Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Đại Nam Quốc sử diễn ca
Close
Login to Your Account
Kết quả 1 đến 4 của 4

Threaded View

  1. #2
    Ngày tham gia
    Jul 2010
    Bài viết
    11,837
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    VI. Nhà Tiền Lý (544 - 603)

    1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập

    Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
    Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.
    Cỏ cây chan chứa bụi trần,
    Thái bình mới có Lý Phần hưng vương.
    Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
    Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.
    Cứu dân đã quyết lời thề,
    Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
    Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
    Đông tây muôn dặm quan hà quét thanh.
    Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
    Cải nguyên Thiên đức, đô thành Long biên.
    Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
    Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.
    Quân Lương đâu đã đến ngoài,
    Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.
    Cùng nhau mấy trận giao binh,
    Thất cơ Tô Lịch, Gia ninh đôi đường.
    Thu quân vào ở Tân xương,
    Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.
    Mới hay " nhật phụ mộc lai,"
    Sấm văn trước đã an bài những khi.


    2. Triệu Quang Phục phá Lương

    Bấy giờ Triệu mới thừa ky ,
    Cứ đầm Dạ trạch, liệu bề tấn công.
    Lý vương phút trở xe rồng ,
    Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh.
    Hương nguyền trời cũng chứng minh,
    Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mâu.
    Từ khi long trảo đội đầu,
    Hổ hùng thêm mạnh, quân nào dám đương.
    Bá Tiên đã trở về Lương,
    Dương Sằn còn ở chiến trường tranh đua.
    Một cơn gió bẻ chồi khô ,
    Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra,
    Bốn phương phẳng lặng can qua ,
    Theo nền nếp cũ, lại ra Long thành.


    3. Lý Phật Tử đánh Triệu quang Phục

    Lý xưa còn có một cành,
    Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lao.
    Chiêu binh lên ở Động đào,
    Họ là Phật Tử cũng vào hội minh .
    Đào lang lại đổi quốc danh,
    Cũng toan thu phục cựu kinh của nhà.
    Cành dâu mây tỏa bóng tà ,
    Bấy giờ Phật Tử mới ra nối giòng,
    Rừng xanh gió phất cờ hồng,
    Đề binh kéo xuống bẹn sông tung hoành.
    Triệu vương giáp trận Thái bình,
    Lý thua rồi mới thu binh xin hoà.
    Triệu về Long đỗ Nhị hà,
    Lý về Hạ mỗ, ấy là Ô diên .
    Hai nhà lại kết nhân duyên,
    Nhã lang sánh với gái hiền Cảo nương.
    Có người: Hống, Hát họ Trương,
    Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu.
    Rằng:" Xưa Trọng Thủy, Mỵ Châu,
    Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
    Mảnh gương vãng sự còn gần,
    Lại toan dắc mối Châu Trần sao nên?"
    Trăng già sao nỡ xe duyên?
    Để cho Hậu Lý gây nền nội công.
    Tình con rể, nghĩa vợ chồng,
    Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.
    Lâu la mới ngỏ tình đâu,
    Nhã lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.
    Trở về giả chước vấn yên,
    Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.
    Triệu vương đến bước vội vàng,
    Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua.
    Đem con chạy đến Đai nha,
    Than thân bách chiến phải ra đường cùng!


    4. Lý Phật Tử hàng Tuỳ

    Từ nay Phật Tử xưng hùng,
    Hiệu là Nam đế nối dòng Lý vương.
    Phong châu mới mở triều đường .
    Ô diên, Long đỗ giữ giàng hai kinh.
    Tùy sai đại tướng tổng binh,
    Lưu Phương là chức quản hành Giao châu.
    Đô long một trận giáp nhau,
    Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn dương.
    Từ giờ lại thuộc Bắc phương,
    Mấy năm Tùy loạn rồi Đường mới ra.


    VII. Nền đô hộ của nhà Đường (603 - 905)

    1. An nam đô hộ phủ

    Quan Tùy lại có Khâu Hòa,
    Đem dâng đồ tịch nước ta về Đường.
    An nam mới lại canh trương,
    Đặt Đô hộ phủ theo đường Trung Hoa.
    Mười hai châu lại chia ra:
    Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Tràng.
    Vũ an, Phúc Lộ, Hoan, Thang,
    Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.


