Kết quả 441 đến 450 của 507
Chủ đề: Gởi Tranbinh
-
11-05-2012, 02:19 AM #441
Người đi... còn... chút... riêng mang ?!
Ta về... chỉ có... nắng vàng... hư không ??
Bến chiều.. con gió... mông lung...
Thuyền trôi.. tới bến... Kỳ cùng... vẫn trôi ?!
Vắng Hoa...cánh Bướm...rã rời
Không Trăng ..Mây cũng.. một đời.. héo hon!!
Trách chi.. cái truyện.. vuông tròn
Buồn riêng.. góp lại..để hồn..vấn vương
Tình xưa...lãng đãng.. khói sương...
Trăm năm..một cõi ..vô thường..thế thôi...
-
Post Thanks / Like - 1 Thích, 0 Không thích
danghocco đã thích bài viết này
-
11-05-2012, 02:25 AM #442
-
11-05-2012, 05:19 AM #443
Lâu nay không có tg nên ít có lên mạng. Anh Songhuong vẫn khỏe chứ, thơ văn thi dĩ nhiên là vẫn lai láng như thuở nào. Nhân tiện em tặng anh và mọi người một bức tranh nho nhỏ của mùa hạ thân thương. hehehe...
Hạ Sang
Hạ đã sang rồi trong tiếng Ve
Tu hú ngoài sân réo gọi hè
Phượng đỏ từng chùm vươn cánh thắm
Điệp vàng muôn sắc dưới nắng khoe
Ríu rít bầy Ong rung cánh mỏng
Rộn ràng lũ Dế gáy te te
Mới thấy hôm qua Xuân thắm vậy
Hạ đã sang rồi trong tiếng Ve
phituongcuoc.
Nhớ lại thời còn đi học quá...........
Bao giờ trời lại Thu sang
Mượn Thu một chút nắng vàng tương tư.
phituongcuoc.
-
08-06-2012, 08:35 AM #444
PHƯỢNG XƯA
Hạ về trong vòm phượng
Thắp lửa dấu tình xa
Kỉ niệm nào đi qua
Tiếng ve dường thao thức
Phượng xưa buồn rưng rức
Chao nghiêng mỏi cánh diều
Thả một thời trót yêu
Vào trong chiều hoang gió
Người xa xăm mờ tỏ
Phương trời nao có hay ?
Nỗi nhớ cuối tầm tay
Trong chiều loang xác phượng
Chừng như là hoang tưởng
Chập chờn li rượu cay
Mềm môi trong cơn say
Tình xưa nơi đáy mộ ?
Sao không là giông tố
Cho cánh diều mãi xa
Để trong chiều mình ta
Dấu xưa mờ xác phượng
Huế 7/6/2012
Sông Hương
-
22-06-2012, 03:55 PM #445
Bài thơ Với con của Thạch Quỳ
Tình cờ đọc trên mạng bài viết này thấy hay hay và đôi điều đáng để suy nghĩ. Bài thơ đã hơn 30 năm nhưng mình nghĩ vẫn không cũ. Mời các bạn đọc và cùng suy ngẫm
( Bản từ em trai Nhà thơ)
Bài thơ được đăng ngày 30 tháng 5 năm 1979, trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, số chào mừng ngày 1 tháng 6. Bài thơ đã gây xôn xao dư luận lúc bấy giờ và đã làm cho tác giả lao đao lận đận một thời. Xin đăng lại bài thơ theo bản in trong THƠ THẠCH QUỲ, Nxb HNV, HN-2006, mà anh Vương Cường, em trai của nhà thơ Thạch Quỳ cung cấp, để các bạn đọc và suy ngẫm.
Với con
Con ơi con thức dậy giữa ngày thường
Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá
Qua đường đất đến con đường sỏi đá
Cha e con đến lớp muộn giờ.
Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ
Không thể nào yêu con thay mẹ được
Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt
Thì nói lên để mẹ khâu cho.
Và con ơi trên ấy ngân hà
Có thể rồi con sẽ lên đến được
Nhưng đêm nay thì con cần phải học
Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.
Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con
Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng
Thì con hỡi hãy khêu cho rạng
Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.
Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn !
Mẹ hát lời cây lúa để ru con
Cha cày đất để làm nên hạt gạo
Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo
Bác công nhân quai búa, quạt lò.
Vì thế nên, lời cha dặn dò
Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất
Cha mong con lớn lên chân thật
Yêu mọi người như cha đã yêu con.
