu nghèo đẻ một đứa con trai đẹp như thiên thần. Nhưng không hiểu sao đã lên ba tuổi mà nó tuyệt không mở miệng nói ra tiếng nào, một bàn tay luôn luôn nắm chặt như giấu vật gì, không sao bắt được nó xoè ra. Người vợ bé của Mỗ nhớ tới lời dặn, biết con mình ngày trước đã đầu thai trở lại, bèn bí mật tìm đến xin gặp. Mẹ của đứa trẻ ra mở cổng đón vào, chính là người đàn bà đã dẫm phải cứt trâu ngày trước.

Điều kì lạ đã diễn ra. Đứa trẻ đang nằm im thin thít trên giường, thấy vợ Mỗ tới thì bỗng ngồi nhỏm dậy, mở miệng cất tiếng nói đầu tiên, gọi “Mẹ“ rồi xòe nắm tay ra. Mọi người kinh ngạc nhìn thấy trong lòng bàn tay ấy có một cái trâm gài đầu, giống y hệt cái trâm ngày xưa của vợ Mỗ. Biết đích xác đứa trẻ này đúng là đứa con ngày trước của mình, vợ Mỗ mừng lắm. Bèn kể lại mọi chuyện cho vợ chồng nhà nông phu kia nghe. Vợ chồng nhà ấy cho là chuyện lạ, cũng hết sức vui vẻ mà đồng ý cho vợ Mỗ đi lại thăm nom, coi như con đẻ. Đứa trẻ từ đó thành ra lại có hai bà mẹ ruột, cùng săn sóc, yêu quý nó như nhau…

Đứa trẻ lớn lên, càng lớn càng sáng sủa, thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười. Năm nó được sáu bẩy tuổi gì đó thì Mỗ biết chuyện. Bèn sai lâu la dò xét, biết rõ nơi ở của nó rồi, Mỗ đích thân mò tới nom trộm, quả nhiên thấy nó giống hệt thằng con quí của mình ngày trước. Bấy giờ Mỗ đã già, đường con cái chẳng đứa nào được ra cái giống người, thiên hạ lắm kẻ cứ nhè vào cái nỗi đau ấy mà chửi thầm, chửi vụng. Mỗ nghĩ bụng thôi thì có đứa con khôi ngô, giỏi giang như thế cũng đỡ được phần nào sĩ diện. Không những thế, lại ứng vào cái điềm đại phúc như lão thầy cúng nói ngày trước. Thế là Mỗ lập tức giao cho lâu la tìm cớ dựng chuyện, vu oan giá họa nọ kia… rồi dùng quyền hành bắt đứa trẻ về, công bố nó là con của mình bị thất lạc.

Vợ chồng nhà nông phu kia bị mất con thì ức lắm song thân yếu thế cô, trước quỷ dữ biết làm thế nào. Ngay cả người vợ bé của Mỗ cũng phản đối, không muốn có con theo cái kiểu ăn cướp ấy. Nhưng Mỗ đã muốn là phải được. Từ khi bắt được đứa trẻ về làm con, Mỗ hết sức sung sướng và hãnh diện với thiên hạ vì mình rốt cuộc cũng có được một đứa con thực cho ra cái giống người.

Một hôm, Mỗ dẫn đứa trẻ đến lạy trước bàn thờ tổ tiên. Chẳng hiểu hướng dẫn nó lạy lục thế nào, chỉ thấy nó giơ một ngón tay ra, trỏ một cái vào giữa bàn thờ như kiểu người ta làm phép giải toả. Lập tức, từ nơi đó xông ra một mùi gì hăng hắc, khăn khẳn, y hệt mùi cứt trâu tươi. Mùi đó mới đầu còn tụ một chỗ, sau lan ra nồng nặc khắp nhà trên, nhà dưới, tràn ra cả bên ngoài, làm người ăn, kẻ ở lẫn dân chúng quanh vùng không ai chịu nổi, cứ thi nhau khạc nhổ om sòm. Thằng bé kia quả nhiên cũng có chỗ khác người. Nhưng cái mùi ấy thì rõ là từ chỗ bàn thờ nhà Mỗ mà xông ra, cứ như thể xưa nay nó đã ngự trị sẵn ở nơi đó rồi, có điều chưa ai ngửi thấy mà thôi.

Mỗ hoảng hốt không hiểu tại sao thằng bé này lại giải phóng được cái mùi đó ra khỏi cỗ bàn thờ cổ kính và trang nghiêm của nhà mình. Trong đầu chợt nhận ra một điều rằng nuôi nó trong nhà sẽ chẳng khác gì nuôi ong tay áo. Mỗ vội vàng quát lâu la tống cổ thằng bé ra ngoài đường rồi đóng chặt cửa nhà thờ lại, cố tìm cách giam kín cái mùi ấy trong phạm vi nhà thờ cho khỏi làm ô nhiễm môi trường… Thất vọng vì giấc mơ đại phúc không thành, từ đó Mỗ không xuất hiện ở đâu, không rao giảng điều gì với thiên hạ nữa. Phần vì Mỗ đã già, công việc thừa kế đã có đám con cái chó lợn, cầy cáo kia cai quản, phần vì Mỗ phải tự mình canh giữ cái mùi khủng khiếp ấy trong nhà thờ, không cho nó bốc hơi ra bên ngoài để còn giữ thể diện với thiên hạ cho đến hết đời.

Đứa trẻ rốt cuộc lại được trở về với vợ chồng nhà nông phu kia, được tiếp tục sống trong vòng tay yêu thương của hai bà mẹ. Không biết kết cục đời nó về sau thế nào, câu chuyện không thấy đề cập tới. Chắc nó cũng thành một người tử tế bình thường, rồi chìm lẫn vào giữa chốn dân gian, mặc cho các nhà viết sử cứ việc hoài công tìm kiếm, đến nỗi phải bịa tạc nọ kia… Câu chuyện còn kể rằng cái nhà thờ ấy của nhà Mỗ đến bây giờ vẫn còn. Nhưng nó luôn luôn được đóng chặt. Phải có tới mấy lần cửa trong cửa ngoài, kín mít như bưng. Bao nhiêu đời nay không ai dám mở, chỉ sợ cái mùi gì ấy từ cỗ bàn thờ nó lại thoát được ra…(st)