    2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa

    Quan Đường lắm kẻ tham tài,
    Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
    Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
    Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
    Hiệu cờ Hắc đế mở ra,
    Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.
    Đường sai Tư Húc tiếp sang,
    Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công.
    Vận đời còn chửa hanh thông.
    Nước non để giận anh hùng nghìn thu.


    3. Giặc Đồ Bà

    Trấn nam lại đổi tên châu,
    Một đời canh cải trước sau mấy kỳ.
    Xa khơi ngoài chốn biên thùy,
    Đồ bà giặc mọi đua bề phân tranh.
    Bá Nghi hợp với Chính Bình,
    Dẹp đoàn tiểu khấu, xây thành Đại La.


    4. Phùng Hưng khởi nghĩa

    Xiết bao phú trọng, chính hà,
    Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?
    Đường lâm mới có Phùng Hưng,
    Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào.
    Cõi Tây nổi việc cung đao,
    Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tình.
    Đem quân thẳng đến vây thành,
    Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiêu.
    Nhân phủ trị mở ngôi triều,
    Phong châu một giải nhiếp điều mấy niên.
    Đế hương phút trở xe biền,
    Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.
    Phùng An con nối thơ ngu,
    Nghe quan nhu viễn bầy mưu hàng Đường.


    5. Chuyện Lý Ông Trọng

    Kể từ đô hộ Triệu Xương,
    Thành La xây lại vững vàng hơn xưa.
    Thuyền chơi qua bến sông Từ,
    Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao.
    Thấy người hai trượng dài cao,
    Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn nhân.
    Cùng nhau như gửi tâm thần,
    Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tường.
    Lý Ông Trọng ở Thụy hương,
    Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
    Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
    Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ .
    Uy danh đã khiếp Hung nô,
    Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phương.
    Hàm dương đúc tượng người vàng,
    Uy thừa còn giúp Tần hoàng phục xa.
    Hương thơm cổ miếu tà tà,
    Từ nay tu lý mới là phong quang
    .

    6. Quan lại nhà Đường

    Triệu công tuổi tác về Đường,
    Quý Nguyên, Bùi Thái tranh quyền với nhau.
    Triều đình kén kẻ trị châu,
    Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sang.
    Bản kiều vừa nhận dấu sương,
    Bến hồng đã định, khói lang cũng tàn.
    Trương Đan thay chức phiên hàn,
    Tập nghề thủy chiến, tạo thuyền đồng mông.
    Đại la mới đắp lũy vòng,
    Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tu.
    Quan tham ai chẳng oán thù,
    Kìa như Tượng Cổ sư đồ bạn ly.
    Quan hiền ai chẳng úy uy,
    Kìa như Mả Tổng man di đầu hàng.
    Nguyên Gia dời phủ Tô giang,
    Đến năm Bảo lịch dời sang Tống bình.
    Giao châu binh mã tung hoành,
    Thăng Triều đã dẹp, Dương Thanh lại nồng.
    Kìa ai tôn trở chiết xung,
    Mã công tên Thực anh hùng kém chi.
    Tiết thanh cảm vật mới kỳ,
    Dưới dòng Hợp phố châu đi cũng về.
    Kiềm châu xa ruỗi mã đề,
    Hồng bay còn dấu tuyết nê chưa mòn.
    Nhũng quan lại gặp Vũ Hồn,
    Thành lâu lửa cháy, dinh đồn quân reo.
    Đoàn công vâng mệnh Đường triều.
    Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.
    Thôi trung thổ, lại ngoại man,
    Châu Nhai, Nguyên Hựu sai quan mấy lần.
    Nho môn có kẻ tướng thần,
    Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tài.
    Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
    Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đao.
    Châu dân đều thấm ân cao,
    Chiêm thành, Chân lạp cũng vào hiệu cung.