Tháng 6/1979
Trở lại 'Với con', một thời lận đận
Hồi ấy nhiều người chép tay chuyền nhau đọc thuộc lòng, bàn luận gần như là một thứ của cấm. Câu chữ trong bài là vậy nhưng có người "luận" ra: "Con" được hiểu là nhân dân; "Chim hót" được hiểu là Đài tiếng nói Việt Nam, rồi phân tích: Bài thơ "Khuyên dân" đừng mải mê mà nghe đài nói...
Tiếp tục suy diễn chủ quan, có người còn cho rằng bốn nhân vật: "mẹ", "cha", "chú bộ đội", " bác công nhân" là thành phần trụ cột: Công - Nông - Binh - Trí thức cũng chưa đưa lại niềm tin...
Cứ theo cách hiểu như thế, bài "Với con" bị coi là có vấn đề và một cuộc họp đã diễn ra để kiểm điểm tác giả.
Xin trích lại bài viết của tác giả Võ Minh Châu đăng trên báo Tiền phong Online ngày 11/09/2008 để các bạn cùng đọc cho vui :
Nói thật, mất nghề
Chúng tôi đã tìm gặp lại nhà thơ hiện nghỉ hưu tại Đường Phong Định Cảng, TP Vinh, Nghệ An. Tôi gợi lại chuyện cũ: Thưa anh chuyện nói "Với con" của anh thời ấy chẳng biết... những "đứa con" đã lĩnh hội được gì qua lời dạy bảo... nhưng "ông bố" đã lắm phen lao đao?
Nhà thơ Thạch Quỳ cười vui kể lại:
"Thời ấy đất nước vừa thoát ra từ những cuộc chiến tranh, nhiều người cứ thấy rằng chúng ta đã thắng lớn trong sự nghiệp giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc nên lý tưởng hóa cuộc sống cho rằng sau 15 - 20 năm đất nước và cuộc sống của người dân mình sẽ là thiên đường.
Hồi đó, nông dân thu hoạch mỗi ngày chưa được một lạng thóc, nhưng trong khi đó phải ăn một ngày ít nhất là hai lạng gạo. Công nhân, trí thức hầu hết ăn hạt bo bo; đến nỗi 9 chị em phụ nữ ngồi bình nhau một cái quần phíp; 10 cán bộ công nhân viên chia nhau một cái xích xe đạp...
Bài thơ "Với con" là nói với con cái trong nhà nhưng thực ra là muốn tâm sự với tất cả mọi người về hiện thực lúc đó. Khi viết bài thơ này tôi rất thận trọng vì đụng vào sự thật ấy là chuyện lớn, không đùa được.
Bài thơ ấy không viết bằng thơ mà được viết bằng Toán. Bởi vì Toán là chỉ có những mệnh đề khẳng định hoặc phủ định, chính xác, rõ ràng, minh bạch. Còn thơ là ý niệm, gợi mở, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Bài thơ được viết theo chủ nghĩa gián cách của Brếch (văn học Đức), là viết bằng đầu, nói bằng trí chứ không phải như thơ ca phương Đông là viết bằng cảm xúc gợi mở để cho người ta lĩnh hội "ý tại ngôn ngoại" đâu!
Bài thơ này có hai tầng. Tầng một chẳng có vấn đề gì. Đó là những lời nói với con trong nhà và bám vào những chi tiết thực tế. Ví dụ: Con đi học thì đừng nhìn cây, nhìn cỏ, nghe chim hót mà chậm giờ... Còn nàng Bạch Tuyết con say mê đọc trong cổ tích cũng không thể thay việc chăm chút của mẹ con hàng ngày. Đằng nào rồi cũng phải mẹ thôi.
Hay là những chuyện như quả đất tròn, vầng trăng tròn mơ mộng cũng chưa cần thiết, cái quan trọng, gần gũi, thiết thực hơn vẫn là cái bánh đa vừng nuôi sống con người. Nghĩa đen chỉ như vậy.
Mọi vấn đề đều nằm ở tầng hai, nhưng ở tầng hai cũng không đơn giản, phân tích, phê phán chỉ tên tác giả, nếu "lơ mơ" sẽ thành suy diễn. Cho nên do cách hiểu áp đặt qua bài thơ, mọi việc bùng lên thành những chuyện phức tạp. Trong thời điểm bấy giờ sự cố ấy xẩy ra cũng là một lẽ tự nhiên thôi mà".
