Kết quả 1 đến 2 của 2
Chủ đề: Dịch thơ
Hybrid View
-
04-07-2012, 07:28 AM #1
c.- Dịch giả dịch từng từ theo nghĩa đen (word for word)
Ngay từ trước công nguyên, Cicero (106–43 BC), một trong các lý thuyết gia dịch thuật nổi tiếng của La Mã có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ dịch giả về sau, đã nhận thấy không nên dịch sát nghĩa đen từng từ (word for word), mà phải chuyển ý của câu hay cụm từ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (sense for sense). Đến nay chúng ta đến sau người La Mã hơn hai ngàn năm, nhưng trong dịch thuật đôi khi việc dịch từng từ vẫn còn là một thói quen dễ dãi và... hấp dẫn không cưỡng được.
Trong bài thơ được gán cho bà Sương Nguyệt Anh đề cập trên đây có câu:
Ải Bắc mây giăng mờ bóng nhạn
Được dịch theo cách word for word thành:
Along the Northen Pass, clouds obscure the single swallow.
Người xưa lấy điển tích Tô Vũ, một tướng của nhà Hán bị Thiền Vu tức vua của người Hung nô (Hsiung-nu hay Hun) bắt và cầm giữ trên biên cương phía Tây bắc nước Tàu trong mười chín năm, ngày ngày phải đi chăn dê. Nhiều lần vua Hán Vũ đế đòi thả Tô Vũ, nhưng Thiền Vu nói Tô Vũ đã chết rồi. Tô Vũ bèn viết thư cột vào chân của rất nhiều chim nhạn để mùa đông giống chim này bay về phương nam tránh rét, thư có thể đến tay đồng bào ông. Nhờ vậy vua Hán có bằng cớ để đòi Thiền Vu trả Tô Vũ về nước.
Do đó, cụm từ “mờ bóng nhạn” trong câu thơ có ý nói không có thư từ tin tức, chớ chẳng phải thực sự nói chi về chim nhạn cả.
Trong một bài khác, bài “Tự Trào” được cho là của nữ sĩ Cao Ngọc Anh có câu:
Chẳng có chi mà lại có danh
Câu thơ có nghĩa là mình không có công trạng hay thành đạt gì mà cũng có tiếng tăm. Từ “danh” trong câu thơ có nghĩa là thanh danh, hay danh tiếng, reputation chẳng hạn, nhưng cả câu đã được dịch một cách mot-à-mot rất... nghĩa đen:
I have nothing, although I’ve a name. (!)
Cũng dịch giả này khi dịch một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán “Ngẫu Thành” của Nguyễn Trãi có câu:
Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư
(Việc đời như một giấc mộng hoàng lương)
Hoàng là màu vàng - yellow. Hoàng lương là hạt kê (màu) vàng chỉ giản dị là “yellow millet”. Ai cũng hiểu cụm từ “giấc mộng hoàng lương” vốn là một điển tích về một anh học trò khó trên đường lên kinh dự thi. Dọc đường, trong một quán trọ, anh tình cờ ngủ quên bên cạnh bà chủ quán đang nấu một nồi chè kê. Trong mơ anh học trò thấy mình đổ tiến sĩ và làm quan suốt vài chục năm thăng tiến vùn vụt, trở nên giàu có sang trọng, vợ đẹp con khôn, một thời lừng lẫy. Bỗng có người tâu lên vua là anh – bấy giờ đã là một đại quan – phạm tội tham nhũng rất nặng. Vua sai điều tra, và với bằng chứng phạm nhiều trọng tội rành rành vị đại quan bị ghép tội tử hình. Đến ngày hành quyết, khi lưỡi đao đoạt mệnh còn chưa kịp bổ xuống cổ, anh học trò hốt nhiên tỉnh dậy, toát mồ hôi khắp người, mừng mình còn sống. Quay nhìn bên cạnh nồi kê của bà lão vẫn chưa chín, nhớ lại “hoạn lộ” mấy mươi năm trong mộng, anh học trò cảm thấy lòng mình nguội lạnh với công danh, bèn mang lều chiếu bỏ về, không thèm đi thi nữa.
Thế mà câu thơ đó đã được dịch thành:
It’s over! Waking from a dream of golden millet.
Chưa nói chuyện câu dịch “phóng” không sát nguyên tác, dịch giả đã dịch chữ hoàng lương theo nghĩa đen của từ nhưng lại thành ra golden millet – hột kê bằng vàng! Chắc là độc giả Tây tưởng có ai đó đi tìm hột kê bằng vàng mà không gặp cho nên than thở “It’s over”!
Trong bài thơ Ai Tư Vãn, công chúa Ngọc Hân đang mơ theo chồng ở thế giới bên kia thì sực tỉnh giấc chiêm bao:
Mơ màng thêm nỗi khát khao
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi.
Được dịch thành:
Such dreams leave her thirsty for him
And more anxious to reach him in the Jade Capital.
Ngọc kinh chẳng qua một cách nói tu từ cho đẹp lời, một euphemism đối với bậc đế vương (Quang Trung) đã chết, chớ có phải một Jade Capital theo nghĩa đen nào đâu! Hơn nữa, Ngọc Hân khát khao được hội ngộ với chồng ở thế giới bên kia mà nói là leave her thirsty for him thì vừa sai lạc vừa sống sượng quá.
