Kết quả 1 đến 2 của 2
Chủ đề: Dịch thơ
-
04-07-2012, 07:25 AM #1
Dịch thơ
Người La Mã là những người đầu tiên làm công việc dịch thuật từ thời cổ đại. Năm 196 trước công nguyên, các thành bang Hy Lạp chịu nhận sự bảo hộ của La Mã. Người La Mã chiến thắng và cai trị người Hy Lạp nhưng họ vốn rất ngưỡng mộ nền văn minh và văn học của Hy Lạp, và họ đã dành rất nhiều nỗ lực để dịch các tác phẩm văn học của Hy Lạp, trong đó, những trường thiên anh hùng ca Odyssey và Iliad của thi hào Homer vốn là những viên ngọc bất hủ. Ngay khi phát minh dịch thuật, người La Mã đã dịch thơ. Tác phẩm văn học của tất cả các quốc gia thời cổ đại chủ yếu là thơ. Đó là loại tác phẩm dễ lưu truyền bằng miệng và theo trí nhớ khi các phương tiện in ấn chưa ra đời. Kinh nghiệm sớm về dịch thuật của họ cũng là kinh nghiệm dịch thơ. Nhưng chỉ đến nửa sau thế kỷ 17, nhà thơ, kịch tác gia kiêm nhà phê bình văn học người Anh John Dryden (1631-1700) mới tổng kết kinh nghiệm của các thế hệ những những nhà nghiên cứu dịch thuật để đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể cho một dịch giả. John Dryden đòi hỏi người dịch thơ phải là một nhà thơ, phải nắm vững cả hai ngôn ngữ, và ngoài việc phù hợp với các tiêu chuẩn thẩm mỹ của thời đại của mình dịch giả phải am hiểu cả các đặc tính và “tinh thần” của tác giả nguyên tác
Hơn ba trăm năm qua, từ Đông sang Tây, dường như chưa có ai phản bác các yêu cầu này của nhà thơ kiêm nhà phê bình văn học người Anh đó. Không những thế, nhận định của ông ngày càng được khẳng định và có giá trị gần như một “định lý”. Riêng trong nền văn học Việt Nam, cho đến gần đây hầu như các dịch giả dịch thơ bản thân họ đều vốn là nhà thơ, nổi tiếng nhất là nhà thơ Đoàn Thị Điểm đã dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn từ nguyên tác chữ Hán ra chữ Nôm. Có một trường hợp tưởng là ngoại lệ là nhà văn Khái Hưng, người đã dịch một bài thơ từ nguyên tác tiếng Pháp, Mes heures perdues (Những giờ phút mất đi của tôi) vốn được biết nhiều với tên Sonnet d'Arvers (Bài Sonnet của Arvers), bài thơ duy nhất của nhà thơ Pháp Félix Arvers (1806 –1850). Khái Hưng là nhà văn, dường như không thấy nói ông có làm thơ. Nhưng có đọc tác phẩm Tiêu Sơn Tráng Sĩ của ông mới biết ông rất am tường thi pháp cổ điển, không kém gì một nhà thơ. Và bài thơ dịch “Tình Tuyệt Vọng” của ông, “Lòng ta chôn một khối tình / Tình trong giây phút mà thành thiên thu...” chứng tỏ ông là một nhà thơ vững vàng.
Hiện nay tình trạng dịch và giới thiệu mảng thơ của nền văn học cổ đã cho thấy nhiều bất cập. Nhiều dịch giả dịch mảng thơ này bản thân không phải là nhà thơ, thiếu những kiến thức nhất định về văn học, thậm chí chưa nắm vững ý nghĩa trong văn bản ngôn ngữ nguồn và xuệch xoạc với ngôn ngữ đích. “Trong thực tế, đã có biết bao trường hợp những bài thơ được dịch sang tiếng ngoại quốc trở thành đại họa cho tác giả.” Đó là hậu quả tất nhiên từ trình độ non yếu của người dịch.