    7. Giặc Nam Chiếu

    Xe thiều vừa trở về Đông,
    Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoài.
    Vương Khoan, Lý Hộ phi tài,
    Đường sai Thái Lập lĩnh bài Giao Châu.
    Biên thư mấy bức về tâu,
    Kẻ xin lưu thú, người cầu bãi binh.
    Ghen công vi hoặc, Thái Kinh,
    Thờ ơ để việc biên tình mặc ai.
    Tiếc thay muôn dặm thành dài,
    Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.
    Ngu Hầu tiếp chiến bên sông,
    Quyết liều một trận đều cùng quyên sinh.
    Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
    Bỏ hàm Đô hộ, đặt hành Giao Châu.
    Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
    Tống Nhung, Thừa Huấn hợp nhau một đường.
    Dùng dằng nào dám tiến sang,
    Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch không.
    Dối tâu lại muốn cầu công,
    Rồi ra sự phát đều cùng nghị lưu.


    8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu

    Cao Biền là tướng lạc điêu,
    Tài danh sớm đã dự vào giản tri.
    Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
    Tiệp thư sai một tiểu ty về chầu.
    Gia quan cho lĩnh tiết mao,
    Đặt quân Tĩnh hải biên vào bản chương.
    Một châu hùng cứ xưng vương,
    Thành La rộng mở, kim thang vững bền.
    Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
    Đào Thiên uy cảng, thông thuyền vãng lai.
    Chín năm khép mở ra tài,
    Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi công.
    Rồi khi trở ngựa Hán trung,
    Cao Tầm là cháu nối dòng xưng phiên.
    Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
    Giao Châu di ký còn truyền một chương.


    VIII. Nhà Ngô (906 - 967)

    1. Họ Khúc dấy nghiệp

    Ba trăm năm lẻ Tùy, Đường,
    Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài,
    Hồng châu Khúc Hạo hùng tài,
    Gặp đời thúc quý toan bài bá vương.
    Cõi nhà hùng cứ nam phương,
    Cung cầu một lễ, Hán Lương hai lòng.
    Qui mô cũng rắp hỗn đồng,
    Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.
    Thừa gia vừa được tái truyền,
    Bởi cầu Lương tiết hóa nên Hán tù.
    Dương Đinh Nghệ lại báo thù,
    Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
    Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,
    Kiều công Tiện lại nỡ lòng sao nên.


    2. Ngô Quyền phá quân Nam Hán

    Dương công xưa có rể hiền,
    Đường lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.
    Vì thầy, quyết chí phục thù,
    Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
    Hán sai thái tử Hoằng Thao,
    Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
    Bạch Đằng một trận giao phong,
    Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.
    Quân thân đã chính cương trù,
    Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương.
    Về Loa thành mới đăng quang,
    Quan danh cải định, triều chương đặt bày.


    3. Dương Tam Kha tiếm ngôi

    Nền vương vừa mới dựng xây,
    Tiếc cho hưởng nước chưa đầy sáu năm.
    Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,
    Cán Long tuyền để trao cầm tay ai?
    Tam Kha là đứa gian hồi,
    Lấy bè thích lý chịu lời thác cô.
    Cành dương đè lấn chồi ngô,
    Bình vương tiếm hiệu , quốc đô tranh quyền.


    4. Nhà Ngô phục hưng

    Ngô vương vốn có con hiền,
    Trưởng là Xương Ngập nối truyền thế gia.
    Trà hương lánh dấu yên hà,
    Hộ trì lại gặp tôi là Phạm công.
    Xương Văn em thứ con dòng,
    Nương mình phủ dưỡng , cam lòng kinh doanh.
    Nhân khi ra đánh Thái bình ,
    Vén tay tả đản , về thành tập công.
    Khoan hình rồi lại giáng phong,
    Tư tình, công nghĩa thủy chung lưỡng tuyền.
    Yên vui lại nhớ anh hiền,
    Rước tìm Xương Ngập chung quyền quốc gia.
    Chi lan xum họp một nhà,
    Anh xưng Thiên Sách, em là Tấn Vương.
    Cùng nhau đều hưởng giàu sang,
    Dù khi chếch lệch biên tường cũng nguôi.
    Bốn năm Thiên Sách vừa rồi,
    Tấn Vương rầy mới chuyên ngôi một mình.
    Sính tài lại hiếu việc binh ,
    Thao giang đã tĩnh, Thái bình lại vây.
    Trận tiền một mũi tên bay,
    Khinh thân vàng ngọc, trách này bởi ai?
    Tiếc thay chửa được lâu dài,
    Mười lăm năm mới hai đời đến đây.