Thạch Quỳ kể tiếp:
"Từ một bài thơ "Với con" nói chuyện trong nhà nhưng bị đưa ra cuộc họp cho là chống chủ trương, chính sách... Ở thời điểm đó, tôi thấy mình lâm vào hoàn cảnh nan giải phải nghỉ việc cơ quan.
Tôi không dám đến nhà ai, bởi đến đâu, gặp ai cũng có thể gây phiền. Tôi sắm một cái cần câu, từ sáng sớm đi lang lang ra hồ Thạch, cuối chiều thì về. Câu cá mãi mấy tháng liền cũng chán, trong người thấy quá mệt mỏi.
Nhân lúc có việc nhà, tôi đã lên tàu ra Hà Nội. Mới sáng sớm chưa rõ mặt người đến nhà người em trai đang là cán bộ giảng dạy, mới nằm khoảng 15 phút đã có tiếng gõ cửa. Một anh công an khu vực đã đến kiểm tra hộ khẩu.
Thạch Quỳ kể với ngữ điệu buồn buồn.
Tôi gợi lại một chuyện liên quan: "Hồi ấy nhà thơ Xuân Diệu về Nghệ Tĩnh, tại buổi giao lưu ở Hội Văn nghệ có người hỏi về bài thơ "Với con" của anh, Xuân Diệu nhận xét: "Chuyện tiếp nhận văn chương trái ngược nhau ở đâu mà chẳng có, việc đấu đá nhau cũng là lẽ thường tình, có điều là sân hẹp nên các hiệp đấu diễn ra tất yếu là căng thẳng và dữ dội hơn...".
Nhà thơ Thạch Quỳ lý giải thêm:
"Vì bài thơ ấy đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam nên nhiều người ở Hà Nội đều biết. Ở Hà Nội dư luận có hai chiều. Nhiều người nói rằng bài thơ ấy cũng bình thường, chẳng cần phải làm to chuyện lên như trong này.
Sau đó Hội Nhà văn đã cử một đoàn 6 người vào tổ chức một hội thảo văn học. Đưa thêm một số tác giả như Hồng Nhu, Bá Dũng, Xuân Hoài... ra để cùng thảo luận, đánh giá.
Bản thân tôi được một số nhà văn nhắc đến nhiều tác phẩm đã viết trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và khẳng định tư tưởng các tác phẩm ấy đều phục vụ cách mạng. Không ai đào sâu vào bài thơ "Với con" nữa...
Cuối năm 1980, báo Nhân Dân đã in lại bài thơ "Với con" kèm theo cả ảnh và tiểu sử tác giả. Bầu không khí xung quanh bài thơ ấy loãng dần ra nhưng bản thân tôi vẫn tiếp tục gặp nhiều phiền toái.
Vì mãi đến năm 1988, Hội nhà văn Liên Xô mới có giấy mời Hội Nhà văn Việt Nam cử một đoàn 10 người sang học tập và tiếp thu tinh thần đổi mới. Hội Nhà văn Việt Nam bỏ phiếu kín chọn những người có tinh thần đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, tôi được chọn làm một trong số 10 nhà văn được sang Liên Xô học.
Nhưng vấn đề là việc khai lý lịch để làm hộ chiếu. Vượt qua cửa ải này không phải là chuyện dễ. Cơ hội để xuất ngoại cứ ngỡ như không bao giờ thành hiện thực...".
Cái bóng ám ảnh và tấm lòng nhân văn
Nhà thơ Thạch Quỳ kể tiếp:
"Tôi lên gặp anh Toàn, chiến sĩ công an phụ trách. Xưa nay tôi làm việc ở Hội Văn nghệ, không biết bên công an. Bây giờ có công văn cho sang học ở Nga, tôi đến hỏi anh về việc làm hộ chiếu... có khó khăn gì không?
Anh Toàn im lặng một lúc rồi trả lời: Chuyện của anh một thời như thế. Bây giờ nếu đưa vấn đề này lên cấp trên thì tôi tin họ sẽ không giải quyết. Vì vậy để tôi suy nghĩ thêm, có cách gì đó sẽ trao đổi lại với anh sau.
Biết mình đã rơi vào cảnh "có vấn đề" về nhân thân, tôi đã bộc bạch tâm tư và nhờ anh Toàn giúp đỡ.
Hôm sau tôi lên gặp, anh Toàn nói:
Đúng là có nhiều báo cáo về anh, một số không tốt lắm, cho nên bây giờ rất khó khăn. Chỉ có một cách nói lại là: Nguồn tin cho các báo cáo đó không chính xác, không đúng với bản chất một người trước đây từng là thầy giáo dạy Toán ở nhiều trường cấp ba và trường sư phạm, sau đó là một nhà thơ.