Từ một số bài thơ của nền văn học cổ điển Việt Nam đã được dịch ra tiếng Anh và xuất bản, có thể thấy được các sai lầm yếu kém làm lộ rõ ba vấn đề căn bản:
Không phải vô cớ mà John Dryden đòi hỏi bản thân người dịch thơ phải là một nhà thơ trước đã. Trước ông, nhà thơ Anh, Sir John Denham, (1615–1669), đã biết rằng người dịch thơ không phải chỉ làm cái công việc chuyển một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác mà là chuyển cái chất thơ, cái hồn thơ (poesie) từ ngôn ngữ này thành cái chất thơ, cái hồn thơ trong ngôn ngữ kia.
Phần lớn và là phần quan trọng của mảng văn học cổ Việt Nam là thơ. Mà là thơ cổ. Việc dịch những bài thơ đó sang tiếng nước ngoài đúng là rất khó khăn, đòi hỏi người dịch không những phải là một nhà thơ mà còn phải am hiểu văn học và văn học sử Việt Nam đến một chừng mực nhất định. Không đáp ứng yêu cầu này, có thể người dịch không những không chuyển đạt đúng nội dung nguyên tác mà còn gây “đại họa cho tác giả.” Các “tai họa” đó là do
a.- Dịch giả thiếu kiến thức về văn học - Dịch thơ mà không hiểu thơ.
Ai tư vãn là bài thơ của công chúa Ngọc Hân khóc chồng là hoàng đế Quang Trung, được dịch sang tiếng Anh một cách... thật ngộ:
AI TƯ VÃN
Buồn thay nhẽ sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa
Tưởng lời di chúc thiết tha
Khóc nào lên tiếng, thức mà cũng mê...
Dịch:
From LAMENT OF LONELINESS
Such loss: Dew settles, the wind pierce,
Her tears scatter across the desolate landscape.
She remembers the words of his urgent last wishes,
Sobbing, sobbing, sobbing, she seems awake yet in the stupor.
Chỉ với cái tựa và bốn câu đầu tiên được dịch đã thấy cái... tai họa mà bà công chúa xấu số đã phải gánh chịu sau tai họa mất chồng và sắp có thể bị sát hại cả mẹ lẫn con. “Trích” thì được dịch là From. “Ai tư vãn” (Ai: buồn khổ, tư: nghĩ ngợi, vãn: than thở) được dịch là Lament of Loneliness (Tiếng than của sự cô đơn)! “Buồn thay nhẽ” được dịch thành “Such loss” (!). “Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa” thành ra “Her tears scatter across the desolate landscape”! Và “Khóc nào lên tiếng,” thì thành “Sobbing, sobbing, sobbing.”!
Ngoài cách dịch thơ “lạ lùng” đó, dịch giả, vì không có kiến thức cơ bản về văn học sử nên không cảm nhận được nội dung của tác phẩm, đã không biết Ai Tư Vãn là bài thơ khóc chồng của Lê Ngọc Hân, nguyên Bắc cung hoàng hậu của vua Quang Trung. Không biết Ngọc Hân là tác giả bài thơ, là người than khóc, là nhân vật ngôi thứ nhất. Vì không biết thế cho nên trong suốt bản dịch, dịch giả đã nhất mực từ chối thân phận chủ thể của tác giả Ngọc Hân, đẩy tác giả xuống ngôi thứ ba như một người xa lạ – she, và her, và khi bà góa phụ vương giả nói đến chồng mình thì người dịch “buộc” bà dùng những từ he, his và him. Khi tác giả than mình không còn được hàn huyên với chồng, “Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh” thì dịch giả dịch thành: “No longer can they exchange greetings” – Họ không còn chào hỏi nhau được nữa!
Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, người chinh phụ luôn gọi chàng xưng thiếp mà sao dịch giả cũng không hiểu chàng với thiếp nghĩa là gì để cứ một mực gán cho họ là she/her, he/him?