    IX. Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 - 1009)

    1. Thập nhị sứ quân

    Nghiệp Ngô rầy có ai thay?
    Đua nhau lại, phó mặc tay quần hùng.
    Tiên du riêng một đề phong,
    Nguyễn Công Thủ Tiệp cứ vùng Nguyệt Thiên
    Đường lâm riêng một sơn xuyên,
    Ngô Công Nhật Khánh cứ miền Tản Thao.
    Tây phù liệt có Nguyễn Siêu,
    Ngô Xương Xí giữ Bình kiều một phương.
    Tế giang này có Lữ Đường,
    Nguyễn Khoan hùng cứ Vĩnh tường phải chăng?
    Phạm Phòng Át giữ châu Đằng,
    Kiều Tam Chế giữ ngàn rừng châu Phong.
    Đỗ Giang kìa Đỗ Cảnh Công;
    Kiều công tên Thuận ở trong Hồi hồ .
    Kiến ong Siêu loại tranh đua,
    Lý Khuê một cõi trì khu dầu lòng.
    Kình nghê Bố hải vẫy vùng,
    Trần công tên Lãm xưng hùng một nơi.
    Phân tranh hội ấy nực cười!
    Mười hai quan sứ mỗi người mỗi phương.


    2. Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia

    Xây vần trong cuộc tang thương,
    Trải bao phân loạn mới sang trị bình.
    Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
    Con quan thử sử ở thành Hoa lư.
    Khác thường từ thuở còn thơ,
    Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau.
    Dập dìu kẻ trước người sau,
    Trần ai đã thấy vương hầu uy dung.
    Một mai về với Trần công,
    Hiệu xưng Vạn thắng, anh hùng ai qua.
    Bốn phương thu lại một nhà,
    Mười hai sứ tướng đều là quét thanh.


    3. Chính sách nhà Đinh

    Trường yên đầu dựng đô thành.
    Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đây.
    Ngìn năm cơ tự mới xây,
    Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quan.
    Có đưòng bệ có y quan,
    Đẳng uy có biệt, giai ban có thường.
    Tống phong giao chỉ quận vương,
    Cha con đều chịu sủng chương một ngày.
    Hồng Bàng để mối đến nay,
    Kể trong chính thống từ đây là đầu.
    Tiếc không học vấn công phu,
    Chuyện xưa ít biết, lo sau vụng đường.
    Già tăng cũng dự quan sang,
    Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường vũ nhân.
    Nội đình năm vị nữ quân ,
    Nặng tình kiêm ái , quên phần di mưu.
    Đã phong Đinh Liễn con đầu,
    Hạng Lang là thứ nhẽ nào đổi thay?
    Pháp hình cũng lạ xưa nay,
    Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.


    4. Nhà Đinh mất ngôi

    Chơi bời gần lũ tiểu nhân,
    Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mê lòng.
    Trùng môn thưa hở đề phòng,
    Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tay.
    Nối sau Thiếu đế thơ ngây,
    Lê Hoàn tiếp chính từ rầy dọc ngang.
    Tiếm xưng là Phó quốc vương,
    Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
    Bặc, Điền vì nước liều mình,
    Trách sao Cự Lạng tán thành mưu gian


    5. Lê Hoàn phá quân Tống

    Chợt nghe binh báo Nam quan,
    Cùng nhau phù lập Lê Hoàn làm vương.
    Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
    Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
    Trường yên đổi mặt sơn hà,
    Đại Hành trí lược thực là cũng ghê!
    Vạc Đinh đã trở sang Lê,
    Nàng Dương chăn gối cũng về hậu cung.
    Nguy nga ngói bạc, cột đồng,
    Cung đài trang sức buông lòng xa hoang,
    Tự mình đã trái luân thường,
    Lấy chi rủ mối, dựng giường , về sau.


    6. Nhà Lê thất chính

    Đoàn con đích, thứ tranh nhau,
    Để cho cốt nhục thành cừu bởi ai?
    Trung tông vừa mới nối đời,
    Cấm đình thoắt đã có người sính hung,
    Ngọa triều thí nghịch hôn dung,
    Trong mê tử sắc, ngoài nồng hình danh,
    Đao sơn, kiếm thụ đầy thành,
    Thủy lao bào lạc ngục hình gớm thay.
    Bốn năm sầu oán đã đầy,
    Vừa tuần Lê rụng đến ngày Lý sinh.