Câu hát:
Có đêm thức suốt năm canh
Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò
mô tả phận làm dâu cực khổ của một cô gái trẻ, làm lụng vất vả suốt ngày, đêm về lại phải thức thâu canh nấu rau cháo cho bầy heo chó nuôi trong nhà, nhưng lại được dịch giả hiểu là cô gái phải ăn những thức ăn cho heo cho chó:
Lie awake all night in gloom
Eat pigs’ feed, dogs’ gruel, my life doomed!
Hoặc, trong bài “Ai Tư Vãn”, công chúa Ngọc Hân than mình vì các con mà còn phải sống chớ hồn phách luôn dõi theo (hồn phách của) chồng ở khắp noi:
Theo xa thôi lại theo gần
Theo phen điện quế theo lần nguồn hoa
Được các dịch giả khác dịch thành:
She followed him far off, followed him close by
Followed him to the quarters of wemen in the palace, (!)
Dịch giả như thế và dịch theo những cách như thế thì liệu việc giới thiệu văn học Việt Nam sẽ đạt được kết quả gì?
2. Dịch cho ai đọc?
Đã dịch ra tiếng nước ngoài thì đương nhiên là dành cho người nước ngoài đọc chớ sao? Vì dịch là với mục đích giới thiệu văn học của ta ra nước ngoài mà. Có lẽ không đơn giản như thế, hoặc một vài dịch giả không nghĩ đơn giản như thế. Họ dịch... cho người Việt Nam biết tiếng Anh đọc! Đó là một tình trạng rất dễ nhận thấy.
Liệu có người nước ngoài nào hiểu được bà Huyện Thanh Quan nói gì qua hai câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” được dịch ra tiếng Anh một cách khôi hài như dưới đây:
“Quốc quốc”, the swamp hen laments,
“Gia gia”, the patridge cries.
Chỉ có độc giả người Việt mới hiểu, vì đã biết những từ “quốc quốc”, “gia gia” nghĩa là gì trong câu thơ nguyên tác:
Nhớ nước đau lòng con “quốc quốc”,
Thương nhà mỏi miệng cái “gia gia”
Dịch thế đời Tam Quốc gọi là Tuyệt diệu hảo từ
Những từ tiếng Việt không dấu vốn là tàn tích của một thời nô lệ gần đây mà dường như nhiều người quên mất ý nghĩa của chúng. Khi những người thực dân Pháp thiết lập nền cai trị trên đất nước ta, tiếng Pháp, ngôn ngữ của kẻ thống trị được sử dụng chính thức trong mọi lãnh vực; tiếng Việt bị đẩy xuống vai trò ngôn ngữ phụ “của thổ dân” như một ngoại ngữ. Những nhà cai trị người Pháp không thấy có lý do nào cần thiết phải đúc thêm các con chữ thích hợp để in đúng chính tả vài tiếng Việt thỉnh thoảng xuất hiện trong các báo cáo hay trên báo chí của họ. Kết quả là những từ tiếng Việt được in ra không có dấu giọng (accent marks) lẫn dấu phụ của nguyên âm (diacritical marks). Một số người Việt tưởng phải viết ngôn ngữ của dân tộc mình một cách trần trụi như thế thì mới văn minh và ... sang như Tây. Thế là họ bắt đầu xóa bỏ hết các dấu trong tên tuổi của minh trên danh thiếp... và bắt chước Tây phát âm những từ tiếng Việt lơ lớ một cách ngọng nghịu, và gọi các địa danh của đất nước mình theo cách gọi của người Pháp: Hạ Long thành Along, Láng Thọ (trung tâm thành phố Sài Gòn bây giờ) thành Lăng Tô, Hương Bì thành Uông Bí, vân vân... Trong lúc đó, khi viết và đọc tiếng Pháp của “mẫu quốc” thì họ cắc ca cắc củm viết cho đúng một cédille trong chữ Française, cái dấu sắc của chữ café, cái dấu huyền trong chữ frère và dấu apostrophe chẳng hạn cho từ Sonnet d'Arvers trên đây...vân vân. Thiếu những cái dấu đó trong tiếng Pháp là dấu hiệu họ không rành tiếng mẫu quốc khiến họ xấu hổ, còn thiếu những dấu đó trong tiếng Việt và phát âm ngọng nghịu tiếng mẹ đẻ là dấu hiệu theo kịp văn minh hoặc đã được dự phần dồng hóa vào giai cấp thống trị sang cả!
Rất tiếc, “dịch” theo cách đó không những không biến những chữ Việt thành tiếng nước ngoài được mà những chữ lai căng “không còn ta mà cũng chẳng phải Tây” ấy chỉ gây bối rối cho người đọc. Nếu một người nước ngoài muốn nói đúng tiếng Việt họ cũng cần chữ có đầy đủ các dấu giọng để làm chuẩn phát âm. Tiếng Việt không dấu không khác gì một con đường lắm ngã ba ngã bảy mà không có một hiệu báo giao thông nào. Người bản xứ chưa chắc đọc hiểu, làm sao người nước ngoài hiểu được?(st)
Dịch thơ
Đánh dấu