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
Câu 6 trên thì đã rõ nghĩa. Câu 8 dưới có nghĩa là: đi bộ thì thiếp không cưỡi ngựa được, còn đi đường thủy thì thiếp không đi thuyền được, cho nên thiếp rất tiếc không thể theo chàng.
Hai câu được dịch ra tiếng Anh... chẳng ăn nhập vào đâu cả:
The battle calls him away, leaving her in anguish
No longer his mate, once he leaps astride his horse or steps into his boat.
(Trận chiến gọi anh ta đi xa, để nàng/cô ta ở lại trong đau khổ
Không còn là người bạn của anh ta nữa, một khi anh ta nhảy lên lưng ngựa hay bước xuống thuyền của anh ta)!
Và:
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san
Thành ra:
They hold hands, sharing gentle counsel, tender words
He takes a step away and, preoccupied, another step, then pauses.
Her heart, like the moon’s shadow, follows him;
His heart, far away, seeks glory in the Heavenly Mountains
Thôi bỏ qua cách dịch hoàn toàn không đạt, bỏ qua cách dịch word for word mà không nhận ra sự trái nghĩa của từ (bóng trăng dịch thành moon’s shadow, mà shadow là bóng tối, trong khi bóng trăng có nghĩa là ánh sáng trăng), bỏ qua việc dịch giả không hiểu tiếng Việt “nhủ” có nghĩa là dặn dò, không biết “Thiên San” là tên núi vì nó ở... bên Tàu, những điều đó thuộc về khả năng thông hiểu hai ngôn ngữ của dịch giả. Có điều kỳ lạ là dịch giả không biết chàng và thiếp có nghĩa hiện đại là anh và em!
Một dịch giả khác thậm chí ngay cả từ ta nghĩa là... ta, mà vẫn cứ tưởng là một anh chàng nào khác, ở ngôi thứ ba:
Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Thành ra:
Seventeen or eighteen you should be
Cherrished, never leaving his hands.
Và, lạ lắm nhé, cũng trong bài thơ “Vịnh cái quạt giấy” đó của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Thành ra:
A rose fan and powdered cheeks can charm!
Người dịch thơ mà bản thân không phải là nhà thơ, nhưng nếu “nắm vững hai ngôn ngữ - [ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích]” (master of both languages), am hiểu cả các đặc điểm và “tinh thần” của tác giả văn bản nguồn” (understand both the characteristics and “spirit” of the original author), và “phù hợp với các nguyên tắc thẩm mỹ của thời đại của dịch giả” (conforming to the aesthetic cannons of his own age) theo các tiêu chuẩn John Dryden nêu ra, thì có lẽ bản dịch của họ chỉ thiếu một chút chất thơ thôi chớ không đến nỗi xa nguyên tác đến mức “diệt” thật sự như thế.
b.- Dịch giả thiếu kiến thức trong những lãnh vực chuyên biệt – Dịch bừa
Một dịch giả “layman” không hiểu gì về đạo Phật mà dịch thơ thiền sẽ thành một... trò dị hợm ngay tức khắc.
Cũng trong cuốn sách Thơ Nữ Việt Nam..., bài thơ Sắc Không được cho là của thái phi Ỷ Lan (thứ phi của vua Lý Thánh Tông, mẹ của vua Lý Nhân Tông ):
SẮC KHÔNG
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chẳng quản,
Mới khế hợp chân tông.
Khi về già thái phi Ỷ Lan đã đi tu (và làm được nhiều điều tốt, có lẽ để “chuộc” tội làm cho Dương hoàng hậu, vợ cả của vua Lý Thánh Tông, cùng với hơn bảy mươi người cung nữ phải chết. Do những việc làm mang tính “sám hối” này, bà được dân (không hề hay biết những chuyện ghen tuông trong hoàng cung) yêu kính gọi là Quan Âm. Tuy vậy chọn một bài “kệ” của một nhà tu như bài Sắc Không, gọi là “thơ” của bà để giới thiệu ra nước ngoài thì dường như không phù hợp cho lắm. Quan niệm về Sắc và Không của đạo Phật tuy rất cao thâm, nhưng đó là các ý tưởng của Phật giáo, tức là một phần rất lớn nhân loại, những người Phật tử, đã cùng biết, và ngày nay những từ Sắc Không đã trở nên bình thường trên cửa miệng nhiều người, không có gì là đặc biệt của một người, hay của một nhà thơ nữ Việt Nam cần được chia sẻ với thế giới. Có Phật tử nào mà không thuộc Bát Nhã Tâm Kinh “Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không... Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc...”?