    X. Nhà Hậu Lý (1010 - 1225)

    1. Lý Thái Tổ

    Bắc giang trời mở thánh minh ,
    Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy .
    Lê triều làm chức chỉ huy,
    Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lên.
    Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
    Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thành.
    Định ra thuế lệ phân minh,
    Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
    Hỗn dồng một mối phong cương ,
    Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
    Cử long sấm dậy binh uy ,
    Diễn châu gió động tinh kỳ thân chinh .
    Biện loan gặp lúc hối minh ,
    Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
    Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
    Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu .
    Ngựa man sang tiến Bắc triều,
    Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vinh.
    Ví hay đạo học tinh minh ,
    Đế vương sự nghiệp nước mình ai hơn?
    Có sao tin hoặc dị đoan,
    Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
    Để cho dân tục tranh đua,
    Ni cô nối gót, tăng đồ chen vai.
    Bởi vì sinh cửa Như lai ,
    Tiêu sơn từ thuở anh hài mới ra.
    Sóng tình chìm nổi ái hà ,
    Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.
    Tự mình đã dựng lệ giai ,
    Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh .


    2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm

    Thái Tông nối nghiệp thủ thành,
    Anh em lại rắp đua giành ngôi cao.
    Cùng nhau binh mã sấn vào,
    Cấm thành bỗng chốc xôn xao chiến trường.
    Trận tiền giết Vũ đức Vương,
    Đông Chinh, Dực Thánh tìm đường chạy xa.
    Khoan hình lại xuống chiếu tha,
    Thân phiên đã định, nước nhà mới yên.
    Ban hình luật, canh tịch điền ,
    Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh .
    Mừng xem ” Phiên phục, Nùng bình” ,
    Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên .
    Vắn dài là số tự nhiên,
    Tụng kinh cầu thọ , khéo nên chuyện cười.


    3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dũng

    Thánh Tông văn học hơn đời,
    Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luân.
    Khuyến nông chăm việc cần dân ,
    Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.
    Thánh hiền tô tượng học cung ,
    Đặt khoa bác sĩ, ưu dung đại thần.
    Ân riêng mưa móc đượm nhuần,
    Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm .
    Hồ tây vui thú Dâm đàm ,
    Nỡ đem của nước xây làm cung tiên.
    Chuông Sùng Khánh , tháp Báo Thiên ,
    Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sao.


    4. Bà Ỷ Lan nhiếp chánh

    Nhân Tông tuổi chửa là bao,
    Ngoài ra triều yết , trong vào giảng minh .
    Thụ di có Lý Đạo Thành,
    Ỷ Lan hoàng hậu buông mành giúp nên.
    Mở khoa bác học cầu hiền ,
    Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
    Có khi xem gặt, xem cầy,
    Lòng chăm điền dã , một ngày mấy tao .
    Mưa ân ngấm khắp dồi dào,
    Chuộc người bần nữ gả vào quan phu .


    5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống

    Thân chinh xe ngựa trì khu ,
    Phá Sa động bắt man tù Ngụy Phang .
    Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
    Ba châu qui phụ một đường thanh di .
    Tống binh xâm nhiễu biên thùy,
    Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh .
    Bên song Như Nguyệt trú dinh ,
    Giang sơn dường có thần linh hộ trì .
    Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
    Như phân địa thế, như trì thiên binh .
    Bấy giờ Tống mới hư kinh ,
    Giảng hòa lại trả mấy thành cố cương .
    Lại còn hối hận một chương:
    ” Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng nguyên”
    Năm mươi năm lẻ lâu bền,
    Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh.
    Thượng dương sao nỡ bạc tình,
    Để bà Dương hậu một mình ngậm oan.
    Kìa Lê văn Thịnh mưu gian,
    Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
    Phật từ như quả chứng minh ,
    Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai .
    Cớ sao Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?