Nay tôi viết tường trình báo cáo ấy là sai, tôi xin chịu trách nhiệm về sự cả tin của mình. Chỉ có như vậy mới đảo ngược tình thế, có thể tạo điều kiện cho anh... Và quả thật tôi thấy anh cũng chẳng có gì xấu".
Nghe anh Toàn nói vậy, tôi cảm thấy đồng chí công an này có tấm lòng thật lớn lao, lâu nay tôi đã có cách nhìn khác về anh, bây giờ tiếp cận với sự thật mới thấy anh ta thật dũng cảm, độ lượng và nhân văn.
Anh Toàn đã làm văn bản và lên trình bày lên cấp trên. Thủ trưởng cơ quan anh chấp nhận. Trước lúc tôi lên đường sang Liên Xô, công an còn đến tặng quà...
Nhân lúc anh dừng giọng, uống nước tôi hỏi tiếp:
- Sau tai nạn nghề nghiệp ấy anh có rút ra được bài học gì? Những sáng tác của anh sau này theo hướng nào?
Nhà Thơ Thạch Quỳ lại tiếp tục triết luận:
"Bài thơ "Với con", thời đó tôi dám viết lên sự thật, tôi không tính thiệt hơn, được gì, mất gì cho bản thân. Ở thời điểm nào cầm bút viết, thì tôi cũng phải viết những vấn đề bức xúc mà cuộc sống dội vào. Tôi đã không đầu hàng khi đã nhận thức ra bản chất của sự việc. Đó không riêng là nỗi bức xúc của cá nhân mà là sự thúc bách của thời đại, phải khơi dòng mở đường cho sự phát triển.
Hầu hết các vấn đề tôi viết đều là những bức xúc của đời sống, bài nào cũng mang những câu hỏi lớn cần được trả lời. "Với con" không phải là bài thơ hay vì nó được viết bằng Toán.
Là một nhà văn đối diện với cuộc sống, thấy vấn đề gì bức xúc, tôi dồn tâm huyết vào để góp phần tháo gỡ những vấn đề cho toàn dân chứ không phải chỉ là những vui buồn nhỏ của riêng mình.
Cao hứng lên Thạch Quỳ đọc một mạch mấy bài thơ, trong bài nói về mưa có câu: "Ngàn năm mưa hãy còn mưa/ Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào...".
Bốn câu thơ trong bài nói về Galilê gây cho tôi ấn tượng khá đậm:
Trái đất tròn - Ga-li-lê phát hiện
Một mình ông - chỉ một mình thôi!
Cái thời ấy nếu đưa tay biểu quyết
Cả hành tinh chống lại MỘT CON NGƯỜI.
Ngừng đọc thơ, Thạch Quỳ nói như là một sự đúc kết: Còn bao nhiêu vấn đề thơ ca đã nói đến nhưng cuộc sống không dễ làm...
Nguồn: http://thpttanbinh.vnweblogs.com/post/9754/129745
Ý kiến của anh Vương Cường, em trai nhà thơ Thạch Quỳ:
Tôi là Vương Cường, em trai anh Thạch Quỳ, đọc bài này của bạn, trước hết thay mặt anh tôi, cảm ơn bạn. Tuy vậy tôi thấy có mấy điểm cần xem lại (cả tôi và bạn). Một, bài thơ này in ngày 30-5-1980, số chào mừng ngày 1-6 báo Văn nghệ. Hai, không phải năm 1980 báo Nhân Dân in lại mà phải đến 1992 mới in lại trên NDCN. Ba,vì theo trí nhớ nên có câu chưa thật đúng với nguyên bản, tôi muốn gửi lại anh bài chính thức in trong tập THƠ THẠCH QUỲ, Nxb HNV, HN-2006. (Bản đã đăng ở trên- Lê Hoàng)
Còn những chuyện xung quanh bài thơ rất nhiều, bài viết trên chưa phân tích được bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ dẫn đến sai lầm của một số cá nhân chủ quan tận dụng cơ hội quá hạn hẹp và lạc hậu, chứ không phải chủ trương của nhà nước. Tôi không tiện phân tích ở đây. Khi ấy, tôi đã phân tích nên giúp anh tôi bình tĩnh hơn. Thực tế đã chứng minh tôi đúng! Xin cảm ơn anh đã đưa lại bài thơ này.