Giới thiệu một “bài thơ” như thế vốn đã không “đắc”, mà bài dịch sang tiếng Anh lại biến bài “thơ” đó thành... trò đùa, cho nên hiệu quả thật là tiêu cực.
Đây là bài dịch tiếng Anh:
BEING NON-BEING
Being is non-being, non-being being
Non-being is being, being non-being
Pay no mind to being and non-being
Only then is there unity of the whole.
Being với những non-being đọc lên líu lưỡi nghe như một câu thần chú buồn cười và vô nghĩa. Dịch Sắc và Không là being và non-being là mượn các khái niệm triết học Tây phương, có tồn tại hay không tồn tại, có sống hay không sống, gán ép vào triết học Phật giáo, một cách lấy râu ông nọ cắm cầm bà kia rất thô thiển. Being và non-being không hề có nghĩa tương đương với Sắc và Không trong đạo Phật, và the whole cũng đâu có nghĩa gì là “chân tông”!
không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. – Này ông Xá lợi tử, sắc không khác không, không không khác sắc. Sắc chính là không; không chính là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế cả.)(st)
-
04-07-2012, 07:28 AM #2
c.- Dịch giả dịch từng từ theo nghĩa đen (word for word)
Ngay từ trước công nguyên, Cicero (106–43 BC), một trong các lý thuyết gia dịch thuật nổi tiếng của La Mã có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ dịch giả về sau, đã nhận thấy không nên dịch sát nghĩa đen từng từ (word for word), mà phải chuyển ý của câu hay cụm từ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (sense for sense). Đến nay chúng ta đến sau người La Mã hơn hai ngàn năm, nhưng trong dịch thuật đôi khi việc dịch từng từ vẫn còn là một thói quen dễ dãi và... hấp dẫn không cưỡng được.
Trong bài thơ được gán cho bà Sương Nguyệt Anh đề cập trên đây có câu:
Ải Bắc mây giăng mờ bóng nhạn
Được dịch theo cách word for word thành:
Along the Northen Pass, clouds obscure the single swallow.
Người xưa lấy điển tích Tô Vũ, một tướng của nhà Hán bị Thiền Vu tức vua của người Hung nô (Hsiung-nu hay Hun) bắt và cầm giữ trên biên cương phía Tây bắc nước Tàu trong mười chín năm, ngày ngày phải đi chăn dê. Nhiều lần vua Hán Vũ đế đòi thả Tô Vũ, nhưng Thiền Vu nói Tô Vũ đã chết rồi. Tô Vũ bèn viết thư cột vào chân của rất nhiều chim nhạn để mùa đông giống chim này bay về phương nam tránh rét, thư có thể đến tay đồng bào ông. Nhờ vậy vua Hán có bằng cớ để đòi Thiền Vu trả Tô Vũ về nước.
Do đó, cụm từ “mờ bóng nhạn” trong câu thơ có ý nói không có thư từ tin tức, chớ chẳng phải thực sự nói chi về chim nhạn cả.
Trong một bài khác, bài “Tự Trào” được cho là của nữ sĩ Cao Ngọc Anh có câu:
Chẳng có chi mà lại có danh
Câu thơ có nghĩa là mình không có công trạng hay thành đạt gì mà cũng có tiếng tăm. Từ “danh” trong câu thơ có nghĩa là thanh danh, hay danh tiếng, reputation chẳng hạn, nhưng cả câu đã được dịch một cách mot-à-mot rất... nghĩa đen:
I have nothing, although I’ve a name. (!)