    6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông

    Thần Tông sinh cửa Sùng hiền,
    Dấu hang thi giải còn truyền Sài sơn.
    Thức nồng nhộm vẻ chi lan ,
    Thông minh học vấn kiêm toàn cả hai.
    Năm đầu vừa mới lên ngôi,
    Giảng cầu trước đã mở bài kinh diên .
    Qui nông cho lính canh phiên,
    Rộng ân lại trả quan điền cho dân.


    7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền

    Anh Tông còn thuở xung nhân ,
    Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành .
    Ra vào trong trướng, ngoài mành,
    Cùng Lê Thái Hậu có tình riêng chung.
    Tống giam đã bắt vào trong,
    Mà Lê Hậu lại còn lòng đeo đai.
    Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
    Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát ra.
    Nghị đồ rồi lại được tha,
    Để đoàn Vũ Đái đều là thác oan.


    8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành

    Rồi ra vắng mặt quyền gian ,
    Hiến Thành hết sức cán toàn mới nên.
    Khi triều Tống, khi sính Nguyên ,
    Một niềm cung thuận , đôi bên được lòng.
    An nam Tống mới cải phong ,
    Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm phương .
    Thành nam mở chốn võ tràng ,
    Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ .
    Uy danh rậy đến biên thùy,
    Chiêm thành, Ngưu hống man di cũng bình.
    Tuần du đã tỏ dân tình,
    Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa.
    Trừ quân vì một ấu niên .
    Thác cô nhờ có tôi hiền,
    Dẫu người hối chúc mà quyền chẳng sai.
    Cao Tông ba tuổi nối đời,
    Hiến Thành cư nhiếp , trong ngoài đều yên.
    Di lưu còn muốn tán dương .


    9. Lý Cao Tổ thất chính

    Tiếc không dùng kẻ trung tương ,
    Cao Tông hoang túng mọi đường ai can?
    Dấu xe quanh khắp giang san,
    Chính mình lỗi tiết , du quan quá thường .
    Lại thêm thổ mộc cung tường ,
    Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
    Nhạc Chiêm rầu rĩ khéo bầy,
    Những là tai biến từ này hiện ra.
    Trâu đâu lên ngọn am la ,
    Thước đâu làm tổ góc nhà Kính thiên .
    Bốn phương trộm cướp nổi lên,
    Quân Chiêm, người Tống Quyền cương ngày một đổi dời,
    Phạm Du đã phản lại vời về kinh.
    Bỉnh Di là kẻ trung thành,
    Nghe dèm mà nỡ kim giai .
    Xe loan lánh chạy ra ngoài,
    Hoàng thân đế thích mỗi người một phương.


    11. Họ Trần giúp vua Lý

    Trừ quân đi đến Thiên trường.
    Tình cờ lại gặp một nường tiểu thư.
    Con nhà Trần Lý công ngư .
    Lưới chài nhưng cũng phong tư khác thường.
    Trăng già đưa mối tơ vương,
    Mới hay con tạo mở đường di duyên .
    Họ Trần từ ấy nổi lên.
    Kết bè thích lý , dựng nền tiếm giai .
    Trần Tự Khánh ở phương ngoài,
    Đem quân Hải ấp vào nơi đô thành.


    12. Lý Huệ Tông phát điên

    Huệ tông gặp bước gập ghềnh,
    Nhẹ ân mẫu hậu , nặng tình phu nhân .
    Lạng châu xe đã Bắc tuần ,
    Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đi.
    Gặp quân Tự khánh rước về,
    Đuơng cơn gió bụi bốn bề chưa êm.
    Huệ tông cuồng tật lại thêm.
    Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dài.
    Xuất gia lại muốn tu trai ,
    Ngôi thiêng phó thác cho người đào thơ .
    Đằng sơn bóng nhật đã mờ,
    Hai trăm mười sáu Lý cơ còn gì?”


    13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng

    Chiêu hoàng là phận nữ nhi,
    Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
    Xây vần cơ tạo khéo sao?
    Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong.
    Người yểu điệu, kẻ thư phong ,
    Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây ,
    Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
    Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung .
    Hoa đào đã dạn gió đông.
    Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may.
    Chiếu rồng ban xuống năm mây .
    Mừng rằng nữ chúa ngày nay có chồng.
    Lần sửa cuối bởi 6789, ngày 10-08-2012 lúc 10:55 AM.

Đại Nam Quốc sử diễn ca

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68