Viết bởi V. Cường - 10 Feb 2009, 22:11Lần sửa cuối bởi song_huong, ngày 22-06-2012 lúc 04:43 PM.
-
Post Thanks / Like - 2 Thích, 0 Không thích
-
22-06-2012, 06:15 PM #446
Nhân dịp bác Songhuong giới thiệu bài thơ rất hay này, em cũng xin chép lại bài thơ Dặn con của nhà thơ Trần Nhuận Minh mà em đã đọc được từ rất lâu rồi, cũng là những câu nói với con của một người cha, để các bác đọc cho vui ạh.
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
Nhà mình sát đường họ đến
Có cho thì có là bao
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương họ ở nơi nào
Con chó nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này …./
-
22-06-2012, 06:18 PM #447
Cũng nhân tiện xin giới thiệu với mọi người bài thơ một bài thơ của thầy giáo dạy văn mình bút danh Thúc Hà (Hà Thúc Chỉ) trong tập thơ Mưa Biển của thầy...
Gởi Thúc Hải
Thơ này kịp đến tay con
Nhà ta phố đã nổ giòn đón xuân
Nhớ thanh hương cũ cơn châm
Xuân tung xác pháo ấm nồng một ai!
Hoa đào năm ấy chưa phai
Vời trông biển rộng sông dài nhớ con...
Hai mươi lăm tuổi trăng tròn
- Giật mình cứ ngỡ con còn bé thơ
Lo con lạnh, gió đông lùa
Bố quên bên ấy con đùa tuyết rơi
Nhắc con học chớ ham chơi
Bố quên con đã một thời... (giáo viên)
Nhắc con thuốc, rượu chớ nghiền
Bố quên con đã từng quen khổ nghèo
Con khoe bạn gái... tình yêu
Bố quên con có những chiều cô đơn
Đó đây cũng quả đất tròn
Nơi đâu con cũng là con của nhà
Sông dài bởi suối nguồn xa
Hoa thơm cũng tự đậm đà đất quê!
Chiều nay chở lá giong về
Bố trông bóng mẹ bên hè đợi con.
1988Lần sửa cuối bởi 6789, ngày 22-06-2012 lúc 06:21 PM.
Điềm tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu
-
09-10-2012, 12:06 AM #448
CHÚT TÌNH THU
Chút tình thu đã sang sông
Giờ em tay bế tay bồng phương xa
Lá vàng phố nhỏ chiều qua
Đèn lồng như hạt mưa sa lưng trời
Chút tình thu muộn người ơi
Bên kia bến mộng còn lời hôm nao ?
Biển chiều nắng gọi lao xao
Giưã muôn trùng sóng cồn cào... em tôi
Chút tình thu đã xa xôi
Đếm từng chiếc lá rơi rơi ngập lòng
Hỏi ai còn nhớ hay không
Chuyến tàu đưa tiễn giữa dòng mưa nghiêng
Chút tình thu rẽ tơ duyên
Người đi chiều lạc về miền hư không
Ừ thôi tay bế tay bồng
Chiều... ta với ngọn đèn lồng tri âm
Huế 8/10/2012
Sông HươngLần sửa cuối bởi song_huong, ngày 09-10-2012 lúc 12:48 AM.
-
20-10-2012, 05:13 AM #449
Chúc chị em nói phụ nữ nói chung, chị em trên diễn đàn Thăng Long kỳ đạo ngày 20/10 vui vẻ và hạnh phúc
Lần sửa cuối bởi song_huong, ngày 20-10-2012 lúc 05:18 AM.
-
22-10-2012, 08:51 PM #450
NỬA
Trong chiếc lá rơi rơi
Có chiều nao tiễn biệt
Nửa lời yêu tha thiết
Xót lòng nhau vì ai ?
Nghe trong lá thu phai
Chiều rơi hờ tình muộn
Nửa vầng trăng nghiêng xuống
Xót lòng nhau làm chi ?
Từ độ cánh chim di
Bay qua miền vô thức
Nửa mùa thu rưng rức
Xót làm chi hỡ người ?
Phía sau ánh mắt cười
Nửa vòng tay lạc lõng
Lời nao như bong bóng
Trong màn mưa đời nhau ?
Chỉ còn đến muôn sau
Nửa lời yêu vụn vỡ
Phương trời nao có nhớ
Nửa chiều phai trong thu ?
Huế 22/10/2012
Sông HươngLần sửa cuối bởi song_huong, ngày 22-10-2012 lúc 08:55 PM.
Gởi Tranbinh
Đánh dấu