Cũng dịch giả này khi dịch một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán “Ngẫu Thành” của Nguyễn Trãi có câu:
Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư
(Việc đời như một giấc mộng hoàng lương)
Hoàng là màu vàng - yellow. Hoàng lương là hạt kê (màu) vàng chỉ giản dị là “yellow millet”. Ai cũng hiểu cụm từ “giấc mộng hoàng lương” vốn là một điển tích về một anh học trò khó trên đường lên kinh dự thi. Dọc đường, trong một quán trọ, anh tình cờ ngủ quên bên cạnh bà chủ quán đang nấu một nồi chè kê. Trong mơ anh học trò thấy mình đổ tiến sĩ và làm quan suốt vài chục năm thăng tiến vùn vụt, trở nên giàu có sang trọng, vợ đẹp con khôn, một thời lừng lẫy. Bỗng có người tâu lên vua là anh – bấy giờ đã là một đại quan – phạm tội tham nhũng rất nặng. Vua sai điều tra, và với bằng chứng phạm nhiều trọng tội rành rành vị đại quan bị ghép tội tử hình. Đến ngày hành quyết, khi lưỡi đao đoạt mệnh còn chưa kịp bổ xuống cổ, anh học trò hốt nhiên tỉnh dậy, toát mồ hôi khắp người, mừng mình còn sống. Quay nhìn bên cạnh nồi kê của bà lão vẫn chưa chín, nhớ lại “hoạn lộ” mấy mươi năm trong mộng, anh học trò cảm thấy lòng mình nguội lạnh với công danh, bèn mang lều chiếu bỏ về, không thèm đi thi nữa.
Thế mà câu thơ đó đã được dịch thành:
It’s over! Waking from a dream of golden millet.
Chưa nói chuyện câu dịch “phóng” không sát nguyên tác, dịch giả đã dịch chữ hoàng lương theo nghĩa đen của từ nhưng lại thành ra golden millet – hột kê bằng vàng! Chắc là độc giả Tây tưởng có ai đó đi tìm hột kê bằng vàng mà không gặp cho nên than thở “It’s over”!
Trong bài thơ Ai Tư Vãn, công chúa Ngọc Hân đang mơ theo chồng ở thế giới bên kia thì sực tỉnh giấc chiêm bao:
Mơ màng thêm nỗi khát khao
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi.
Được dịch thành:
Such dreams leave her thirsty for him
And more anxious to reach him in the Jade Capital.
Ngọc kinh chẳng qua một cách nói tu từ cho đẹp lời, một euphemism đối với bậc đế vương (Quang Trung) đã chết, chớ có phải một Jade Capital theo nghĩa đen nào đâu! Hơn nữa, Ngọc Hân khát khao được hội ngộ với chồng ở thế giới bên kia mà nói là leave her thirsty for him thì vừa sai lạc vừa sống sượng quá.
Câu hát:
Có đêm thức suốt năm canh
Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò
mô tả phận làm dâu cực khổ của một cô gái trẻ, làm lụng vất vả suốt ngày, đêm về lại phải thức thâu canh nấu rau cháo cho bầy heo chó nuôi trong nhà, nhưng lại được dịch giả hiểu là cô gái phải ăn những thức ăn cho heo cho chó:
Lie awake all night in gloom
Eat pigs’ feed, dogs’ gruel, my life doomed!
Hoặc, trong bài “Ai Tư Vãn”, công chúa Ngọc Hân than mình vì các con mà còn phải sống chớ hồn phách luôn dõi theo (hồn phách của) chồng ở khắp noi:
Theo xa thôi lại theo gần
Theo phen điện quế theo lần nguồn hoa
Được các dịch giả khác dịch thành:
She followed him far off, followed him close by
Followed him to the quarters of wemen in the palace, (!)
Dịch giả như thế và dịch theo những cách như thế thì liệu việc giới thiệu văn học Việt Nam sẽ đạt được kết quả gì?
2. Dịch cho ai đọc?
Đã dịch ra tiếng nước ngoài thì đương nhiên là dành cho người nước ngoài đọc chớ sao? Vì dịch là với mục đích giới thiệu văn học của ta ra nước ngoài mà. Có lẽ không đơn giản như thế, hoặc một vài dịch giả không nghĩ đơn giản như thế. Họ dịch... cho người Việt Nam biết tiếng Anh đọc! Đó là một tình trạng rất dễ nhận thấy.
Liệu có người nước ngoài nào hiểu được bà Huyện Thanh Quan nói gì qua hai câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” được dịch ra tiếng Anh một cách khôi hài như dưới đây:
“Quốc quốc”, the swamp hen laments,
“Gia gia”, the patridge cries.
Chỉ có độc giả người Việt mới hiểu, vì đã biết những từ “quốc quốc”, “gia gia” nghĩa là gì trong câu thơ nguyên tác:
Nhớ nước đau lòng con “quốc quốc”,
Thương nhà mỏi miệng cái “gia gia”
Dịch thế đời Tam Quốc gọi là Tuyệt diệu hảo từ
Những từ tiếng Việt không dấu vốn là tàn tích của một thời nô lệ gần đây mà dường như nhiều người quên mất ý nghĩa của chúng. Khi những người thực dân Pháp thiết lập nền cai trị trên đất nước ta, tiếng Pháp, ngôn ngữ của kẻ thống trị được sử dụng chính thức trong mọi lãnh vực; tiếng Việt bị đẩy xuống vai trò ngôn ngữ phụ “của thổ dân” như một ngoại ngữ. Những nhà cai trị người Pháp không thấy có lý do nào cần thiết phải đúc thêm các con chữ thích hợp để in đúng chính tả vài tiếng Việt thỉnh thoảng xuất hiện trong các báo cáo hay trên báo chí của họ. Kết quả là những từ tiếng Việt được in ra không có dấu giọng (accent marks) lẫn dấu phụ của nguyên âm (diacritical marks). Một số người Việt tưởng phải viết ngôn ngữ của dân tộc mình một cách trần trụi như thế thì mới văn minh và ... sang như Tây. Thế là họ bắt đầu xóa bỏ hết các dấu trong tên tuổi của minh trên danh thiếp... và bắt chước Tây phát âm những từ tiếng Việt lơ lớ một cách ngọng nghịu, và gọi các địa danh của đất nước mình theo cách gọi của người Pháp: Hạ Long thành Along, Láng Thọ (trung tâm thành phố Sài Gòn bây giờ) thành Lăng Tô, Hương Bì thành Uông Bí, vân vân... Trong lúc đó, khi viết và đọc tiếng Pháp của “mẫu quốc” thì họ cắc ca cắc củm viết cho đúng một cédille trong chữ Française, cái dấu sắc của chữ café, cái dấu huyền trong chữ frère và dấu apostrophe chẳng hạn cho từ Sonnet d'Arvers trên đây...vân vân. Thiếu những cái dấu đó trong tiếng Pháp là dấu hiệu họ không rành tiếng mẫu quốc khiến họ xấu hổ, còn thiếu những dấu đó trong tiếng Việt và phát âm ngọng nghịu tiếng mẹ đẻ là dấu hiệu theo kịp văn minh hoặc đã được dự phần dồng hóa vào giai cấp thống trị sang cả!
Rất tiếc, “dịch” theo cách đó không những không biến những chữ Việt thành tiếng nước ngoài được mà những chữ lai căng “không còn ta mà cũng chẳng phải Tây” ấy chỉ gây bối rối cho người đọc. Nếu một người nước ngoài muốn nói đúng tiếng Việt họ cũng cần chữ có đầy đủ các dấu giọng để làm chuẩn phát âm. Tiếng Việt không dấu không khác gì một con đường lắm ngã ba ngã bảy mà không có một hiệu báo giao thông nào. Người bản xứ chưa chắc đọc hiểu, làm sao người nước ngoài hiểu được?(st)
Dịch thơ
Đánh dấu